Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

TỶ lệ TIỀN đái THÁO ĐƯỜNG và một số yếu tố LIÊN QUAN ở NHÓM NGƯỜI 30 đến 69 TUỔI đến KHÁM sức KHỎE tại BỆNH VIỆN BẠCH MAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.58 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

VEOKHAM SOMVONG

TỶ LỆ TIỀN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NHÓM
NGƯỜI 30 ĐẾN 69 TUỔI ĐẾN KHÁM SỨC KHỎE
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

VEOKHAM SOMVONG

TỶ LỆ TIỀN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NHÓM
NGƯỜI 30 ĐẾN 69 TUỔI ĐẾN KHÁM SỨC KHỎE
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Chuyên ngành



: Nội Khoa

Mã số

: CK 62722015

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS ĐỖ TRUNG QUÂN

HÀ NỘI – 2018


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADA

: American Diabetes Asossiation
(Hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ)

BMI

: Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)

BN

: Bệnh nhân

ĐTĐ


: Đái tháo đường

HOMA-IR

: Homeostasis Model Assessment Insulin Resistance –
(Chỉ số kháng insulin theo phương pháp đánh giá ổn định nội môi).

QUICKI

: Quantitative Insulin Sensitivity Check Index
(chỉ số nhạy insulin)

ĐTĐTK

: Đái tháo đường thai kỳ

GDM

: Gestational Diabetes Mellitus
(Đái tháo đường thai kỳ)

Io

: Insulin máu lấy cùng với Go khi làm dung nạp glucose

Go

: Đường máu trước khi làm nghiệm pháp dung nạp glucose

G120


: Đường máu lúc 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp dung nạp glucose

HA

: Huyết áp

HATT

: Huyết áp tâm thu

HATTr

: Huyết áp tâm trương

HDL-C

: High Density Lipoprotein - Cholesterol
(Lipoprotein trọng lượng phân tử cao)

IFG

: Impaired Fasting Glucose (Rối loạn glucose máu lúc đói)

IGT

: Impaired Glucose Tolerance (Rối loạn dung nạp glucose)

JNC


: Joint National Committee on detection, evalution and
treatment of hight blood pressure (Ủy ban quốc gia về phát hiện,
đánh giá và điều trị tăng huyết áp Hoa Kỳ).


LDL-C

: Low Density lipoprotein - Cholesterol
(Lipoprotein trọng lượng phân tử thấp)

RLDNG

: Rối loạn dung nạp glucose

RLLM

: Rối loạn lipid máu

CT

: Total Cholesterol (Cholesterol toàn phần)

TG

: Triglyceride

THA

: Tăng huyết áp


VE

: Vòng eo

WHO

: Worl Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)

IDF

: International Diabetes Federation
(Liên đoàn đái tháo đường quốc tế).


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


7

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh đái tháo đường typ 2 là một trong những bệnh mạn tính phổ biến
trên thế giới, đang gia tăng nhanh chóng và trở thành một vấn đề sức khỏe
cộng đồng đáng quan tâm, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Năm
2017 số người bị đái tháo đường trên toàn thế giới là 424,9 triệu người, trong
đó 279,2 triệu người sống ở thành phố và 145,7 triệu người sống ở nông thôn,
và ngày một gia tăng với tỉ lệ thành thị 10,2%, nông thôn 6,9%. Một trong 11
người trưởng thành (20-79 tuổi) bị đái tháo đường (425 triệu người) và một

trong 2 người trưởng thành (20-79 tuổi) bị đái tháo đường không được chẩn
đoán (trên 212 triệu người), 12% chi phí cho y tế của toàn thế giới được chi
cho đái tháo đường (727 tỷ USD). Một trong 6 trẻ sinh ra (16,2%) bị ảnh
hưởng bởi đái tháo đường thai kỳ. Ba phần tư (79%) số người bị đái tháo
đường sống ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Dự đoán số người
mắc bệnh sẽ tăng lên 629 triệu người vào năm 2045, một trong 10 người
trưởng thành (20-79 tuổi) sẽ bị đái tháo đường, Chi phí y tế liên quan đến đái
tháo đường sẽ vượt quá 776 tỷ USD [1]
Trên thế giới đã có nhiều thống kê về tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ và tình
trạng tiền ĐTĐ.
Tại Hoa Kỳ, số liệu theo The National Health Interview Surveys
(NHIS) 2011 – 2015 and The National Health and Nutrition Examination
Survey (2011 – 2014) tỷ lệ ĐTĐ trong người trên 20 tuổi là 9.5% (21.8 triệu
người) và nhóm ≥ 65 tuổi là mắc với tỷ lệ cao 20.8%, trong đó tiền ĐTĐ 34.4
– 36.9% ước tính là 83.6 triệu người [79], National Statistics Report 2017 có
báo cáo năm 2015 người ở độ tuổi trên 18 ĐTĐ là 30,2 triệu người (chiếm
12,2% dân số người lớn Mỹ) trong đó 7,2 triệu người (23,8%) chưa được chẩn
đoán là ĐTĐ và thấy tỷ lệ bị ĐTĐ tăng lên theo 25,2% giữa tuổi 65 trở lên [2].
Tại Việt Nam nếu như năm 1990 tỷ lệ ĐTĐ typ 2 chỉ 1,1 đến 2,25%, thì
2012 của Bệnh Viện Nội Tiết Trung Ương cho thấy tỷ lệ hiện mắc ĐTĐ trên
toàn quốc ở người trưởng thành là 5,42%, tỷ lệ ĐTĐ chưa được chẩn đoán
trong cộng đồng là 63,6%. Ở độ tuổi 50 – 59 chiếm 7,5%, và độ tuổi 60 – 69


8
chiếm 9,9% [3]. Năm 2009, tại Việt Nam, 3,8% dân số từ 25 đến 64 tuổi có
đường huyết lúc đói từ 5,6 mmol/l trở lên. Tỷ lệ này ở thành thị (4,6%) cao
hơn ở nông thôn (3,4%), ở nam (4,4%) cao hơn ở nữ (3,2%) [4]. Tiền đái tháo
đường bao gồm rối loạn glucose máu lúc đói (Fasting plasma glucose – FPG )
và rối loạn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance-IGT) là giai đoạn

trung gian của chuyển hóa bất thường glucose máu giữa bình thường và đái
tháo đường[5,6]. Giai đoạn tiền đái tháo đường đã xuất hiện kháng insulin[7],
là giai đoạn khởi đầu trong tiến trình tiến triển thành đái tháo đường typ 2.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, ngay giai đoạn tiền đái tháo đường đã xuất hiện
nhiều biến chứng của bệnh đái tháo đường[8,9]. Người tiền đái tháo đường có
nguy cơ bị đái tháo đường typ 2 cao và người ta thấy tỷ lệ chuyển đổi thành
ĐTĐ hàng năm là 5% - 10% người bình thường [10], và tỷ lệ tiền đái tháo
đường ở độ tuổ 30 – 69 tuổi người tại khao khám bệnh theo yêu cầu bệnh viện
Bạch Mai năm2012 là 39%[15], 3 quận nội thành Hải Phòng năm 2012 là
26,9%[16], Hà Nội 2013 là 7,9%[17]. Sự phát hiện và can thiệp sớm người
tiền đái tháo đường có khả năng làm giảm hoặc làm chậm lại sự tiến triển
thành đái tháo đường, các biến chứng mạch máu nhỏ và tim mạc[19]. Nhằm
ngăn chặn sự gia tăng của bệnh đái tháo đường trên toàn thế giới, đã có nhiều
nghiên cứu can thiệp phòng, chống bệnh ở những đối tượng có nguy cơ cao bị
đái tháo đường, đặc biệt người thừa cân, béo phì và tiền đái tháo đường[20],
các biện pháp can thiệp bao gồm: chế độ ăn, cần tập thể dục thường xuyên tối
thiểu 30 phút/ngày và ít nhất 5 lần trong tuần, là giúp cơ thể sử dụng insulin
hiệu quả hơn, qua đó, bình thường hóa nồng độ đường huyết[21],[22]. Nằm
có biện pháp phát hiện sớm và đề ra những hướng điều trị và phòng chống kịp
thời các biến chứng cho người dân nên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này
“tỷ lệ tiền đái tháo đường và một số yếu tố liên quan ở những người có độ
tuổi 30 – 69 tuổi đến khám sức khỏe tại Khoa Khám Bệnh Theo Yêu Cầu
Bệnh Viện Bạch Mai” với mục tiêu sau:


9
1.

Xác định tỷ lệ mắc tiền đái tháo đường ở những người có độ tuổ từ 30
– 69 tuổi đến khám sức khỏe tại Khoa Khám Bệnh Theo Yêu Cầu

Bệnh Viện Bạch Mai năm 2018 – 2019.

2. Nhận xét một số yếu tố liên quan đến ( Tuổi, BMI, vòng eo, tăng huyết
áp, tiền sử gia đình, mỡ máu…) với tiền đái tháo đường ở nhóm nghiên
cứu trên


10

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Vài nét đại cương tiền đái tháo đường.
1.1.1. Định nghĩa tiền đái tháo đường
Khái niệm tiền ĐTĐ đã được cơ quan dịch vụ sức khỏe và con người
và Hiệp hội ĐTĐ Mỹ (ADA) đưa ra vào tháng 3 năm 2002 và cho đến hiện
nay là tình trạng đường huyết cao nhưng chưa cao đến mức bị đái tháo đường,
được biết với cái tên rối loạn đường huyết lúc đói (IFG) từ 100 (5,6mmol/L)
đến 125 mg/dL (6,9 mmol/L) hoặc rối loạn dung nạp đường máu (IGT) từ 140
(7.8 mmol/L) đến 199 mg/dL (11 mmol/L) hoặc

HbA1c từ 5,7% (39

mmol/mol) đến 6,4% (47 mmol/mol)[6].
HHS và ADA cũng đã khuyến cáo tất cả nhữn người béo phì từ 45 tuổi
trở lên (BMI ≥ 25 ) cần được sàng lọc và những người mà có tuổi nhỏ 45 tuổi
cũng nên sàng lọc nếu có các yếu tố nguy cơ như là THA, tiền sử gia đình
ĐTĐ, rối loạn mỡ máu, ĐTĐ thai kỳ hoặc đẻ con mà có trọng lượng trên 4
cân, hoặc thuộc chủng tộc có nguy cơ bị ĐTĐ typ 2 cao.
Nếu một người mà (yếu tố nguy cơ) được xét nghiệm sàng lọc tiền
ĐTĐ và kết quả đường huyết nằm trong giới hạn bình thường thì ADA

khuyên nên làm xét nghiệm lại 3 năm một lần.
Nếu một người được chẩn đoán tiền ĐTĐ nên làm xét nghiệm sàng lọc
chẩn đoàn ĐTĐ typ 2 cứ 1 đến 2 năm một lần, và phải có sự thay đổi hành vi
lối sống có thể phòng tránh và làm chậm quá trình bệnh tiến triển lên thành
ĐTĐ typ 2.


11
1.1.2. Đặc điểm dịch tễ:
Theo WHO thế kỷ 21 là thế kỷ của các bệnh không lây như tim mạch,
tăng huyết áp (THA), tâm thần, ung thư v.v…, đặc biệt là bệnh ĐTĐ typ 2
đang là gánh nặng thực sự cho nền kinh tế xã hội và sức khỏe con người.
Theo Liên đoàn Đái tháo đường Thế giới (IDF), năm 2015 toàn thế giới
có 415 triệu người (trong độ tuổi 20-79) bị bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), tương
đương cứ 11 người có 1 người bị ĐTĐ, đái tháo đường không được chẩn đoán
(trên 212 triệu người) và 2017 số người bị đái tháo đường trên toàn thế giới là
424,9 triệu người, trong đó 279,2 triệu người sống ở thành phố và 145,7 triệu
người sống ở nông thôn, và ngày một gia tăng với tỉ lệ thành thị 10,2%, nông
thôn 6,9%. Một trong 11 người trưởng thành (20-79 tuổi) bị đái tháo đường
(425 triệu người) và một trong 2 người trưởng thành (20-79 tuổi) bị đái tháo
đường không được chẩn đoán (trên 212 triệu người), đến năm 2045 con số
này sẽ là 629 triệu, tương đương cứ 10 người có 1 người bị ĐTĐ[1]. Nhiều
nghiên cứu cho thấy, ngay giai đoạn tiền đái tháo đường đã xuất hiện nhiều
biến chứng của bệnh đái tháo đường[8,9], người tiền đái tháo đường có nguy
cơ bị đái tháo đường typ 2 cao và người ta thấy tỷ lệ chuyển đổi thành ĐTĐ
hàng năm là 5% - 10% người bình thường [10], và rủi ro tương đối hàng năm
người có IGT phát triển thành ĐTĐ type 2 là gấp 6 lần so với người có dung
nạp đường máu bình thường , còn khi có cả hai IGT và IFG tương quan này
tăng lên 12 lần [5]. Nhưng một điều đáng khả quan, có tới 70% trường hợp
ĐTĐ típ 2 có thể dự phòng hoặc làm chậm xuất hiện bệnh bằng tuân thủ lối

sống lành mạnh, dinh dưỡng hợp lý và tăng cường luyện tập thể lực[22,23].
Ở Việt Nam, năm 1990 của thế kỷ trước, tỷ lệ bệnh ĐTĐ chỉ là 1,1% (ở
thành phố Hà nội), 2,25% (ở thành phố Hồ Chí Minh), 0,96% (thành phố
Huế), nghiên cứu năm 2012 của Bệnh viện Nội tiết trung ương cho thấy: tỷ lệ
hiện mắc ĐTĐ trên toàn quốc ở người trưởng thành là 5.42%, tỷ lệ đái tháo
đường chưa được chẩn đoán trong cộng đồng là 63.6%. Tỷ lệ rối loạn dung


12
nạp glucose toàn quốc 7.3%, rối loạn glucose máu lúc đói toàn quốc 1.9%
(năm 2003). Theo kết quả điều tra STEPwise về các yếu tố nguy cơ của bệnh
không lây nhiễm do Bộ Y tế thực hiện năm 2015, ở nhóm tuổi từ 18-69, cho
thấy tỷ lệ ĐTĐ toàn quốc là 4,1%, tiền ĐTĐ là 3,6% [27]. Và nhằm thực hiện
mục tiêu phòng chống và quản lý bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2012 –
2015 theo quyết định số 1208/QĐ-TT của Thủ tướng Chính phủ, năm 2011,
đã sàng lọc 248,466 đối tượng nguy cơ cao và phát hiện 18,738 (7.5%) trường
hợp TĐTĐ và 38,135 (15,4%) ĐTĐ, 2012 sàng lọc 268,373 đối tượng nguy
cơ cao và phát hiện 19,778 (7.4%) TĐTĐ và 36,123 (13.5%) ĐTĐ, năm 2013
đã khám sàng lọc 266,480 đối tượng nguy cơ cao và phát hiện 19,062 (7.1%)
TĐTĐ và 45,966 (17.3%) ĐTĐ [4].
1.1.3. Cơ chế bệnh sinh của tiền đái tháo đường:
Trước khi mắc bệnh đái tháo đường, người bệnh đã trải qua giai đoạn tiền
đái tháo đường. Tiền đái tháo đường cũng được biết tới với tên gọi rối loạn dung
nạp glucose và rối loạn đường huyết lúc đói. Đây là sự kết hợp giữa rối loạn quá
trình sản sinh insulin và giảm độ nhạy của insulin (kháng insulin).
a) Rối loạn tiết insulin: Khi mới bị đái tháo đường týp 2 thì insulin có thể
bình thường hoặc tăng lên nhưng tốc độ tiết insulin chậm và không
tương xứng với mức tăng của glucose máu. Nếu glucose máu vẫn tiếp
tục tăng thì ở giai đoạn sau, tiết insulin đáp ứng với glucose sẽ trở nên
giảm sút hơn. Nguyên nhân là do ảnh hưởng độc của việc tăng glucose

máu đối với tế bào bêta.
b) Kháng insulin: Kháng insulin là tình trạng giảm hoặc mất tính nhạy
cảm của cơ quan đích với insulin.
- Cơ chế của kháng insulin hiện nay chưa rõ. Tuy nhiên người ta thấy rằng: khả
năng là do bất thường tại các vị trí trước, sau và ngay tại thụ thể insulin ở mô
đích. Giảm số lượng thụ thể insulin là yếu tố bất thường tại thụ thể hoặc có
kháng thể kháng thụ thể insulin là yếu tố ức chế trước thụ thể.


13
- Do giảm hoạt tính của tyrosine kinase của vùng sau thụ thể insulin làm cho
insulin khi gắn vào thụ thể không phát huy được tác dụng sinh học. Vì vậy
không kích thích được việc vận chuyển glucose vào tế bào. Mặt khác sự tăng
tiết các hormon đối kháng với insulin như: GH (growth hormon- hormon tăng
trưởng), glucocorticoid, catecholamin, thyroxin đều gây ảnh hưởng sau thụ
thể insulin.
- Insulin kiểm soát cân bằng đường huyết qua 3 cơ chế phối hợp, mỗi cơ chế
rối loạn có thể là nguyên nhân dẫn đến kháng insulin: insulin ức chế sản xuất
glucose từ gan, insulin kích thích dự trữ glucose ở tổ chức cơ, insulin kích
thích dự trữ glucose ở các cơ quan[20,21].
1.1.4. Chẩn đoán tiền đái tháo đường:
Theo Hội ĐTĐ Hoa Kỳ , Quyết định số 3319/QĐ-BYT ngày 19 tháng
7 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế về chẩn đoán tiền đái tháo đường khi có
một trong các rối loạn sau đây:
a. Rối loạn glucose huyết đói (impaired fasting glucose: IFG): Glucose huyết
tương lúc đói từ 100 (5,6mmol/L) đến 125 mg/dL (6,9 mmol/L) hoặc
b. Rối loạn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance: IGT): Glucose
huyết tương ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp dung nạp
glucose bằng đường uống 75 g từ 140 (7.8 mmol/L) đến 199 mg/dL (11
mmol/L) hoặc

c. HbA1c từ 5,7% (39 mmol/mol) đến 6,4% (47 mmol/mol). Những tình
trạng rối loạn glucose huyết này chưa đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán đái
tháo đường nhưng vẫn có nguy cơ xuất hiện các biến chứng mạch máu
lớn của đái tháo đường, được gọi là tiền đái tháo đường (pre-diabetes).
1.1.5. Tiêu chuẩn để làm xét nghiệm chẩn đoán đái tháo đường hoặc tiền
đái tháo đường ở người không có triệu chứng ĐTĐ:
a. Người lớn có BMI ≥ 23 kg/m2, hoặc cân nặng lớn hơn 120% cân nặng
lý tưởng và có một hoặc nhiều hơn một trong các yếu tố nguy cơ sau:


14
- Ít vận động thể lực
- Gia đình có người bị đái tháo đường ở thế hệ cận kề (bố, mẹ, anh chị
em ruột)
- Tăng huyết áp (huyết áp tâm thu ≥ 140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm
trương ≥ 90 mmHg hay đang điều trị thuốc hạ huyết áp)
- Nồng độ HDL cholesterol < 35 mg/ (0,9 mmol/L) và/hoặc nồng độ
-

triglyceride > 250 mg/dL (2,82 mmol/L)
Vòng bụng to: ở nam ≥ 90 cm, ở nữ ≥ 80 cm
Phụ nữ bị buồng trứng đa nang
Phụ nữ đã mắc đái tháo đường thai kỳ
HbA1c ≥ 5,7% (39 mmol/mol), rối loạn glucose huyết đói hay rối loạn

dung nạp glucose ở lần xét nghiệm trước đó.
- Có các dấu hiệu đề kháng insulin trên lâm sàng (như béo phì, dấu gai
đen…).
- Tiền sử có bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch.
b. Ở bệnh nhân không có các dấu hiệu/triệu chứng trên, bắt đầu thực hiện

xét nghiệm phát hiện sớm đái tháo đường ở người ≥ 45 tuổi.
c. Nếu kết quả xét nghiệm bình thường, nên lặp lại xét nghiệm sau mỗi 13 năm. Có thể thực hiện xét nghiệm sớm hơn tùy thuộc vào kết quả xét
nghiệm trước đó và yếu tố nguy cơ. Đối với người tiền đái tháo đường:
thực hiện xét nghiệm hàng năm.
1.2. Những yếu tố nguy cơ:
Theo Hội ĐTĐ Hoa Kỳ, các yếu tố nguy cơ (YTNC) liên quan đến tiền ĐTĐ:
- Tiền sử gia đình ĐTĐ.
- Béo phì (nhất là béo phì dạng nam).
- Tuổi: từ 45 tuổi trở lên.
- Tăng huyết áp và hoặc rối loạn lipid máu.
- Tiền sử ĐTĐ thai nghén.
- Tiền sử sinh con nặng từ 4kg trở lên.
- Chủng tộc (người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc Tây Ban Nha, người Mỹ
gốc bản địa, những người sống trên các đảo Thái Bình Dương).
- Ít vận động.
- Stress.
- Thói quen ăn nhiều và giàu đường đơn.


15
- Dùng các thuốc làm tăng glucose huyết.
1.2.1. Tuổi
Nguy cơ mắc tiền ĐTĐ tăng theo tuổi. Khi cơ thể già, chức năng nội tiết
của tuyến tụy cũng bị già theo, làm cho khả năng tiết insulin bị giảm sút, đồng
thời làm giảm sự nhạy cảm của insulin, dẫn đến tăng glucose máu [16, 29,35].
1.2.2. Yếu tố gia đình
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định yếu tố gia đình có vai trò
quan trọng trong việc xuất hiện bệnh ĐTĐ. Những người có mối liên quan
huyết thống gần gũi với người mắc bệnh ĐTĐ typ 2 có nguy cơ mắc bệnh
ĐTĐ typ 2 cao gấp 2.3 – 5.5 lần so với người bình thường[42]. Những người

mà cả nội và ngoại đều có người mắc bệnh ĐTĐ typ 2, con cái có cả bố mẹ
đều mắc bệnh ĐTĐ typ 2, thì có nguy cơ rất cao bị mắc bệnh ĐTĐ typ 2.
[43,44,45].
1.2.3. Yếu tố chủng tộc
Tỷ lệ tiền đai tháo đường và đái tháo đường typ 2 gặp ở tất cả các dân
tộc, nhưng với tỷ lệ và mức độ khác nhau. Tỷ lệ đái tháo đường cao nhất ở
người châu Á Ấn Độ còn tiền đái tháo đường thì có vẻ thấp hơn khi so sánh
với dân gốc khác[46], và tỷ lệ có tăng theo tuổi[47].
1.2.4. Tiền sử đái tháo đường thai nghén, tiền sử sinh con nặng cân.
Trẻ sơ sinh nặng trên 4000 gram là một YTNC của bệnh ĐTĐ typ 2
cho cả mẹ và con. Các bà mẹ này có nguy cơ mắc ĐTĐ typ 2 cao hơn phụ nữ
bình thường. Và năm 2017 tỷ lệ người sống có liên quan với tăng đường máu
trong khi có thai là 16.2% chiếm con số là 21.3 triệu ngừoi[1].
Những phụ nữ có tiền sử ĐTĐ thai kỳ tỷ lệ tiến triển thành bệnh ĐTĐ
typ 2 khá cao. Nhiều nghiên cứu đã cho rối loạn dung nạp dường máu (IGT)
là 12.5%, IFT là 20.8%[47], IGT 9.4% [39]. Và trong tất cả đều cho rằng có


16
liên quan đến tuổi, yếu tố gia đình từa cân/béo phì, có rối loạn bài tiết insulin,
đề kháng insulin[50]. Tại Việt Nam, trong một nghiên cứu tại bệnh viện Phụ
sản Trung ương và bệnh viện Phụ sản Hà Nội công bố năm 1997, trong số phụ
nữ được chẩn đoán ĐTĐ thai kỳ và đến khám lại sau đẻ 6-12 tuần thấy có
3,2% là ĐTĐ thực sự, số rối loạn dung nạp glucose hoặc suy giảm đường
huyết lúc đói là 26,3%. ĐTĐ thai kỳ có tương quan thuận với tuổi của bà mẹ
khi mang thai, trong đó, nguy cơ đặc biệt cao ở nhóm bà mẹ trên 35 tuổi[51].
1.2.5. Tăng huyết áp
Tăng huyết áp được coi là nguy cơ phát triển bệnh ĐTĐ typ 2. Phần lớn
bệnh nhân ĐTĐ typ 2 có THA và tỷ lệ ĐTĐ typ 2 ở người bệnh THA cũng
cao hơn rất nhiều so với người bình thường. Tỷ lệ THA ở bệnh nhân ĐTĐ typ

2 tăng theo tuổi đời, tuổi bệnh[1,2,3]. Trong một nghiên cứu mô tả cá ngang
tại Cameroon có 26.6% là tăng huyết áp còn tiền ĐTĐ là 5.7% [52].
Trong một nghiên cứu về người trưởng thành có mắc tiền ĐTĐ (IFG,
IGT) Biracial Cohort(POP-ABC) thấy huyết áp tâm thu và huyết áp tâm
trương có sự tương quan đáng kể với IFG và IGT(P= 0.003 - <0.0001) [53],
Có nghiên cứu nhóm người có nguy cơ tại Ninh Bình 2012 cho thấy tăng
huyết áp có tỷ lệ mắc TĐTĐ cao hơn nhóm không tăng huyết áp OR 1.93 [55]
1.2.6. Béo phì
Béo phì/thừa cân và bệnh chuyển hóa là hai tình trạng vấn đề sức khỏe
cấp bách trong thời gian hiện nay, bệnh chuyển hóa là sự tăng lên của vòng
bụng làm gia tăng rối loạn đường máu, kháng insulin, huyết áp tăng và rối
loạn mỡ máu. Đây được coi là nguy cơ của ĐTĐ typ2 và một trong những
nguy cơ tim mạch và tỷ lệ tử vong [54]. Một điều tra tại Ninh Bình 2012 béo
phì là yếu tố liên quan đén tiền ĐTĐ typ2 BMI ≥ 23 kg/m² (OR= 1.160)[55],
nghiên cứu ở Ethiopia có 23.9% có tiền ĐTĐ liên quan đến béo bụng với


17
OR= 1.2 (0.6-2.8) nam, OR = 2.5 (0.9-6.7)[56], và tại miền trung Ấn Độ có
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ vòng bụng càng cao thì tỷ lệ IFG cũng tăng lên[57].
1.2.7. Chế độ ăn và hoạt động thể lực
Một nghiên cứu ở Hà Nội cho thấy: Những người có thói quen thường
xuyên ăn mỡ có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ cao gấp 4 lần những người không có
thói quen ăn mỡ. Những người có thói quen uống rượu bia thường xuyên có
nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ cao gấp 3 lần người bình thường. Nhóm đối tượng có
thói quen ăn rau thường xuyên có tỷ lệ bệnh ĐTĐ thấp hơn (2,4%) so với
nhóm không thích ăn rau (12,4%). Nhóm có tăng hoạt động thể lực trên 30
phút/ngày có nguy cơ ĐTĐ thấp hơn nhóm hoạt động thể lực dưới 30
phút/ngày tới 2 lần [60]. Tại miền đông bắc Thái Lan có người tham gia
nghiên cứu 383,442 nam, nữ khỏe mạnh tỷ lệ mắc tiền ĐTĐ có liên quan đến

uống rượu là 10.5% (11.2% và 9.7% nam và nữ) và sau khi loại trừ yếu tố rủi
ro khác thì nồng độ rượu là yếu tố độc lập liên quan đến tiền ĐTĐ, với mối
liên hệ phản ứng liều OR 1.80, 95% CI 1.53-2.11, p < 0.001 và 1.47, 95% CI
1.28-1.68, p < 0.001) đối với người uống liều hàng ngày và 3-4 lần trong tuần,
khi so với người không dùng [61].
Các nghiên cứu cũng cho thấy, việc tập luyện thể lực thường xuyên có
tác dụng làm giảm nhanh nồng độ glucose huyết tương, giúp duy trì sự bình
ổn của lipid máu, huyết áp, cải thiện tình trạng kháng insulin và giúp cải thiện
tâm lý ở BN ĐTĐ typ 2. Sự phối hợp hoạt động thể lực thường xuyên và điều
chỉnh chế độ ăn hợp lý có thể giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ typ 2
một cách đáng kể [8].
1.2.8. Rối mỡ máu:
Rối loạn lipid máu có liên quan đến tiền ĐTĐ, làm tăng nguy cơ bị
tiền ĐTĐ [1]. Nghiên cứu tuần tập tại Nhật Bản theo dõi trong 3 năm kết
luận rằng nồng độ của TG và HDL-C có sự tác động khác nhau đến giai


18
đoạn đầu sự bài tiết insulin là trạng thái cơ bản cho rối loạn dung nạp
đường máu[77]. Tại Ấn Độ có làm nghiên cứu bệnh nhân ngoại và nội trú
K R Hospital, MysoreTC, theo dõi tháng 8 2016 đến tháng 2017 thấy LDL,
TG, và VLDL là đặc hiệu cho sự tăng lên của tiền ĐTĐ khi so sánh với
nhóm người khỏe bình thường trong khi HDL là đặc hiệu với giảm tỷ lệ
Tiền ĐTĐ so với với người khỏe mạnh [78].
1.3. Các biến chứng của tiền đái tháo đường.
1.3.1. Biến chứng mạch máu nhỏ.
Giải phẫu bệnh học là khuyết tật cơ bản của tiền ĐTĐ là bao gồm
kháng insulin, rối loạn chức năng của tế bào beta, tăng cường giáng hóa mỡ,
quá trình viêm, tăng hiệu quả của incretin tối ưu, và tăng cường sản suất
đường ở gan, trong nghiên cứu theo dõi nhiều năm cho thấy biến chứng của

ĐTĐ có biểu lộ ở một số người ngay ở tiền ĐTĐ bao gồm ngay mạch máu
nhỏ và mạch máu lớn[62], IFG và IGT đều là nguy cơ của ĐTĐ đặc biệt rối
loạn dung nạp đường máu sau ăn (IGT) là đi song song với ĐTĐ và có nguy
với bệnh tim mạch trội hơn IFG. IGT còn là nguy cơ của tỷ lệ chết [63,65].
Sự thay đổi mắt do tình trạng tiền ĐTĐ, trong số bệnh nhân này có tỷ lệ bị
bệnh tim mạch và bệnh mao mạch: bệnh máu võng mạc (retinopathy), bệnh lý
thần kinh (neuropathy), bệnh lý cầu thận (nephropathy)[66,67,68]. Khi xem xét
hội tụ lại về cơ chế giải phẫu bệnh học của tiền ĐTĐ và ĐTĐ type 2, nó cũng
có thể là xảy ra các biến chứng khác, bao gồm cả rối loạn tương tự ở mắt.
Trong một số nghiên cứu tiền ĐTĐ là vấn đề gây tăng tỷ lệ tình trạng rối loạn
của mắt khi so sánh với nhóm chứng là người khỏe mạnh và tiền ĐTĐ là nguy
cơ độc lập trong biến chứng này[69].
Sự thay đổi của cầu thận là biến chứng rất thường gặp của người có IFG
trong nghiên cứu tuần tập xơ vữa mạch máu tại cộng đồng cho thấy dựa vào
hệ thống C – thống kê (the C-Statistic for incident) là 0.636 với ADA IFG và


19
0.640 với ADA H bA1c (95% CI -0.008 - -0.001) [65]. Có một số nghiên cứu
rối loạn đường máu lúc đói (IFG), HbA1c có liên quan đến tăng mức lọc cầu
thận thì kết quả cho thấy khi tăng 1 đơn vị của FPG hoặc HbA1c OR 1.97
(1.36 – 2.85) và 2.93 (1.30 – 3.86) [70], tình trạng rối loạn đường máu lúc đói
có liên quan đến sự tăng lên của mức lọc cầu thận [71], trong một nghiên cứu
tuần tập theo dõi 2 năm (2009 – 2011) tại Iran cho thấy tỷ lệ xuất hiện
Albumin niệu trong Tiền ĐTĐ 15.5% trong khi nhóm chứng thì không có với
mức (P = 0.005), và tỷ lệ xuất hiện Albumin niệu giữa bệnh nhân IFG
hoặcIGT là không có sự khác nhau (17.8% vs. 13.3%) (P = 0.4), trong nghiên
cứu này còn cho thấy tiền ĐTĐ là nguy cơ phát triển thành ĐTĐ với tỷ lệ khá
là cao[72], tại Ấn Độ 2012 một nghiên cứu cho thấy albumin niệu
(Microalbuminuria) dường như là những dấu hiệu nhạy cảm sớm của yếu tố

bệnh chuyển hóa đó có liên quan đến bệnh lý tim mạch [73].
Sự tổn thương thần kinh là biến chứng hay gặp nhất trong số các biến
chứng mạn tính của ĐTĐ, tỷ lệ bệnh ngày càng tăng theo thời gian mắc bệnh.
Người bệnh ĐTĐ typ 2 thường có biểu hiện thần kinh ngay tại thời điểm chẩn
đoán, có khi còn có trước đó nhiều năm[1]. Trong nghiên cứu thuần tập có
467 người tham gia mà có nguy cơ cao của ĐTĐ type 2 theo dõi trong 2 năm
thấy tỷ lệ bệnh lý thần kinh ngoại biên là 29%, 49%, và 50% đối với nồng độ
đường máu bình thường, tiền ĐTĐ, và ĐTĐ mới phát hiện (P<0.001) [74],
bệnh nhân có bệnh chuyển hóa và tiền ĐTĐ là nguy cơ bị bệnh thần kinh
ngoại vi và bệnh lý thần kinh ngoại vi cũng là tăng nguy cơ cho bệnh chuyển
hóa và tiền ĐTĐ [75].
1.4. Tiền đái tháo đường
Trước đây người ta hay dùng các thuật ngữ như “Đái tháo đường tiềm
tàng”, “Đái tháo đường sinh hóa”, “Đái tháo đường tiền lâm sàng” để chỉ các
trường hợp có rối loạn dung nạp glucose mà chưa có biểu hiện lâm sàng.


20
Những trường hợp này chỉ được phát hiện khi tiến hành nghiệm pháp tăng
glucose máu bằng đường uống hoặc đường tĩnh mạch.
Ngày nay người ta đưa ra khái niệm “Tiền đái tháo đường” để chỉ các
hình thái rối loạn chuyển hóa đường của cơ thể, kết quả xét nghiệm có tăng
đường máu nhưng chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường. Có hai hình
thái tiền ĐTĐ, đó là: Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói ( impaired
fasting glucose, IFG) và rối loạn dung nạp glucose

(impaired glucose

tolerance, IGT).
Theo tiêu chuẩn ADA và Họi đái tháo đường Viêt Nam 2017:

1. HbA1c từ 5,7 đến 6,4 %.
2. Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói ( IFG), nếu đường máu lúc
đói từ 5,6 – 6,9 mmol/L (100 – 125 mg/dL).
3. Rối loạn dung nạp glucose ( IGT ), nếu mức glucose huyết tương ở
thời điểm 2 giờ sau nghiệm pháp tăng glucose máu đường uống từ 7,8mmol/l
(140mg/dl) đến 11,0mmol/l (198mg/dl).
1.5. Nghiệm pháp dung nạp glucose
Để phát hiện sớm người bệnh rối loạn glucose máu hoặc ĐTĐ typ 2,
người ta sử dụng nghiệm pháp dung nạp glucose máu:
1.5.1. Cơ sở của nghiệm pháp
Người ta có thể lấy máu ở nhiều thời điểm khác nhau trong quá trình
làm nghiệm pháp dung nạp glucose máu, các thời điểm thường là (0, 30, 60,
90, 120 phút), kết quả glucose máu ở mỗi thời điểm có giá trị khác nhau.
Để tiện cho quá trình sàng lọc, ADA , IDF, Hội ĐTĐ Việt Nam khuyến
cáo lấy máu ở thời điểm 0 và 120 phút sau khi uống glucose.
Kết quả glucose máu thời điểm 0 (lúc đói) đánh giá việc sản xuất
glucose qua đêm ở gan, vì khi đói, nồng độ insulin ở mức thấp nhất (mức nền)


21
nên không ức chế hoàn toàn việc sản xuất glucose ở gan, mặt khác đây là cơ
chế sinh lý quan trọng giúp cơ thể không rơi vào tình trạng hạ glucose máu.
Ngược lại kết quả glucose máu ở thời điểm sau 120 phút phản ánh chức
năng tế bào beta của tuỵ, vì khi đưa một lượng glucose lớn vào cơ thể, bình
thường tế bào beta tuỵ đáp ứng bằng tăng bài tiết insulin làm tăng vận chuyển
glucose vào gan và cơ để dự trữ, ức chế quá trình phân giải glycogen, ức chế
quá trình tân tạo đường nên làm giảm glucose máu, sau 2 giờ mức glucose
máu phải trở về < 7,8 mmol/L, khi chức năng tế bào beta bị suy giảm, mức
glucose máu ở thời điểm 120 phút sẽ tăng lên.
1.5.2. Chuẩn bị bệnh nhân

Để đánh giá đúng, người ta cho đối tượng ăn chế độ ăn giàu
hydratecarbone (150-200g/ngày) trong 3 ngày, tuy nhiên ở Việt Nam, điều
này không cần thiết vì hàng ngày người dân đều dùng gạo là lương thực chủ
yếu trong các bữa ăn.
Một số lưu ý:
- Không thực hiện khi đối tượng đang có bệnh cấp tính, đang dùng các
thuốc có ảnh hưởng đến glucose máu (như chẹn beta giao cảm, corticoid, lợi
tiểu thiazid..) hoặc bệnh nhân suy dinh dưỡng, nằm liệt giường.
- Không vận động mạnh trước hoặc trong quá trình làm nghiệm pháp.
- Trước ngày làm nghiệm pháp, đối tượng không được ăn từ sau 21 giờ,
sáng hôm làm nghiệm pháp, đối tượng phải nhịn đói, không dùng các chất
kích thích như cà phê, chè, thuốc.
1.5.3. Tiến hành
Sau khi chuẩn bị tốt các điều kiện như trên, lần lượt tiến hành theo từng
bước như sau:
- Lấy máu định lượng glucose máu lúc đói.


22
- Cho đối tượng uống 75 gram glucose anhydrous (hoặc 82,5 gram
glucose monohydrate) pha trong 250 - 300 mL nước trong vòng 5 phút. Thời
điểm 0 chính là thời điểm ngay trước khi đối tượng uống glucose.
- Lấy máu ở thời điểm 120 phút tính từ thời điểm 0, định lượng nồng
độ glucose máu.
- Kết luận dựa vào kết quả xét nghiệm.


23

23


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng
Những người trưởng thành tuổi đời từ 30-69, không phân biệt giới tính.
2.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn
Các đối tượng có tuổi đời như trên có một trong các yếu tố nguy cơ
TĐTĐ.
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
Các đối tượng không đúng độ tuổi, tự nguyện tham gia nghiên cứu
nhưng không thuộc danh sách đã chọn.
Các đối tượng đang mắc các bệnh cấp tính hoặc đang dùng các thuốc
làm tăng đường máu.
Các ĐTĐ triệu chứng.
Phụ nữ đang mang thai.
2.1.4. Cỡ mẫu:
Thuận tiện
Ước tính cỡ mẫu tham gia nghiên cứu khoảng 400 người.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang, tiến cứu
Sơ đồ thiết kế các bước tiến hành nghiên cứu (trang 25).
2.2.2. Thời gian nghiên cứu:
tháng (từ 6 /2018 đến 7 /2019)
2.2.3. Địa điểm nghiên cứu: Khoa Khám Bệnh Theo Yêu Cầu Bệnh Viện
Bạch Mai.
2.2.4. Các tiêu chuẩn sử dụng trong nghiên cứu
2.2.4.1. Chẩn đoán tiền ĐTĐ
Theo tiêu chuẩn ADA và Họi đái tháo đường Viêt Nam 2018:

1. HbA1c từ 5,7 đến 6,4 %.


24

24
2. Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói ( IFG), nếu đường máu lúc

đói từ 5,6 – 6,9 mmol/L (100 – 125 mg/dL).
3. Rối loạn dung nạp glucose (IGT), nếu mức glucose huyết tương ở thời
điểm 2 giờ sau nghiệm pháp tăng glucose máu đường uống từ 7,8mmol/l
(140mg/dl) đến 11,0mmol/l (198mg/dl).
2.2.4.2. Đánh giá chỉ số khối cơ thể BMI, vòng eo (VE).
Dựa theo tiêu chuẩn của WHO áp dụng cho người trưởng thành Châu Á .
- Chỉ số BMI được tính theo công thức:
BMI (kg/m2)

=

WHR

=

Cân nặng [kg]

[chiều cao(m)]2
Nhẹ cân
:
BMI < 18,5
Bình thường

:
18,5 ≤ BMI <23
Thừa cân, béo phì
:
23 ≤ BMI <25
Béo độ 1
:
25 ≤ BMI <30
Béo độ 2
:
BMI ≥ 30
- Vòng eo (VE) bình thường của người Châu Á :
Nam < 90 cm
Nữ
< 80 cm
-Tỷ lệ vòng eo /vòng mông (WHR)
Vòng eo (cm)

vòng mông (cm)
Bình thường: WHR <0,85 ở nữ và < 0,95 ở nam.
2.2.4.3. Tăng huyết áp
Theo WHO, chẩn đoán tăng huyết áp: khi HA tâm thu ≥ 140 mmHg và
hoặc HA tâm trương ≥ 90 mmHg.
Bảng 2.1. Phân độ THA theo JNC VII (2003)
Phân loại

HATT (mmHg)

HATTr (mmHg)


Bình thường

<120

Và hoặc <80

Tiền THA

120 - 139

Và hoặc 80 - 89

THA độ 1

140 - 159

Và hoặc 90 - 99

THA độ 2

≥160

Và hoặc ≥ 100


25

25

2.2.4.4. Rối loạn lipid máu

Rối loạn lipid máu có liên quan đến tiền ĐTĐ, làm tăng nguy cơ bị
tiền ĐTĐ [1].
- Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn lipid máu:
Bảng 2.2. Chẩn đoán rối loạn lipid máu
Theo khuyến cáo của Hội Tim mạch Việt Nam (2006) khi có một trong
các chỉ số sau [27]:
Tên xét nghiệm

Đơn vị

Bình thường

Bệnh lý

Cholesterol Total

mmol

< 5.2

≥ 5.2

Triglyceride

mmol

< 1.7

≥ 1.7


HDL–C

mmol

> 1.0

≤ 1.0

LDL–C

mmol

< 3.1

≥ 3.1

2.2.5. Quy trình, cách thức nghiên cứu
Bước 1:
- Làm đơn tình nguyện tham gia nghiên cứu với đối tượng có đủ tiêu
chuẩn đã đồng ý tham gia nghiên cứu đến koa khám bệnh theo yêu cầu BV
Bạch Mai, khám bệnh và xét nghiệm đường huyết.
- Lấy tất cả các đối tượng đến tham gia nghiên cứu nếu đáp ứng các tiêu
chuẩn chọn mẫu.
Bước 2: Thu thập thông tin
- Công cụ thu thập số liệu:
+ Phỏng vấn (PV) theo bộ câu hỏi.
+ Thăm khám lâm sàng.
+ Cân đo chiều cao (CC), cân nặng, vòng eo, vòng hông, HA.
+ Xét nghiệm đường huyết lúc đói (ĐHLĐ) và 2 giờ sau làm nghiệm
pháp dung nạp glucose máu.

+ Xét nghiệm lipid máu:
- Lấy máu tĩnh mạch vào buổi sáng (lúc đói), ly tâm tách huyết tương.


×