MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG
Bảng 1:
Hoạt động huy động vốn
Bảng 2:
Hoạt động cho vay
Bảng 3 :
Kết quả hoạt động kinh doanh
Bảng 6:
Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn của BIDV Chi nhánh Đông Đô
Bảng 7.
Cơ cấu Vốn huy động phân theo đối tượng huy động của Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam Chi nhánh Chi nhánh Đông Đô
Bảng 8:
Cơ cấu Vốn huy động theo loại tiền của BIDV Chi nhánh Đông Đô
Bảng 4:
Lãi suất tiền gửi của BIDV Chi nhánh Đông Đô
Bảng 5:
Chi phí trả lãi của BIDV Chi nhánh Đông Đô
BIỂU
Biểu đồ 2.1: Quy mô vốn huy động của BIDV Chi nhánh Đông Đô
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng là một trong những tổ chức
quan trọng nhất của nền kinh tế , đóng vai trò trong việc ổn định và phát triển kinh
tế của đất nước. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã tác động to lớn đến nền
kinh tế Việt Nam, gây ra những hậu quả nặng nề. Nền kinh tế Việt Nam đang đối
mặt với những khó khăn bất ổn như sự phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, thất
nghiệp,kinh tế trì trệ kém phát triển... Vấn đề đặt ra đối với các Ngân hàng thương
mại (NHTM) trong giai đoạn khủng hoảng hiện nay là cần phải huy động vốn tối đa
các nguồn vốn nhàn rỗi từ đó cho các doanh nghiệp vay để sản xuất kinh doanh,
thực hiện tái cơ cấu đầu tư nền kinh tế. Là một trong những ngân hàng thương mại
cổ phần có vốn đầu tư của nhà nước là chủ yếu, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BIDV) và đặc biệt là BIDV Chi nhánh Đông Đô đã nhận thức sâu
sắc được vị trí và vai trò quan trọng của công tác huy động vốn. Để huy động được
nguồn vốn dồi dào, chất lượng cao là vấn đề mà BIDV Chi nhánh Đông Đô chú
trọng quan tâm và đề ra phương pháp thực hiện.
Xuất phát từ những lý do trên thì qua tìm hiểu và nghiên cứu hoạt động của
Chi nhánh thì tôi nhận thấy huy động vốn là hoạt động rất phát triển của ngân hàng
nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế so với tiềm năng của Chi nhánh. Vì vậy tôi chọn đề
tài “ Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu
tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Đông Đô” làm đề tài nghiên cứu trong luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
Với mục tiêu hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động huy
động vốn của ngân hàng thương mại. Từ việc phân tích, đánh giá việc triển khai
hoạt động huy động vốn tại chi nhánh Đông Đô BIDV qua đó đánh giá được những
mặt đã đạt được, những vấn đề còn tồn tại, từ đó tìm ra nguyên nhân và rút ra bài
học kinh nghiệm. Thông qua luận văn này, đưa ra những đề xuất hoàn thiện các giải
3
pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Đông Đô BIDV và kiến nghị
với BIDV, với các cơ quan chức năng nhằm phát triển hơn nữa hoạt động huy động
vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và của Chi
nhánh Đông Đô nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trong luận văn này, tập trung nghiên cứu vào hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Đông Đô
trong giai đoạn 2014 – 2016.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong luận văn đã sử dụng các phương pháp phân tích thống kê mô tả,
phương pháp diễn giải và quy nạp, phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh….nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về huy động vốn ở Ngân hàng
thương mại và đánh giá được thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam Chi nhánh Đông Đô, từ đó đưa ra những mặt mạnh và hạn chế, đề
xuất các giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh.
5. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, dạnh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham
khảo luận văn được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản và hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ
phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Đông Đô
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Đông Đô.
4
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế , với nhiệm vụ thực hiện các chính sách kinh tế , đặc biệt là chính sách tiền tệ
Ngân hàng đã trở thành một kênh quan trọng trong các chính sách của Chính phủ
nhằm ổn định kinh tế.
Các Ngân hàng có thể được định nghĩa theo chức năng , tính chất và mục
đích hoạt động của chúng trên thị trường tài chính , và ở từng thời điểm khác nhau
thì cũng có những định nghĩa khác nhau về Ngân hàng. Trước đây việc lưu hành
những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ kết hợp với giao thương
quốc tế tạo ra nhu cầu đúc và đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại ,
từ đó khái niệm Ngân hàng bắt đầu xuất hiện , trong điều kiện lưu thông tiền kim
loại , những người kinh doanh tiền tệ đã biết sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của
khách để cho vay xuất phát từ tính chất vô danh của tiền .Qua thời gian các dịch vụ
và chức năng của Ngân hàng ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của nền
sản xuất hàng hóa .Ngày nay khi thị trường tài chính đã phát triển , có rất nhiều tổ
chức tài chính khác cũng đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của Ngân hàng và
ngược lại Ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi hoạt động sang các lĩnh vực khác
để có thể tồn tại và phát triển.
Bởi vậy , mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM nhưng
có một cách định nghĩa chung nhất được nhiều nước trên thế giới sử dụng: NHTM là
loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất ,
đặc biệt là tín dụng , tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Hiện nay ở nước ta , lĩnh vực ngân hàng hiện nay đang phát triển và bởi Ngân
hàng là một kênh trung gian quan trọng nên Nhà nước đã ban hành Luật các Tổ
chức tín dụng nhằm duy trì và vận hành có hiệu quả, trong đó có định nghĩa :
“Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật
5
này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch
vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung
ứng dịch vụ thanh toán”. (Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam
ban hành 02/ 1997/QH 10) .
1.1.1. Khái niệm về nguồn vốn.
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập
hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ khác.
Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Người chủ sở hữu của
nguồn vốn này đem gửi ngân hàng với các mục đích khác nhau như thanh toán, tiết
kiệm hoặc đầu tư. Có thể nói rằng, chủ sở hữu vốn đã chuyển nhượng quyền sử
dụng vốn cho ngân hàng để ngân hàng trả lại cho chủ sở hữu một khoản thu nhập
nhất định.
Như vậy, Ngân hàng đóng vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới hình
thức tiền tệ, làm thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu
vốn, kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó
lại quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2. Các loại nguồn vốn.
Thành phần nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm:
• Nguồn vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn mà Ngân hàng thương mại sử dụng
lâu dài và hình thành nên trang thiết bị, cơ sở vật chất, tài sản cố định của
ngân hàng.Vốn chủ sở hữu giúp Ngân hàng tạo lập tư cách pháp nhân và
duy trì hoạt động của ngân hàng, VCSH giúp bảo vệ người gửi tiền,VCSH
góp phần điều chỉnh các hoạt động trong ngân hàng. Nguồn vốn này chiếm
tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng nhưng nó lại là
điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một Ngân hàng. Trong nền kinh tế
thị trường, với sự tham gia của các loại hình Ngân hàng, vốn chủ sở hữu
cũng được hình thành theo nhiều nguồn khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng
từng hình thức sở hữu:
- Đối với Ngân hàng thương mại nhà nước, vốn chủ sở hữu được hình thành từ:
+ Vốn ngân sách Nhà nước
+ Vốn tích lũy
6
- Đối với Ngân hàng thương mại cổ phần:
+ Do cổ đông góp vốn
+ Vốn tích lũy.
• Nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp và các nhân: Là những giá trị
tiền tệ huy động được từ các tổ chức kinh tế, các cá nhân và trong xã hội
thông qua việc thực hiện các dịch vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ
kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Nghiệp vụ huy
động vốn là một trong những nghiệp vụ tiền đề và có ý nghĩa đối với bản
thân ngân hàng cũng như đối với xã hội. Thành phần nguồn vốn huy động
bao gồm: Tiền gửi: bao gồm tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán, tiền
gửi tiết kiệm và tiền gửi khác từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Phát hành
giấy tờ có giá.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là số tiền trên các tài khoản vãng lai, các tài khoản
liên ngân hàng và thanh toán; không có kỳ hạn xác định với lãi suất thấp. Ở một số
nước, loại tiền gửi này không được hưởng lãi suất. Các cá nhân hoặc tổ chức khi
gửi tiền được mở một tài khoản để có thể gửi tiền và rút ra bất cứ lúc nào với lãi
suất tương tự như loại tiết kiệm không kỳ hạn.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Phần lớn là nguốn vốn ổn định, Ngân hàng có thể sử
dụng loại nguồn vốn này một cách chủ động để kinh doanh. Vì vậy, các Ngân hàng
thường khuyến khích khách hàng gửi tiền dưới hình thức này với nhiều chương
trình khác nhau đáp ứng nhu cầu tiền gửi của khách.
• Nguồn vốn vay từ các Ngân hàng khác: Trong hoạt động kinh doanh của
mình, việc thiếu hoặc thừa vốn là tình trạng thường xuyên xảy ra. Để khắc
phục hiện tượng này, thông qua Ngân hàng nhà nước, các Ngân hàng
thương mại có thể vay vốn của nhau để phục vụ hoạt động kinh doanh của
mình.
Nguồn vốn đi vay là khoản tiền mượn thêm để đáp ứng nhu cầu thanh khoản
trong khi khả năng huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro
thanh khoản của các ngân hàng, đồng thời nó sẽ làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng
thông qua đòn bẩy tài chính.
- Vay từ Ngân hàng trung ương: là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp
bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân
7
hàng Nhà nước là tái chiết khấu. Ngân hàng trung ương cho vay nhằm mục đích để
bảo vệ an toàn cho hệ thống ngân hàng và thực hiện chính sách tiền tệ.
- Vay từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác: là nguồn tiền các
ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của cá tổ chức tín dụng khác trên thị trường
liên ngân hàng. Với các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do dư các khoản
tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm
kiếm lợi nhuận. Và các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ thì có nhu cầu vay mượn
tạm thời để đảm bảo khả năng thanh khoản.
• Nguồn vốn trong thanh toán: Nguồn vốn này hình thành từ các hoạt động
thanh toán không dùng tiền mặt như: Séc trong quá trình chi trả, tiền ký
quỹ để mở L/C. Mặc dù đây là một trong những nguồn vốn chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại nhưng nó cũng góp
phần làm cho hoạt động của Ngân hàng được thông suốt và thuận lợi hơn.
• Nguồn vốn khác: Vốn khác là toàn bộ giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy
động được thông qua việc cung cấp các phương tiện thanh toán và cung
cấp các dịch vụ ủy thác đầu tư. Bao gồm nguồn ủy thác, nguồn thanh toán
và các nguồn khác.
- Phát hành trái phiếu: Trái phiếu ngân hàng thực chất là một giấy nhận nợ của
ngân hàng với khách hàng, trong đó cam kết thanh toán một số tiền xác định bằng
mệnh giá trái phiếu vào ngày đáo hạn, với mức lãi suất cố định trong thời hạn định
trước. Trái phiếu là một công cụ nhằm huy động vốn trung và dài hạn để tài trợ cho
các dự án lớn theo yêu cầu phát triển trên địa bàn hoặc tập trung vốn tài trợ cho các
dự án được chính phủ chỉ định. Trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn
và đồng loạt trong cả hệ thống ngan hàng. Trái phiếu thường gồm các loại: có ghi
tên, không ghi tên, trả lãi trước, trả lãi sau, có thể chuyển nhượng, thừa kế, hoặc có
thể được ngân hàng mua lại theo hình thức chiết khấu.
- Chứng chỉ tiền gửi: Chứng chỉ tiền gửi được phát hành với mục đích huy
động vốn trung dài hạn góp phần phục vụ đầu tư phát triển đất nước và thực hiện kế
hoạch kinh doanh của Ngân hàng. Chứng chỉ tiền gửi được phát hành với các hình
thức chứng chỉ tiền gửi vô danh, chứng chỉ tiền gửi ghi danh bằng VNĐ. Các mệnh
giá chứng chỉ tiền gửi được ghi trên chứng chỉ theo yêu cầu của người mua, tối
8
thiểu 1.000.000VNĐ (hoặc 100 USD). Lãi suất được cố định trong suốt thời hạn gửi
với các mức khác nhau nhưng cao hơn lãi suất gửi tiết kiêm.
1.1.3. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào thì đều phải có các yếu tố công nghệ, lao
động, nguồn vốn trong đó nguồn vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng, phản ánh
năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với ngân hàng
thương mại, vốn lại càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động của ngân
hàng bởi vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh
doanh chủ yếu của ngân hàng. Vốn vừa là phương tiện kinh doanh, vừa là đối
tượng kinh doanh của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại thực hiện kinh doanh
loại “ hàng hóa đặc biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng
khoán. Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi thành lập theo quy định của pháp luật, các
ngân hàng phải thường xuyên tìm mọi biện pháp để tăng trưởng vốn trong quá
trình hoạt động kinh doanh.
-
Vốn quyết định khả năng thanh toán và năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng phát triển thì các ngân
hàng phải có uy tín lớn trên thị trường, mà trước tiên thể hiện thông qua khả
năng sẵn sang thanh toán, chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Đối với một
ngân hàng thì vấn đề luôn đặt ra song song là khả năng thanh toán và đáp ứng
được nhu cầu vốn vay của nền kinh tế. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng
cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, nếu loại trừ các nhân tố
khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói
chung và với vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn,
ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến
hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhẵm giữ chữ tín và nâng cao vị thế
trên thị trường kinh tế của ngân hàng.
Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh
khác của ngân hàng:
Vốn của ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng.
9
Nếu có nguồn vốn dồi dào, các ngân hàng sẽ có đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu về
vốn, có điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị trường
tín dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều loại hình
khác nhau như: liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh doanh chứng
khoán,.. các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và tạo thêm vốn cho
ngân hàng, đồng thời nâng cao uy tín và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy,
vốn có vai trò quyết dịnh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Thực tế đã chứng minh rằng: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật
của ngân hàng là tiền đệ cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn là
điều kiện thuận lợi của ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành
phần kinh tế xem xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời
hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Đồng thời
vốn của ngân hàng tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng tổng hòa các nguồn vốn khác.
Trên cơ sở đó sẽ giúp cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng
trên thị trường, góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo them vốn
cho ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm bảo khả
năng thực hiện chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, đảm bảo cân
đối tiền – hàng trong nền kinh tế.
1.1.4. Mối quan hệ giữa nguồn vốn và sử dụng vốn
Nguồn vốn và sử dụng vốn đó là hai quá trình hoạt động của Ngân hàng.
Công tác cân đối vốn của Ngân hàng là một mục tiêu huy động vốn đúng đắn,
phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trong từng thời kỳ sẽ tạo điều kiện cho các
ngân hàng thương mại đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa và tăng trưởng nguồn
vốn kinh doanh. Việc cân bằng, hài hoà giữa huy động vốn và sử dụng vốn chính
là công tác cân đối vốn của Ngân hàng. Công tác cân đối vốn là hết sức quan
trọng và cần thiết đối với bất kỳ ngân hàng nào. Đó là một biện pháp nghiệp vụ,
là một công cụ quản lý của ngân hàng, thông qua bảng cân đối nguồn vốn mà
ngân hàng xem xét, phân tích cơ cấu, tỷ trọng các nguồn và từng khoản sử dụng
10
để dự đoán nhu cầu vốn biến động trong tương lai, từ đó có chính sách huy động
vốn thích hợp.
Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và của nền kinh tế mà nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói riêng phải
thường xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao hiệu
quả của sử dụng vốn là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của
hoạt động kinh doanh ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Nguồn vốn và
việc sử dụng vốn là mối quan hệ thuận chiều, nếu việc sử dụng vốn hiệu quả thì
cũng dẫn tới nguồn vốn ngân hàng thương mại ngày càng tăng cao và ngược lại.
Vì vậy, nâng cao hiệu quả huy động vốn là sự cần thiết trong quá trình hoạt động
của NHTM ở tất cả các quốc gia. Ngoài ra, sử dụng hiệu quả nguồn vốn là cơ sở
duy trì sự tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh tạo lập vốn và khả năng thu hút vốn của
ngân hàng.
1.2. Huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm về huy động vốn.
Ngân hàng thương mại xét về bản chất là một doanh nghiệp đặc biệt trên thị
trường bởi nó cũng hoạt động kinh doanh như một doanh nghiệp bình thường, song
hàng hóa nó kinh doanh là tiền tệ, vàng bạc, giấy tờ có giá, chứng khoán,… Ngân
hàng thương mại không trực tiếp tham gia sản xuất và lưu thông hàng hóa như các
doanh nghiệp thông thường, nhưng nó góp phần phát triển kinh tế- xã hội qua ba
chức năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và làm dịch vụ tiền
tệ, tín dụng, chứng khoán cho khách hàng.
Ngân hàng thương mại kinh doanh chủ yếu không phải là từ vốn tự có mà chủ
yếu bằng nguồn vốn của những người gửi tiền, bằng cách làm trung gian tài chính,
làm môi giới cho người cần vay và người có vốn cho vay.
Huy động vốn được coi là hoạt động mà ngân hàng sử dụng các công cụ và
biện pháp khác nhau nhằm tạo lập nguồn vốn để đảm bảo hoạt động liên tục và hiệu
quả tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.
Ngân hàng thương mại huy động vốn kinh doanh bằng cách thu hút khách
hàng đến giao dịch với biện pháp ký gửi tài sản cho khách hàng.
Nguồn vốn tiền gửi của ngân hàng bao gồm: tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
không kỳ hạn, tài khoản séc, tài khoản vãng lai,..
11
-
Nguồn vốn tự tạo: Vốn tự có của ngân hàng.
Nguồn vốn đi vay: Vay từ dân cư, tổ chức tài chính khác, ..
Có thể nói, huy động vốn là hoạt động thường xuyên và luôn gắn liền với kế
hoạch kinh doanh của tổ chức tài chính, bởi lẽ vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu
để các tổ chức tài chính tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì
vậy, khi tiến hành các hoạt động huy động vốn, tổ chức tín dụng phải tính toán sao
cho việc sử dụng đồng vốn hiệu quả nhất. Mặt khác, huy động vốn xét về bản chất
chính là việc tổ chức tín dụng đi vay tiền từ các chủ sở hữu số tiền đó và có trách
nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hang có nhu
cầu rút vốn.
1.2.2. Mục tiêu huy động vốn
Hoạt động huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực
hiện các hoạt động kinh doanh khác. Nếu không có hoạt động huy động vốn, ngân
hàng thương mại sẽ không có đủ nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động của mình. Mặt
khác, thông qua hoạt động huy động vốn ngân hàng thương mại có thể đo lường
được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng.
Điều đó đặt ra cho mỗi ngân hàng thương mại là không ngừng hoàn thiện hoạt
động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có thể nói
rằng hoạt động huy động vốn góp phần giải quyết đầu vào của ngân hàng và mục
tiêu đặt ra đối với mỗi ngân hàng là huy động được càng nhiều vốn với chi phí thấp
càng tốt.
Không chỉ vậy việc huy động vốn còn đặt ra yêu cầu về tính ổn định và cơ cấu
nguồn vốn hợp lý. Ngân hàng khi huy động vốn cần xây dựng những tiêu chuẩn về
quy mô và tăng trưởng nguồn vốn huy động ổn định. Vì vậy mà đặt ra yêu cầu về
quản trị tốt hoạt động huy động vốn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng.
1.2.3. Nguyên tắc huy động vốn
- Tuân thủ pháp luật trong hoạt động huy động vốn:
Các ngân hàng thương mại không được huy động vốn quá nhiều so với vốn tự
có nhằm đảm bảo khả năng chi trả về sau. Bên cạnh đó, các ngân hàng phải áp dụng
mức lãi suất huy động phù hợp với cơ chế quản lý về lãi suất của ngân hàng nhà
nước, bởi lãi suất là một trong những công cụ để ngân hàng Nhà nước kiểm soát
12
được lượng tiền trong lưu thông, bình ổn giá cả và chống lạm phát.
Các ngân hàng thương mại có trách nhiệm hoàn trả gốc lãi cho khách hàng
vô điều kiện, tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định hiện hành nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng của người gửi tiền. Hơn nữa ngân hàng phải giữ bí mật số
dư và hoạt động của tài khoản khách hàng nhưng không được phép che giấu các
khaorn tiền lớn và bất thường. Đồng thời các ngân hàng không được cạnh tranh
bất hợp lý dẫn đến khủng hoảng lòng tin của người gửi tiền, gây ảnh hưởng xấu
đến nền kinh tế.
Thỏa mãn yêu cầu kinh doanh với chi phí thấp nhất:
Mục đích hoạt động của ngân hàng thương mại là vì lợi nhuận, do đó các
ngân hàng thương mại phải đảm bảo được yêu cầu chi phí thấp và quy mô huy động
nguồn vốn lớn nhằm tài trợ cho các dự án qua việc cấp phát tín dụng và tạo ra biên
độ chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra tạo lợi nhuận cao. Để có thể cạnh tranh với
các trung tài tài chính khác, đòi hỏi mỗi ngân hàng thương mại phải có phương thức
trả lãi đa dạng với nhiều hình thức khác nhau và áp dụng nhiều phương thức huy
động để hạn chế rủi ro, phù hợp với đặc điểm hoạt động của ngân hàng. Do nhu cầu
của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng không chỉ là an toàn và lãi suất mà còn
có nhu cầu sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, vì vậy mà mỗi một ngân hàng cần
kết hợp chặt chẽ giữa huy động vốn với hiện đại hóa dịch vụ ngân hàng nhằm thu
hút được lượng tiền gửi lớn.
Ngăn ngừa sự giảm sút bất thường của nguồn vốn huy động:
Hoạt động của ngân hàng chủ yếu dựa vào niềm tin của khách hàng. Có tin
tưởng và sự quản lý và khả năng trả nợ của ngân hàng thì người dân mới gửi tiền.
Vì vậy để tạo và giữ vững niềm tin của khách hàng, thì ngân hàng phải đảm bảo
được khả năng thanh toán, đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu trong mọi tình huống.
Trong trường hợp đặc biệt khi có sự cố xảy ra, ngân hàng phải có phương án đáp
ứng nhu cầu thanh khoản kịp thời để tránh tâm lý bất an cho rằng ngân hàng mất
khả năng thanh toán của khách hàng.
1.2.4. Các hình thức huy động vốn
Có rất nhiều hình thức huy động vốn khác nhau trong hoạt động của mỗi
ngân hàng, tuy nhiên tựu chung lại hình thức huy động vốn có thể chia ra thành
các loại sau:
13
1.2.4.1. Huy động vốn thông qua tiền gửi thanh toán
Đó là khoản tiền của các cá nhân hoặc doanh nghiệp được gửi vào ngân hàng
nhờ ngân hang giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu
chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của
khách hàng. Đây là một khoản huy động lãi suất thấp nhưng đảm bảo tính linh hoạt,
kịp thời và được hưởng các dịch vụ của Ngân hàng với mức phí thấp.
Mặc dù người gửi có thể gửi và rút ra bất cứ lúc nào đối với tiền gửi thanh
toán nhưng có sự chênh lệch nhất định về thời gian và số lượng vì vậy mà loại tài
khoản này luôn tồn tại số dư. Ngân hàng có thể huy động số dư đó làm nguồn vốn
tín dụng để cho vay. Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt tại nước ta còn
thấp vì vậy để khuyến khích khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, các
NHTM có xu hướng trả lãi cho loại tiết kiệm tiền gửi này.
Bên cạnh tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân và doanh nghiệp, các ngân
hàng cũng thực hiện huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán của các
NH khác nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và các mục đích khác của NH gửi, tuy
nhiên quy mô của nguồn tiền này không lớn.
1.2.4.2. Huy động vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm cá nhân.
Tiền gửi tiết kiệm cá nhân là những khoản tiền gửi được ủy thác vào ngân
hàng trên cơ sở có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng.
Khi đến hạn khách hàng có thể rút số tiền gửi ra để phục vụ nhu cầu của mình hoặc
tiếp tục gửi lại với thỏa thuận thời gian mới.
Mục đích của khách hàng cá nhân thường là tiết kiệm, bảo quản, có khả năng
sinh lời vì vậy tỷ lệ khách hàng cá nhân gửi tiền vào Ngân hàng dưới dạng tiền gửi
là chủ yếu, đây là nguồn vốn tương đối quan trọng, vì thường chiếm tỷ trọng khá
cao trong tổng tiền gửi của ngân hàng và thường có tính ổn định cao và chi phí trả
lãi thường thấp nhất trong tiền gửi của NHTM.
1.2.4.3. Huy động vốn thông qua tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp.
Trong hoạt động của ngân hàng không chỉ đối tượng khách hàng cá nhân
đóng vai trò quan trọng mà đối tượng khách hàng là các tổ chức kinh tế cũng góp
14
phần tạo nên sự đa dạng trong hoạt động của ngân hàng, thường thì khách hàng
là doanh nghiệp có trích lập các quỹ theo quy định để phục vụ hoạt động kinh
doanh nhưng chưa có nhu cầu sử dụng trong thời gian gần sẽ chuyển sang tiền
gửi tiết kiệm của doanh nghiệp để hưởng mức lãi suất cao hơn, tăng thêm lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Nguồn gửi của các khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
của doanh nghiệp thường bao gồm quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ dự phòng
tài chính, quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ đầu tư phát triển, quỹ khác từ vốn chủ
sở hữu,..
Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì mục
đích của khách hàng doanh nghiệp gửi tiền là lợi nhuận chứ không phải là để thanh
toán. Do đó, khác với loại tiền gửi thanh toán, lãi suất là yếu tố có tác động rất lớn
đến loại nguồn vốn này.
1.2.4.4. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
Giống như các doanh nghiệp khác, Ngân hàng cũng thực hiện huy động vốn
bằng cách phát hành các loại giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu ngân
hàng,.. để huy động vốn trên thị trường.
Các giấy tờ có giá của NH là các giấy nhận nợ mà NH bán cho công chúng và
là một hình thức vay vốn của NHTM bởi vì những người sở hữu các giấy tờ có giá
này được hoàn trả vốn vào thời gian đáo hạn cộng thêm khoản tiền lãi nhất định.
Các giấy tờ có giá bao gồm:
Tín phiếu ngân hàng: Là giấy tờ có giá của ngân hàng dùng để huy động
-
những khoản vốn ngắn hạn.
Kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng: Là giấy tờ có giá để ngân hang huy động
những khoản vốn trung và dài hạn.
Đối với các tài khoản tiền gửi phụ thuộc vào nhiều sở thích của khách hàng thì
việc sử dụng các giấy tờ có giá là một hình thức huy động vốn mang tính chủ động
của NH. Nguồn vốn hy động có được bằng việc phát hành giấy tờ có giá được sử
dụng cho những khoản tín dụng trong kế hoạch của NH. Đây là một hình thức huy
động vốn tương đối mới mẻ so với các NHTM của các nước đang phát triển vì nó
phụ thuộc nhiều vào uy tín và năng lực tài chính của chính NH đó.
1.2.4.5. Vay vốn của các ngân hàng khác.
Với mục đích nhờ thanh toán hộ giữa các ngân hàng có quan hệ trên thị trường
15
liên NH, tạo điều kiện thuận tiện cho khách hàng và một số mục đích khác, NHTM
có thể gửi tiền tại các ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn vốn thường không
lớn do hình thức này chỉ áp dụng trong trường hợp NH có nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi chưa đầu tư, cho vay hoặc hiệu quả cho vay đầu tư không hiệu quả như việc gửi
tiền tại các NH khác.
1.2.4.6. Huy động vốn bằng các hình thức khác:
Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp,các ngân hàng thương mại còn sử dụng các hình thức khác về dịch vụ
xã hội để huy động vốn: làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung
gian thanh toán, đầu mối trong hợp đồng đồng tài trợ, vốn ủy thác đầu tư và cho vay
của chính phủ, các tổ chức quốc tế... Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ trên
càng mang lại cho ngân hàng những nguồn huy động lớn giúp cho ngân hàng có thể
kinh doanh một cách an toànvà hiệu quả.
1.3. Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.3.1. Khái niệm về hiệu quả huy động vốn
Sự hiệu quả được định nghĩa là đạt được một kết quả giống nhau nhưng sử
dụng ít thời gian, công sức và nguồn lực nhất.
Đối với một số nhà quản trị học lại quan niệm hiệu quả kinh doanh được xác
định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Manfred Kuhn cho rằng: Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính
theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh. Một quan điểm khác lại cho rằng:
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ
đến xã hội xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu
tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất định. Vì
vậy, trong những hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau thì bản chất của
phạm trù hiệu quả và những yếu tố hợp thành phạm trù hiệu quả vận động theo
những khuynh hướng khác nhau.
Trong phạm vi hoạt động của Ngân hàng thì hiệu quả huy động vốn của
NHTM có thể hiểu chính là kết quả huy động mà NH đạt được phù hợp với nhu
cầu sử dụng vốn, đảm bảo được mục tiêu an toàn và sinh lợi cao cho NH trong
từng thời kỳ.
Ngoài ra, hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại còn được nhìn
16
nhận như là kết quả đích thực thu được từ hoạt động huy động vốn của Ngân hàng.
1.3.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả huy động vốn.
Các Ngân hàng Thương mại hoạt động trên thị trường với tư cách là các trung
gian tài chính với chức năng chủ yếu là phân phối lại tiền tệ trong xã hội, thúc đẩy
nền kinh tế không ngừng phát triển. Hoạt động huy động vốn chính là việc thu hút
các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để rồi sau đó ngân hàng phân phối đến nơi
thiếu vốn (bằng các hoạt động cho vay, đầu tư). Làm tốt công tác huy động vốn
cũng đồng nghĩa với ngân hàng làm tốt nhiệm vụ quan trọng nhất của mình . Cho
nên mọi Ngân hàng Thương mại đều phải ý thức được sự cần thiết của việc đẩy
mạnh hiệu quả hoạt động huy động vốn đặc biệt là trong thời gian này, việc huy
động vốn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
tại giai đoạn khó khăn.
Vì vậy, yêu cầu nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn là vấn đề
thực sự cần thiết và đòi hỏi công tác huy động vốn phải đáp ứng được các yêu
cầu cơ bản sau:
Thứ nhất: Nguồn vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh doanh của
ngân hàng để đảm bảo có khả năng đáp ứng cho hoạt động sử dụng vốn của ngân
hàng: Tức là vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn định về số lượng, có thể thoả
mãn các nhu cầu tín dụng, thanh toán cũng như các hoạt động kinh doanh khác của
ngân hàng.
Thứ hai: Nguồn vốn huy động phải đảm bảo cơ cấu hợp lý: đó chính là tính
cân đối theo nhu cầu giữa vốn ngắn hạn và vốn trung dài hạn giữa huy động ở dân
cư, huy động ở tổ chức và…Một cơ cấu vốn hợp lý phải là một cơ cấu vốn đáp ứng
tối đa nhu cầu sử dụng và không có tình trạng bất họp lý, dư thừa hay thiếu vốn.
Thứ ba: Nguồn vốn huy động phải đảm bảo tối thiểu hoá chi phí: Đây là yếu
tố quan trọng nhất, có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng. Chi phí này
chính là số tiền mà ngân hàng phải trả cho các lượng vốn huy động được, chi phí
hoạt động cao hay thấp phụ thuộc vào mức lãi suất mà ngân hàng đưa ra, tất nhiên
là lãi suất huy động càng cao thì càng hấp dẫn khách hàng. Nhưng cả lãi suất huy
động và lãi suất cho vay đều là công cụ cạnh tranh của ngân hàng và hai loại này lại
có quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với nhau và có khi đối ngược nhau, nếu ngân hàng
17
nâng lãi suất huy động để tăng cường huy động vốn thì cũng buộc phải nâng lãi
suất cho vay để đảm bảo bù đắp chi phí huy động và kinh doanh có lãi.
Như vậy, nâng lãi suất huy động quá cao thì lại dẫn tới giảm khả năng cạnh
tranh trong cho vay và đầu tư. Yêu cầu đặt ra cho ngân hàng là phải làm sao đưa ra
mức lãi suất hợp lý, vừa đảm bảo cạnh tranh trong huy động và cạnh tranh trong
cho vay đồng thời đảm bảo có lãi. Có thể thấy rằng, việc tối thiểu hoá chi phí huy
động theo từng loại hình huy động là rất khó do những đặc điểm riêng của từng loại
hình vừa nêu trên. Cơ sở để ngân hàng hàng tối thiều hoá chi phí huy động ở đây là
sự hợp lý về cơ cấu vốn và sự cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Ngoài ra, việc nâng cao hiệu quả huy động vốn sẽ là yếu tố đảm bảo một phần
cho các rủi ro có thể xảy ra. Đó cũng là lý do khiến cho việc huy động vốn là yếu tố
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn.
Ngân hàng thương mại kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ nền
kinh tế, điều này cũng cho thấy sự khác nhau giữa ngành kinh doanh tiền tệ với các
doanh nghiệp khác. Vì vậy, việc nghiên cứu nguồn vốn huy động của Ngân hàng là
việc làm quan trọng mà các nhà phân tích cần phải làm.
• Phân tích tổng quát nguồn vốn.
Số dư từng khoản mục nguồn vốn
Tỷ lệ % từng khoản nguồn vốn =
* 100%
Tổng nguồn vốn
Chỉ số này giúp nhà phân tích biết được cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng.
Mỗi một khoản nguồn vốn đều có những yêu cầu khác nhau về chi phí, tính thanh
khoản, thời hạn hoàn trả khác nhau…do đó Ngân hàng cần phải quan sát, đánh giá
từng loại nguồn vốn để kịp thời để có những chiến lược huy động vốn tốt nhất trong
từng thời kỳ nhất định.
• Phân tích về cơ cấu vốn huy động
Số dư từng loại tiền gửi
Tỷ trọng từng loại tiền gửi =
Tổng vốn huy động
* 100%
Đây là chỉ số xác định cơ cấu vốn huy động của ngân hàng. Mỗi loại tiền gửi
có những yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản, kỳ hạn,.. Do đó, việc xác định
18
rõ cơ cấu vốn huy động sẽ giúp Ngân hàng hạn chế được những rủi ro có thể gặp
phải trong quá trình huy động vốn và tối thiểu hóa chi phí đầu vào cho Ngân hàng.
Vì vậy, nếu tỷ trọng của các loại vốn huy động (ngắn hạn, trung dài hạn, nội tệ,
ngoại tệ) với nhu cầu sử dụng vốn ở mức hợp lý, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn
của ngân hàng thì hiệu quả huy động vốn của ngân hàng mới cao.
• Chênh lệch thu chi lãi/ Chi phí trả lãi của Ngân hàng
Mối liên hệ nguồn vốn và tài sản là mối lien hệ giữa huy động vốn và sử dụng
vốn. Đó là hai mặt của quá trình hoạt động của Ngân hàng. Tuy nhiên, để đánh giá
hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng, tức là khả năng đáp ứng kịp thời các nhu
cầu về sử dụng vốn hay khả năng sinh lời từ đồng vốn huy động được thì các Ngân
hàng cũng thường sử dụng chỉ tiêu chênh lệch thu chi lãi trên chi phí trả lãi của
Ngân hàng để đánh giá mối liên hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn cũng như hiệu
quả hoạt động huy động vốn.
Chênh lệch thu chi lãi
Thu lãi - Chi lãi
=
Chi phí trả lãi
Chi phí trả lãi
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí Ngân hàng bỏ ra để huy động vốn sẽ
thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ đồng vốn đó. Chỉ tiêu này càng cao thì cho
thấy Ngân hàng đã sử dụng càng hiệu quả vốn huy động của mình trong việc tối
thiểu hóa chi phí huy động cho đồng vốn đó.
• Tỷ trọng giữa vốn huy động/ Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này nói lên tổng vốn huy động chiếm trong tổng nguồn vốn hoạt
động, nghĩa là trong một đồng vốn có bao nhiêu đồng vốn huy động được từ bên
ngoài. Tỷ số này càng cao thì khả năng chủ động trong nguồn vốn của Ngân hàng
càng lớn.
• Tốc độ tăng trưởng vốn huy động.
Tốc độ tăng
trưởng vốn
huy động
( Tổng vốn HĐ năm sau - Tổng vốn HĐ năm trước)
=
Tổng vốn HĐ năm trước
*100
Trong tổng nguồn vốn thì nguồn vốn huy động là yếu tố quan trọng đối với
hoạt động của ngân hàng. Nếu ngân hàng huy động càng nhiều vốn thì đơn vị càng
19
có khả năng mở rộng quy mô cho vay bởi vì ngân hàng là doanh nghiệp đi vay để
cho vay. Vì vậy, đơn vị phải thường xuyên theo dõi quy mô và cơ cấu nguồn vốn
huy động theo kỳ hạn, theo đối tượng huy động (tổ chức kinh tế, cá nhân), theo loại
tiền (VND và ngoại tệ),… trên cơ sở xác định cơ cấu từng thành phần trong nguồn
vốn huy động. Qua đó có thể xem xét, đánh giá nguồn vốn huy động để có biện
pháp điều chỉnh hợp lý. Đồng thời có thể nắm được tốc độ tăng trưởng của nguồn
vốn huy động.Trong tổng nguồn vốn thì nguồn vốn huy động là chỉ tiêu rất quan
trọng đối với hoạt động của ngân hàng. Nếu ngân hàng huy động càng nhiều vốn thì
đơn vị càng có khả năng mở rộng quy mô cho vay bởi vì ngân hàng là doanh nghiệp
đi vay để cho vay.
Bên cạnh việc sử dụng chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng vốn huy động, ngân hàng
cũng cần đánh giá quy mô vốn huy động của ngân hàng như thế nào. Các NHTM
thường dùng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy động (TLHTKHHĐ) để đánh giá quy
mô huy động vốn:
Tổng vốn huy động
TLHTKHHĐ
=
Kế hoạch huy động vốn
Hàng năm, mỗi ngân hàng đều đưa ra các chỉ tiêu kinh doanh và nỗ lực đạt
được các chỉ tiêu đó. Trong đó chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng vốn là một trong những
thước đo quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
• Sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn
Huy động vốn và sử dụng vốn được coi là hai hoạt động cơ bản và quan
trọng nhất của một ngân hàng. Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn
còn được thể hiện ở kỳ hạn, loại tiền và mức chi phí huy động. Hiểu được mối
quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn thì ngân hàng mới có thể có được mức
lãi suất, kỳ hạn và loại tiền huy động phù hợp đảm bảo lợi nhuận ngân hàng thu
được là lớn nhất.
• Chi phí huy động vốn
Chi phí huy động vốn là toàn bộ số tiền ngân hàng phải bỏ ra để có được số
vốn đó, bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí khác. Phương pháp xác định chi phí
huy động vốn rất hữu ích cho ngân hàng để xây dựng chính sách kinh doanh có hiệu
quả. Có hai lý do chủ yếu mà ngân hàng quan tâm khi xác định chi phí huy động
20
vốn: Tính toán tương đối chính xác chi phí huy động vốn là yếu tố cơ bản để xác
định mức lợi nhuận mà ngân hàng cần thu được từ các tài sản có sinh lời và loại
hình nguồn vốn mà ngân hàng huy động được và việc sử dụng nguồn vốn nầy ảnh
hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn.
Để phục vụ cho việc quản lý chi phí huy động vốn và xác định các mức lãi
suất tiền gửi, tiền vay một cách hợp lý, các ngân hàng thường tính toán lãi suất
huy động vốn bình quân, được tính bằng công thức:
Tổng lãi phải trả
Lãi suất huy động bình quân =
Tổng tiền gửi và tiền vay
Cách tính này gặp phải một số nhược điểm như không bao gồm các chi
phí lien quan đến việc huy động vốn và không thể dùng làm cơ sở quyết
định sẽ lựa chọn nguồn vốn nào để huy động. Để khắc phục, ta có thể sử dụng
công thức:
Chi phí trả lãi + Chi phí huy động
Chi phí bình quân gia quyền =
Nguồn huy động trả lãi
Phương pháp này chỉ xem xét được ở trong quá khứ nên để xem xét đến chi
phí trong tương lai, ta sử dụng công thức tính chi phí huy động vốn biên như sau:
Chi phí trả lãi tăng thêm
Chi phí biên =
Tổng vốn huy động tăng thêm
Việc định giá nguồn vốn đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình
thực hiện những mục tiêu của ngân hàng. Giá cả chính là công cụ mà mỗi ngân hàng có
thể chọn để nhằm đạt được mức và kết cấu nguồn vốn cho phép ngân hàng nâng cao
khả năng sinh lời và các mục tiêu khác, dẫu cho rằng mỗi ngân hàng không thể tự
quyết định mức giá mà là do thị trường dẫn dắt. Việc định giá các nguồn vốn tác động
sâu sắc đến chi phí của ngân hàng cũng như đến loại và tư cách khách hàng mà ngân
hàng chọn giao dịch. Rõ ràng là giá cả của nguồn vốn huy động có ảnh hưởng tới qui
mô, kết cấu và mức lãi chênh lệch của tất cả các nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng.
Trong giai đoạn tự do hóa tài chính hiện nay, việc định giá nguồn vốn tiền gởi
và các nguồn vốn khác chính là một bài toán mà mỗi nhà quản trị phải tự đi tìm lời
21
giải bởi không có lời giải sẵn cho họ.
Sau khi cân nhắc tác động của từng loại nguồn vốn khác nhau dựa trên chi phí
huy động vốn hay chính sách huy động cốn để định hướng cho hành động cụ thể.
Nói cách khác, ngân hàng sử dụng quan điểm marketing để xác định nhu cầu của
khách hàng và thuyết phục khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Như
vậy, một chiến lược huy động vốn thành công (huy động được một lượng vốn cần
thiết cho hoạt động của đơn vị mình) khi nó thu hút sự quan tâm của khách hàng và
giảm thiểu được chi phí cho việc thu hút khách hàng đó.
• Chênh lệch lãi suất bình quân giữa huy động vốn và sử dụng vốn
Thu lãi cho vay, đầu tư
Tổng chi lãi
Chênh lệch lãi
=
suất bình quân
Tổng TS sinh lời bình quân
Tổng nguồn vốn phải trả BQ
Chỉ tiêu chênh lệch lãi suất bình quân giữa huy động vốn và sử dụng vốn giúp
ta nhận định rõ hiệu quả trong công tác huy động vốn và khả năng tiết kiệm chi phí
sử dụng vốn. Nếu chênh lệch này càng lớn thì hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng càng hiệu quả và ngược lại.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn
• Nhân tố khách quan:
Các quy định của pháp luật: Với đặc thù của ngành ngân hàng thì NHTM chịu
nhiều quy định điều chỉnh và giảm sát hơn các lĩnh vực khác. Trong đó hoạt động
huy động vốn cũng là một công cụ điều chỉnh của NHNN nhằm điều tiết nền kinh tế
để kiểm soát lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Tình hình kinh tế (trong nước và quốc tế): Những yếu tố cơ bản trong nền kinh
tế tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng như tốc độ tăng
trưởng, lạm phát, thu nhập bình quân đầu người... Trong nền kinh tế hội nhập thì
nền kinh tế trong nước chịu tác động lớn từ tình hình kinh tế thế giới. Sự biến động
của tỷ giá, lãi suất của thế giới ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn của NHTM
theo ngoại tệ và nội tệ.
Môi trường xã hội: Môi trường xã hội cũng là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng
tới hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Vì
phân bố dân cư và thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm tàng có thể khai
thác nhằm mở rộng quy mô huy động vốn của ngân hàng thương mại. Tâm lý thói
22
quen của dân cư là yếu tố khách quan tác động đế hoạt động ngân hàng.
Các đối thủ cạnh tranh: Hiện nay, số lượng các NHTM hoạt động là rất lớn vì
vậy môi trường cạnh tranh càng khốc liệt. Ngoài ra,đối thủ cạnh tranh của NHTM
không chỉ các ngân hàng trong nước mà còn có các ngân hàng nước ngoài với vốn,
trình độ và năng lực quản trị, công nghệ cao đang tạo ra cơ hội cũng như thách thức
đối với các NHTM trong nước.
Tâm lý, thói quen của khách hàng: Ở mỗi vùng miền, thì các khách hang cũng
có nhu cầu, tâm lý khác nhau. Ví dụ như khách hàng tại miền Bắc thì có xu hướng
tiết kiệm tiền để dành cho tương lai vì vậy mà yêu cầu về tính an toàn, chắc chắn sẽ
được ưu tiên hơn. Nắm bắt tâm lý, thói quen của khách hàng cũng là một trong
nhưng nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn trên thị trường.
• Nhân tố chủ quan:
Lãi suất và chính sách lãi suất: Lãi suất luôn được coi là yếu tố quan trọng
nhất tác động tới hoạt động huy động vốn của NHTM, đây được xem như là giá cả
của dịch vụ. Khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng luôn quan tâm đến mức độ an
toàn và lãi suất huy động. Hiện nay, các ngân hàng thường sử dụng phương thức
cạnh tranh bằng lãi suất.
Cơ sở vật chất, công nghệ: Cơ sở vật chất chính là yếu tố tác động mạnh tới
tâm lý khách hàng, vì khi họ nhìn thấy ngân hàng có cơ sở vật chất hiện đại, chuyên
nghiệp họ sẽ yên tâm gửi tiền vào ngân hàng.
Uy tín của ngân hàng và hoạt động marketing quảng bá hình ảnh thương hiệu
của ngân hàng: Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng cần phải tạo uy tín cho khách
hàng, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng vì đây là lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến tiền tệ.
Muỗn xây dựng uy tín thì ngân hàng cần phải đẩy mạnh quảng bá thương hiệu hình
ảnh. Khi tạo được uy tín với khách hàng thì họ sẽ yên tâm gửi tiền vào ngân hàng.
Kế hoạch tổng hợp: Trong hoạt động huy động vốn nói riêng thì con người là
yếu tố quan trọng trong việc tiếp xúc khách hàng, đặt quan hệ giao dịch... Do đó để
tăng cường huy động vốn thì một yêu cầu được đặt ra là ngân hàng cần phải có một
đội ngũ cán bộ có năng lực, được đào tạo một cách bài bản, có chuyên môn nghiệp
vụ cao, đồng thời phải nắm bắt được những kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
23
Mạng lưới của ngân hàng: Một ngân hàng có nhiều điểm giao dịch, mức độ
phổ biến rộng rãi thì sẽ dễ thu hút huy động vốn hơn. Khi khách hàng gửi tiền vào
Ngân hàng thì ngoài các yếu tố trên còn đòi hòi sự linh hoạt, thuận tiện trong việc
giao dịch, rút tiền, Vì vậy nếu Ngân hàng có hệ thống giao dịch rộng khắp cũng sẽ
là yếu tố hấp dẫn trong việc lựa chọn gửi tiền của khách hàng.
Hiệu quả cho vay, đầu tư của ngân hàng: Một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu
thấp, luồng vốn dịch chuyển thông suốt chứng tỏ khả năng thanh khoản tốt của
Ngân hàng. Đó có thể nói là một nhân tố hấp dẫn cho các khách hàng để lựa
chọn gửi tiền.
24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Thông qua quá trình nghiên cứu những lý luận cơ bản về hiệu quả huy động
vốn của Ngân hàng thương mại, ta có thể tóm tắt lại những nội dung chính như sau:
- Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân
hàng tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện
-
các dịch vụ khác.
Hoạt động huy động vốn là yếu tố quyết định cho hoạt động của Ngân hàng
có hiệu quả hay không, trong khi nguyên tắc huy động vốn của Ngân hàng
thương mại là Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng (bao gồm các tầng
lớp dân cư, tổ chức kinh tế) phải có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ và đúng hạn
-
cả vốn và lãi theo thoả thuận trước giữa NHTM và khách hàng.
Hoạt động huy động vốn phải được thực hiện trên dựa trên nhu cầu cho vay
của ngân hàng. Chi phí huy động vốn của NHTM bao gồm chi phí lãi phải
trả và các khoản chi phí khác như. Các ngân hàng thường đo lường chi phí
huy động vốn trên khía cạnh xem xét đến lãi suất huy động bình quân, lãi
suất huy động bình quân gia quyền, chi phí huy động vốn biên; lãi suất huy
động dựa trên tỷ lệ lạm phát và thu nhập kỳ vọng của người gửi tiền. Từ đó
-
đưa ra những quyết định đúng đắn để nâng cao hiệu quả huy động vốn.
Hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn luôn được coi là các hoạt động cơ
bản và quan trọng nhất của NHTM, có mối liên hệ qua lại, tác động chặt
chẽ với nhau. Hoạt động huy động vốn là cơ sở, tiền đề cho hoạt động sử
dụng vốn và ngược lại, khi sử dụng được vốn có hiệu quả thì sẽ thúc đẩy
hoạt động huy động vốn. Mối quan hệ phù hợp giữa huy động vốn và sử
dụng vốn được đánh giá trên các khía cạnh sau: kỳ hạn, loại tiền, tốc độ và
quy mô, chi phí. Để đạt được hiệu quả huy động vốn, các Ngân hàng phải
tính toán cân nhắc để tổng hòa các lợi ích từ đó đưa ra được phương hướng
hiệu quả cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng mình.
25