Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính trong các Công ty Cổ phần thuộc Tổng Công ty Thiết bị Kỹ thuật Điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.48 KB, 99 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.

Theo xu thế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt sau khi gia
nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước nhiều nguy cơ và
thách thức. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
đòi hỏi phải nâng cao năng lực cạnh tranh, đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo
nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nền kinh tế cạnh tranh gay
gắt, ngành nghề đa dạng, thị trường chứng khoán đi vào hoạt động sôi nổi đã
tạo đà cho phân tích tài chính trở thành một hoạt động đặc biệt quan tâm tại
các doanh nghiệp.
Phân tích tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý. Qua
đó phản ánh chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng
như khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, mức lợi nhuận hay mức độ rủi ro
trong kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường hiện nay, vai trò của phân tích tài chính ngày càng có ý
nghĩa và được quan tâm.
Muốn phân tích tài chính phản ánh chính xác tình hình tài chính của
doanh nghiệp thì cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình
tài chính. Đây là vấn đề mang tính quyết định tới chất lượng và hiệu quả của
quá trình phân tích.
Việc xây dựng mô hình các chỉ tiêu tài chính có tính cần thiết và cấp
bách đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Đặc biệt trong giai đoạn tiến tới Cổ
phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay thì các chỉ tiêu tài chính là đối
tượng quan tâm của các cổ đông, các nhà đầu tư tài chính. Các công ty Cổ
phần tại Tổng Công ty Thiết bị Kỹ thuật Điện không nằm ngoài mục tiêu đó.
Trước những nhu cầu cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn
đó, tôi đã lựa chọn “Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính



2

trong các Công ty Cổ phần thuộc Tổng Công ty Thiết bị Kỹ thuật Điện” làm
đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.

Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề thuộc về cơ sở lý luận của phân tích
hoạt động tài chính, hệ thống hóa các chỉ tiêu phân tích tài chính.
Nghiên cứu và đánh giá thực trạng phân tích tài chính thông qua các chỉ
tiêu tài chính tại các Công ty Cổ phần thuộc Tổng Công ty Thiết bị Kỹ thuật
Điện.
Vận dụng lý luận để xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu phân
tích tài chính tại các Công ty Cổ phần thuộc Tổng Công ty Thiết bị Kỹ thuật
Điện nói riêng và đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu
tài chính trong phân tích tài chính tại các Công ty Cổ phần nói chung.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.

Luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung liên quan đến
phân tích tài chính. Đó là những vấn đề lý luận cơ bản về hệ
thống các chỉ tiêu tài chính, các phương pháp phân tích tài
chính thông qua các báo cáo tài chính. Từ đó liên hệ đến hoạt
động phân tích tài chính tại các Công ty Cổ phần.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu nội dung và phương pháp phân tích, hệ
thống các chỉ tiêu phân tích áp dụng tại hai Công ty Cổ phần tại Tổng Công ty
Thiết bị Kỹ thuật Điện.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê Nin; kết hợp

các phương pháp tổng hợp và phân tích, diễn giải với quy nạp, giữa lý luận
với thực tiễn từ đó đưa ra các quan điểm, giải pháp để đạt mục đích nghiên
cứu của đề tài.


3

Đồng thời luận văn kết hợp lý luận cơ bản của khoa học chuyên ngành kế
toán - tài chính và phân tích hoạt động kinh doanh với nội dung quản lý Nhà
nước về tài chính trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN.

Trên cơ sở hệ thống hóa, phân tích, đánh giá thực trạng phân tích tài
chính thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính tại các Công ty Cổ phần nói
chung và tại Công ty Cổ phần thuộc Tổng Công ty Thiết bị Kỹ thuật Điện nói
riêng, luận văn đã tổng hợp và đưa ra các quan điểm cũng như các giải pháp
nhằm hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu, phương pháp và cách thức tổ chức
phân tích tài chính trong các công ty Cổ phần. Từ đó nâng cao hiệu quả, chất
lượng thông tin phân tích phù hợp với điều kiện hội nhập và phát triển kinh tế
thị trường hiện nay.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau :
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc phân tích tình hình
tài chính
trong các công ty cổ phần.
Chương 2: Thực trạng của việc phân tích tình hình tài chính trong các
Công ty Cổ phần thuộc Tổng Công ty Thiết bị Kỹ thuật
Điện.

Chương 3: Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong các Công
ty Cổ phần thuộc Tổng Công ty Thiết bị Kỹ thuật Điện.


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH
TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1.1. Khái niệm Công ty Cổ phần.

Công ty cổ phần xuất hiện rất sớm trong nền kinh tế tư
bản ở thế kỷ XVI. Những công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện ở
Anh, sau đó ở Pháp, Hà Lan và các nước tư bản khác. Hoạt
động chủ yếu của các công ty cổ phần này là trong lĩnh vực
thương mại quốc tế. Tuy nhiên phải đến thế kỷ XX công ty cổ
phần mới phát triển ở hầu hết các nước tư bản có nền kinh tế
thị trường phát triển cao.
Lịch sử hơn một trăm năm qua cho thấy, công ty cổ phần
là phương thức phát triển cao, linh hoạt, giúp cho các nhà đầu
tư huy động được nhiều vốn nhất cho mục tiêu phát triển sản
xuất kinh doanh.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông
cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận,
cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp.
Theo luật doanh nghiệp của nước ta thì công ty cổ phần là
doanh nghiệp, trong đó :
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần.

- Người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông.
- Cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào


5

doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần
ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho
người khác. Trong ba năm đầu, kể từ ngày công ty được cấp
giấy chứng nhận kinh doanh, các cổ đông sáng lập cùng nhau
nắm giữ ít nhất 20% số cổ phiếu phổ thông được quyền chào
bán. Cổ phiếu phổ thông của cổ đông sáng lập có thể chuyển
nhượng cho người không phải là cổ đông nếu được sự chấp
thuận của đại hội cổ đông.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân. Số cổ đông ít nhất là
ba và không hạn chế số lượng tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra
công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
giấy đăng ký kinh doanh.
1.1.2. Các nhân tố và sự hình thành, phát triển của công ty cổ phần.

Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở các nước phát
triển, đến nay đã có lịch sử gần 500 năm và nó được phát triển
theo hình thái mô hình sau:
Hình thái kinh doanh một chủ


Hình thái kinh doanh chung vốn

Hình thái công ty cổ phần


6

Cùng với quá trình phát triển nền sản xuất, các công ty
cổ phần ở các nước trên thế giới cũng hình thành và ngày
thêm mở rộng.
Thứ nhất, trong nền sản xuất hàng hoá quy luật giá trị tác động mạnh.
Sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản buộc họ tìm cách cải tiến và nâng
cao trình độ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất
nhằm làm cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức giá
trị hàng hoá xã hội thì mới có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Điều này
thường chỉ có các nhà tư bản lớn, có quy mô sản xuất ở mức độ nhất định mới
có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại làm cho năng suất lao động tăng,
giành thắng lợi trong cạnh tranh. Còn các nhà tư bản nhỏ, có giá trị hàng hoá
cá biệt cao hơn giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị thua lỗ và phá sản. Để tránh
được kết cục bi thảm đó, các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tìm cách tích tụ vốn
lại để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá trang thiết bị. Tuy nhiên đây
là một biện pháp hết sức khó khăn đòi hỏi phải có thời gian dài mới có thể
thực hiện được. Một lối thoát có hiệu quả hơn là các nhà tư bản vừa và nhỏ có
thể thoả hiệp và liên minh với nhau, tập trung các tư bản cá biệt của họ lại
thành một tư bản lớn để đủ sức cạnh tranh và giành ưu thế với các tư bản
khác. Từ hình thức tập trung vốn như vậy, các công ty cổ phần dần dần đã
hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Thứ hai, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và do trình độ
kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi tư bản cố định tăng lên. Vì
thế quy mô tối thiểu mà một nhà tư bản cá biệt phải có để có thể kinh

doanh dù trong điều kiện bình thường cũng ngày càng lớn hơn. Một nhà tư
bản không thể đáp ứng được số vốn đó, phải có sự liên minh, tập trung
nhiều tư bản cá biệt còn đang phân tán trong nền kinh tế bằng cách góp vốn


7

để cùng kinh doanh. Với sự tập trung vốn như vậy đã hình thành các công
ty cổ phần. Mặt khác cũng do kỹ thuật ngày càng phát triển làm xuất hiện
ngày càng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới
có hiệu quả hơn, thu hút các nhà tư bản vào các ngành lĩnh vực mới này
bằng cách di chuyển tư bản từ những ngành lĩnh vực và các mặt hàng đang
kinh doanh kém hiệu quả. Điều này cũng gây khó khăn cho các nhà tư bản
khi thực hiện di chuyển vốn bởi vì họ không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay các
xí nghiệp cũ để thu hồi và chuyển vốn sang xây dựng ngay một xí nghiệp
mới mà chỉ có thể rút bớt và chuyển dần từng phần vốn mà thôi. Quá trình
này có thể bị kéo dài và có thể họ bị mất thời cơ. Biện pháp khắc phục mà
họ đã chọn là phải tìm cách liên minh với nhau, cùng nhau góp vốn để xây
dựng các xí nghiệp mới. Cùng chung mục đích đi tìm lợi nhuận siêu ngạch,
họ đã gặp nhau và nhanh chóng thoả thuận cùng nhau góp vốn thành lập
các công ty cổ phần để cùng kinh doanh.
Thứ ba, sản xuất ngày càng phát triển, cạnh tranh càng khốc liệt thì sự rủi
ro trong kinh doanh đe doạ phá sản đối với các nhà tư bản càng lớn. Để tránh
gặp rủi ro, các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản của mình để tham gia vào
nhiều tư bản cá biệt khác nhau nghĩa là tham gia vào đầu tư và kinh doanh ở
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều công ty khác nhau. Với cách làm này, một
mặt các nhà tư bản tìm cách chia sẻ sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp phải
rủi ro. Mặt khác, do được một số đông người tham gia quản lý, tập trung được
trí tuệ nên công ty cổ phần hạn chế được những rủi ro trong kinh doanh. Cho
đến nay, công ty cổ phần là hình thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh có

hiệu quả được các nhà tư bản ưu chuộng nhất nên nó đã hình thành và ngày
càng phát triển mạnh mẽ.
1.1.3. Tính ưu việt của công ty cổ phần

Với mô hình tổ chức mà bộ máy lãnh đạo được bầu chọn trực tiếp, dân


8

chủ, công khai, thống nhất theo luật định và phù hợp với ý nguyện vọng của
cổ đông. Bộ máy tổ chức đủ quyền tự quyết, chủ động trong tổ chức sản xuất
kinh doanh, công ty cổ phần có nhiều ưu thế, nhiều khả năng thích ứng với
cạnh tranh. Nó có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế hiện đại do :
- Mở rộng quy mô của doanh nghiệp một cách nhanh chóng nhờ sự tích
tụ thu hút vốn của đông đảo các nhà đầu tư, vốn tiết kiệm của đông đảo quần
chúng bằng sức hấp dẫn của công ty và phương thức huy động vốn năng động
phong phú.
- Chủ động được nguồn vốn đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh
và dễ dàng đổi mới công nghệ khi cần thiết mà không có cá nhân riêng lẻ nào
thực hiện được tốt được.
- Đảm bảo lợi ích của công ty, của người lao động và làm tròn nghĩa vụ
đối với nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở tổ chức sản xuất
kinh doanh có hiệu quả.
- Do vốn góp cổ phần có sự độc lập nhất định đối với các cổ đông bởi
quy định : người bỏ tiền ra mua cổ phiếu của công ty không có quyền rút
vốn mà chỉ có quyền sở hữu cổ phiếu. Do đó vốn luôn luôn tồn tại chỉ có
thay đổi cổ đông - chủ sở hữu. Nói cách khác, công ty cổ phần là điển
hình của việc tách rời quyền sở hữu vốn với quyền sử dụng vốn. Nó cho
phép doanh nghiệp vẫn tự chủ sử dụng vốn trong kinh doanh và trong cả
quá trình quản trị công ty.

- Cơ chế chia lợi nhuận cũng như rủi ro gánh chịu trong công ty cổ phần
theo mức vốn góp thể hiện tính chất công bằng trong một xã hội nhỏ là doanh
nghiệp. Cơ chế phân phối ấy tự giáo dục cho người lao động trong doanh
nghiệp phải luôn có thái độ nghiêm túc trong sản xuất kinh doanh, trong quản
lý và có tác động tích cực trong việc chống nạn tham nhũng, loại bỏ sự cậy
thế, cửa quyền lãnh đạo, tạo bầu không khí lao động dân chủ lành mạnh.


9
1.3. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN
1.3.1. Mục đích và ý nghĩa của phân tích tình hình tài chính.

Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ kinh tế, biểu
hiện dưới hình thái tiền tệ, phản ánh thước đo giá trị phát sinh
trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm
phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất trong mỗi
doanh nghiệp, mỗi tổ chức kinh tế, đồng thời góp phần đóng
góp cho ngân sách.
Phân tích tình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra
đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện tại với quá khứ.
Qua đó người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng,
hiệu quả kinh doanh, cũng như những rủi ro trong tương lai và
triển vọng của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính sử dụng một tập hợp các khái
niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông
tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá
tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro và
chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
Việc phân tích tài chính doanh nghiệp dựa trên các báo
cáo tài chính. Báo cáo tài chính rất hữu ích đối với việc quản

trị doanh nghiệp và đồng thời là nguồn thông tin tài chính chủ
yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. Mục đích của
phân tích báo cáo tài chính là cung cấp thông tin đầy đủ và
chính xác cho người sử dụng. Có rất nhiều đối tượng quan tâm
đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như : Các nhà đầu tư,
nhà cho vay, nhà cung cấp, khách hàng, các cơ quan quản lý
Nhà nước… Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính
của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn


10

chung họ đều quan tâm đến khả năng sinh lời của các dòng
tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi
nhuận tối đa, mức độ rủi ro trong kinh doanh của doanh
nghiệp… Vì vậy, phân tích tài chính của doanh nghiệp phải
đạt được ba mục tiêu chính sau đây :
Thứ nhất là phân tích tài chính

phải cung cấp đủ các

thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, nhà cho vay và những
người sử dụng thông tin tài chính khác để họ có những quyết
định đúng đắn.
Thứ hai là phân tích tài chính phải cung cấp những thông
tin quan trọng nhất cho chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư và
những người sử dụng thông tin khác trong việc đánh giá khả
năng và tính chắc chắn của dòng tiền mặt vào ra và tình hình
sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh, tình hình và khả năng
thanh toán của doanh nghiệp.

Thứ ba là phân tích tài chính phải cung cấp những thông
tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sự kiện và các tình
huống làm biến đổi các nguồn vốn, các khoản nợ của doanh
nghiệp.
Như vậy mục đích tối cao và có ý nghĩa quan trọng nhất
của phân tích tài chính là giúp cho những người ra quyết định
lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác
thực trạng tiềm năng của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó cũng dự
đoán triển vọng phát triển trong tương lai về tài chính cũng
như các hoạt động khác của doanh nghiệp.
1.3.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính trong công ty cổ phần.


11
1.3.2.1. Hệ thống thông tin phục vụ cho phân tích tình hình tài chính.

Với mục đích, ý nghĩa quan trọng như trên, doanh nghiệp
cần thiết phải tiến hành phân tích tình hình tài chính. Để thực
hiện được điều đó, doanh nghiệp cần tiến hành tổ chức thu
thập, xử lý thông tin tài chính. Các thông tin mà doanh nghiệp
sử dụng không chỉ là trên các hệ thống báo cáo tài chính mà
còn là những thông tin trực tiếp trên sổ sách kế toán cũng như
các thông tin phi tài chính. Tuy nhiên những thông tin mà
doanh nghiệp sử dụng vẫn là các thông tin tài chính được
phản ánh trên hệ thống các báo cáo tài chính.
Hệ thống báo cáo tài chính theo “Chế độ báo cáo tài chính doanh
nghiệp” ban hành theo quyết định 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh
vực, mọi thành phần kinh tế trong cả nước, bao gồm 4 biểu mẫu báo cáo:

 Bảng cân đối kế toán (BCĐKT), Mẫu số B01-DN.
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính chủ yếu phản ánh tổng quát
tình hình tài sản của doanh nghiệp theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài
sản tại một thời điểm nhất định. Nội dung của bảng cân đối kế toán thể hiện
qua hệ thống các chỉ tiêu được phân loại, sắp xếp thành từng loại, nục và từng
chỉ tiêu cụ thể. Bảng cân đối kế toán được chia làm hai phần: tài sản và nguồn
vốn. Về mặt kinh tế, phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có tại
doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo, đang tồn tại dưới các hình thái và
trong tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh; phần nguồn vốn
phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp, thể hiện quy mô
tài chính, nội dung tài chính và thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt
pháp lý, số liệu bên tài sản phản ánh toàn bộ số tài sản hiện có đang thuộc
quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp; còn số liệu bên nguồn vốn thể hiện


12

trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp về số tài sản đang quản lý, sử dụng đối
với Nhà nước, với cấp trên, với các nhà đầu tư, với các cổ đông, với ngân
hàng và các tổ chức tín dụng...
 Báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD), Mẫu số B02-DN.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính phản
ánh tóm lược các khoản doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp cho một thời kỳ nhất định, bao gồm kết quả hoạt động kinh doanh và
hoạt động khác.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT), Mẫu số B03-DN.
Là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc hình thành và sử dụng
lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ cung cấp cho người sử dụng thông tin có cơ sở để đánh giá khả năng
tạo ra các khoản tiền và việc sử dụng những khoản tiền đã tạo ra trong hoạt

động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
 Thuyết minh báo cáo tài chính (TMBCTC), Mẫu số B04-DN.
Thuyết minh báo cáo tài chính là một báo cáo kế toán tài chính tổng
quát nhằm mục đích giải trình và bổ sung, thuyết minh những thông tin về
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp
trong kỳ báo cáo mà chưa được trình bày đầy đủ chi tiết trong các báo cáo tài
chính khác.
Ngoài ra để thực hiện cho yêu cầu quản lý kinh tế - tài
chính, yêu cầu chỉ đạo điều hành, các công ty có thể quy định
thêm các báo cáo chi tiết khác, có tính chất hướng dẫn như:
 Báo cáo giá thành, sản phẩm dịch vụ.
 Báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh.


13

 Báo cáo chi tiết chi phí sản xuất.
 Báo cáo chi tiết chi phí bán hàng.
 Báo cáo chi tiết chi phí quản lý kinh doanh.
 Báo cáo chi tiết công nợ phải thu - phải trả.
1.3.2.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính.

Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết mối quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách khác,
tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức,
huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
Để tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có một lượng vốn nhất định bao gồm vốn kinh doanh, các quỹ
doanh nghiệp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn vay và các loại vốn khác.

Doanh nghiệp có nhiệm vụ tổ chức, huy động các loại vốn cần thiết cho
nhu cầu kinh doanh. Đồng thời tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng số
vốn hiện có một cách hợp lý, có hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các
chế độ, chính sách quản lý kinh tế - tài chính và kỷ luật thanh toán của Nhà
nước. Việc thường xuyên tiến hành phân tích tài chính sẽ giúp cho người sử
dụng thông tin nắm được thực trạng hoạt động tài chính, xác định rõ
nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính
và hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp hữu hiệu và
ra các quyết định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh
doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Tuy theo vị trí và mục đích sử dụng thông tin của người phân tích mà nội
dung phân tích tài chính có thể không giống nhau giữa các nhóm phân tích
khác nhau. Tuy nhiên, phân tích tài chính thường bao gồm các nội dung chủ
yếu sau:


14

Sơ đồ 1: Nội dung chủ yếu của phân tích tài chính.
Nội dung phân tích tài chính

Đánh giá
khái quát
tình hình
tài chính

Cấu trúc tài
chính và tình
hình bảo đảm vốn


Tình hình
công nợ và
khả năng
thanh toán

Hiệu quả
kinh
doanh.

Rủi ro
tài
chính

a. Đánh giá khái quát tình hình tài chính.
Đánh giá khái quát tình hình tài chính nhằm xác định thực trạng và sức
mạnh tài chính của doanh nghiệp, biết được mức độ độc lập về mặt tài chính
cũng như những khó khăn về tài chính mà doanh nghiệp đang phải đương
đầu, nhất là lĩnh vực thanh toán. Qua đó, các nhà quản lý có thể đề ra các
quyết định cần thiết về đầu tư, hợp tác, liên doanh, liên kết, mua bán, cho vay,
...
b. Phân tích cấu trúc tài chính và tình hình bảo đảm vốn cho hoạt
động kinh doanh.
Qua việc phân tích cấu trúc tài chính và tình hình bảo đảm nguồn vốn
cho hoạt động kinh doanh, các nhà phân tích nắm được khái quát tình hình
đầu tư, tình hình huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Đồng thời, qua
việc phân tích cấu trúc tài chính và tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, các nhà quản lý nắm được tình hình phân bổ tài sản,
các nguồn tài trợ tài sản. Mặt khác nội dung phân tích này còn góp phần củng
cố cho các nhận định đã rút ra khi đánh giá khái quát tình hình tài chính.
c. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán.

Tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh
rõ nét chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Nếu hoạt động tài


15

chính tốt, khả năng thanh toán sẽ cao, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, ít bị chiếm
dụng vốn cũng như ít đi chiếm dụng vốn. Ngược lại, nếu hoạt động tài chính
kém thì sẽ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, chiếm
dụng vốn lẫn nhau, các khoản công nợ phải thu, phải trả sẽ dây dưa, kéo dài.
d. Phân tích hiệu quả kinh doanh.
Bản thân hoạt động kinh doanh đã là một hoạt động kiếm lời, bởi vậy
mối quan tâm thường trực của các nhà đầu tư là không ngừng nâng cao hiệu
quả kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận. Qua phân tích hiệu quả kinh doanh
trên các góc độ khác nhau (sức sản xuất, sức sinh lợi, suất hao phí), các nhà
quản lý đánh giá được hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lợi của doanh
nghiệp cũng như các nhân tố, các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh và khả năng sinh lợi. Từ đó, đề xuất giải pháp thích hợp để nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
e. Phân tích rủi ro tài chính.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên phải đương đầu
với các rủi ro trên mọi phương diện. Qua phân tích tài chính, các nhà quản lý
dự báo được những rủi ro tiềm ẩn về tài chính trên khía cạnh thanh toán; tham
chí cả rủi ro về phá sản mà doanh nghiệp có thể phải đương đầu. Từ đó, các
nhà quản lý sẽ đề ra các kế sách, các quyết định kịp thời, hợp lý để ngăn ngừa
và giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp.
1.3.2.3. Tổ chức phân tích tình hình tài chính

Việc tổ chức phân tích tình hình tài chính được thực hiện
thông qua 3 bước chính :

Bước 1: Lập kế hoạch phân tích
Việc lập kế hoạch phân tích bao gồm xác định mục tiêu
phân tích và chương trình phân tích.
Xác định mục tiêu phân tích là việc doanh nghiệp xác định


16

những nguyên nhân ảnh hưởng và qua đó đánh giá chính xác
thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp để lựa
chọn phương án kinh doanh tối ưu.
Xác định chương trình phân tích là việc xác định các chỉ tiêu
phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu có
rất nhiều, do đó việc xác định chỉ tiêu phân tích là xác định
những chỉ tiêu quan trọng, có ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp như các chỉ tiêu phản ánh sức sinh
lợi của vốn, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn…
Bước 2: Thực hiện phân tích
Xuất phát từ vai trò, vị trí của báo cáo tài chính, Nhà nước
quy định chủ doanh nghiệp và kế toán trưởng là người chịu
trách nhiệm chính về tính đúng đắn, trung thực của báo cáo
tài chính. Tuy nhiên việc thực hiện phân tích thường do kế
toán tổng hợp tiến hành dưới sự chỉ dẫn của kế toán trưởng.
Để tiến hành phân tích trước hết kế toán phải thu thập thông
tin. Các thông tin sử dụng thường là các thông tin tài chính
trên báo cáo tài chính. Ngoài ra kế toán còn sử dụng các
thông tin trực tiếp trên sổ sách kế toán cũng như các thông tin
phi tài chính khác.
Tiếp đến doanh nghiệp sử dụng các phương pháp phân
tích tiến hành phân tích thông tin tài chính thu thập được.

Cuối cùng đánh giá dự báo tình hình hoạt động kinh doanh
trong tương lai dựa trện kết quả phân tích.
Bước 3: Hoàn thành phân tích
Các báo cáo phân tích tình hình tài chính của doanh


17

nghiệp là kết quả của quá trình phân tích. Báo cáo là sự tổng
kết quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong
thời gian qua và xác định những nguyên nhân ảnh hưởng. Qua
đó thấy được tiềm năng cũng như hạn chế của doanh nghiệp.
1.3.2.4. Phương pháp phân tích tình hình tài chính

Phương pháp phân tích là cách thức tiếp cận đối tượng
phân tích đã được thể hiện qua hệ thống chỉ tiêu phân tích để
biết được ý nghĩa và mối quan hệ hữu cơ của các thông tin từ
các chỉ tiêu phân tích. Khi sử dụng phương pháp phải vận
dụng đúng đối tượng, phải biết ưu nhược điểm của từng
phương pháp để kết hợp một cách hợp lý nhằm đạt hiệu quả
cao nhất. Có nhiều phương pháp để sử dụng phân tích tình
hình tài chính nhưng ta có thể nêu một số phương pháp chủ
yếu sau:


Phương pháp so sánh

Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến và
quan trọng trong phân tích tình hình tài chính nói riêng cũng
như trong phân tích kinh tế nói chung. Khi so sánh thường đối

chiếu các chỉ tiêu kinh tế với nhau để biết được mức độ biến
động của các đối tượng đang nghiên cứu. Để kết quả so sánh
có ý nghĩa thì các chỉ tiêu khi so sánh phải thống nhất về nội
dung kinh tế, về phương pháp tính các chỉ tiêu, đơn vị tính…
Nội dung so sánh bao gồm:
- So sánh số thực hiện kỳ phân tích với số thực tế của kỳ
kinh doanh trước nhằm xác định rõ xu hướng thay đổi về tài
chính của doanh nghiệp.


18

- Đánh giá tốc độ tăng giảm của mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình
của ngành, của các doanh nghiệp khác nhằm đánh giá tình
hình tài chính của doanh nghiệp là tốt hay xấu, có khả quan
hay không.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ
tiêu so với tổng thể. So sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để
thấy được số biến đổi cả về số tuyệt đối và số tương đối của một
chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
Như vậy có thể thấy kết quả so sánh thường được thể hiện
bằng con số tuyệt đối, số tương đối hay số trung bình. Phương
pháp so sánh sử dụng thường xuyên trong phân tích tình hình
tài chính để thấy được xu hướng phát triển của doanh nghiệp
nhằm đáp ứng nhu cầu đưa ra quyết định. Phương pháp so
sánh có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn các dự án đầu
tư, các kế hoạch sản xuất. Phương pháp so sánh có ưu điểm là
đơn giản, ít tính toán khi phân tích do vậy được sử dụng rộng

rãi.
 Phương pháp liên hệ
Các chỉ tiêu tài chính thường có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Để lượng hóa mối liên hệ đó ta thường nghiên cứu trong
mối quan hệ tác động qua lại nhau của các chỉ tiêu kinh tế.
Phương pháp này thường bao gồm : liên hệ cân đối, liên hệ
thuận và ngược chiều, liên hệ tương quan.
Liên hệ cân đối thường được thể hiện bằng phương trình


19

kinh tế hoặc quan hệ tương xứng giữa các chỉ tiêu kinh tế với
nhau. VD Tổng Tài sản = Tổng nguồn vốn. Phương pháp này
thường được sử dụng trong phân tích tình hình tài chính để
kiểm tra kết quả thu được. Từ mối liên hệ đó ta xác định ảnh
hưởng của các nhân tố, biết được tính quy luật liên hệ giữa
các nhân tố. Phương pháp này được sử dụng trong phân tích
trước, phân tích tác nghiệp để lập kế hoạch tài chính, luận cứ
cho việc ra quyết định.
Phương pháp liên hệ thuận và ngược chiều được sử dụng
khi mối quan hệ giữa các chỉ tiêu nguyên nhân ở dạng thương
số đối với chỉ tiêu kết quả. Từ đó ta xác định ảnh hưởng của
các nhân tố thể hiện bằng số tương đối.
Phương pháp liên hệ tương quan được sử dụng trong phân
tích tình hình tài chính do có nhiều chỉ tiêu kinh tế thể hiện
mối tương quan hàm số. VD như chi phí tỷ lệ với sản lượng đầu
ra, doanh thu tỷ lệ với chi phí đầu vào. Phân tích tương quan
trong kinh tế nhằm xác định mối liên hệ của các đại lượng
ngẫu nhiên, qua đó đánh giá mức độ chặt chẽ của các mối liên

hệ đó, đồng thời xác định các nhân tố ảnh hưởng tới chỉ tiêu
phân tích.
 Phương pháp thay thế liên hoàn
Phương pháp thay thế liên hoàn thường được sử dụng chủ
yếu trong trường hợp các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân
tích được biểu diễn dưới dạng tích số. Do vậy khi xét ảnh
hưởng của nhân tố này cần phải lần lượt thay thế các chỉ tiêu
ở kỳ gốc bằng các chỉ tiêu ở kỳ phân tích theo một trình tự


20

nhất định sắp xếp nhân tố. Khi nhân tố chưa thay đổi thì trị số
vẫn giữ nguyên ở kỳ gốc, khi nhân tố đã thay đổi thì trị số
chuyển sang kỳ phân tích. Hạn chế của phương pháp này là
khi nghiên cứu sự thay đổi của một nhân tố không liên hệ với
các nhân tố khác mà trong quá trình kinh doanh thì sự thay
đổi của nhân tố này sẽ kéo theo sự thay đổi của nhân tố khác.
 Phương pháp số chênh lệch
Phương pháp này được sử dụng khi các nhân tố có quan
hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu diễn dưới dạng tích số, các
nhân tố được sắp xếp theo thứ tự nhân tố số lượng đến nhân
tố chất lượng. Khi thực hiện phương pháp này, muốn phân
tích sự ảnh hưởng của một nhân tố, ta lấy phần chênh lệch của
nhân tố đó nhân với trị số của nhân tố khác, nhân tố chưa thay
đổi trị số giữ nguyên ở kỳ gốc, nhân tố đã thay đổi trị số chuyển
sang kỳ phân tích, cứ như thế cho tới hết.


Phương pháp đồ thị

Phương pháp đồ thị dùng để minh họa các kết quả tài

chính trong quá trình phân tích bảng biểu, sơ đồ. Sử dụng
phương pháp đồ thị trong phân tích có ưu điểm là nó thể hiện
rõ ràng, trực giác sự diễn biến của các đối tượng nghiên cứu,
nhanh chóng phân tích định hướng các chỉ tiêu kinh tế từ đó
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh.
 Phương pháp chi tiết hóa chỉ tiêu phân tích.
Các chỉ tiêu kinh tế - tài chính trong quá trình kinh doanh
thường đa dạng, phong phú. Do vậy để có thể nắm bắt được


21

bản chất của các chỉ tiêu phân tích chúng ta thường phải phân
chia các chỉ tiêu phân tích theo thời gian, không gian và yếu
tố cấu thành. Phân tích chỉ tiêu kinh tế theo thời gian cho biết
nhịp độ phát triển, tính thời vụ, khả năng mất cân đối trong
quá trình sản xuất kinh doanh của các chỉ tiêu. Tùy theo đặc
điểm của hoạt động kinh doanh, mục đích của việc phân tích,
nội dung kinh tế của chỉ tiêu có thể chi tiết hóa các đối tượng
theo quý, tháng, năm…
Chi tiết các chỉ tiêu kinh tế theo không gian có ý nghĩa
đánh giá kết quả thực hiện của các đơn vị, bộ phận theo địa
điểm phát sinh công việc nhằm tăng cường công tác quản lý
và hạch toán trong nội bộ. Chi tiết theo thời gian và không
gian thường bổ sung cho nhau trong quá trình nghiên cứu.
Một chỉ tiêu vừa được chi tiết theo thời gian vừa được chi tiết
theo không gian sẽ đem lại kết quả phân tích càng đầy đủ và

sâu sắc hơn.Chi tiết theo yếu tố cấu thành của chỉ tiêu nhằm
biết được vai trò của từng bộ phận trong việc hợp thành chỉ
tiêu tổng hợp. Phương pháp này xác định mức biến động của
chỉ tiêu do sự ảnh hưởng của các nhân tố.
Chi tiết hóa các chỉ tiêu phân tích càng đầy đủ, đa dạng
thì kết quả phân tích càng chính xác, sâu sắc. Trong quá
trình phân tích phải căn cứ vào mục đích yêu cầu, đặc điểm
của chỉ tiêu để chọn cách thức chi tiết cho phù hợp. Hạn chế
cảu phương pháp này là nội dung và phương pháp tiến hành
thường mô tả về mặt định tính, mức độ chi tiết tùy theo chủ
thể phân chia.


22

 Phương pháp phân tích tác nghiệp.
Trong quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, phương pháp phân tích tác nghiệp thường được coi là
một trong những phương pháp giải quyết nhanh những tình
huống tài chính bất thường nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin
kịp thời cho quản lý sản xuất. Nội dung của phương pháp này
thường thể hiện các cuộc giao ban định kỳ, các cuộc họp bất
thường để thảo luận bàn bạc về một vấn đề tài chính nào đó
nhằm đưa ra quyết định. Hạn chế của phương pháp này là tính
khoa học để đưa ra quyết định là không cao do sự tính toán
cân nhắc so sánh đôi khi mang tính chủ quan của một số cá
nhân. Do vậy, hiệu quả sử dụng thông tin của phương pháp
này thấp.
1.4. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA DOANH
NGHIỆP.

1.4.1. Quá trình phát triển của phân tích tài chính với việc xây dựng hệ
thống chỉ tiêu.

Khi nền kinh tế chưa phát triển, thông tin quản lý chưa
nhiều, chưa phức tạp thì công việc phân tích chỉ tiến hành đơn
giản. Phương pháp phân tích chỉ sử dụng theo cách thức đơn
giản như cộng trừ, so sánh. Khi đó các chỉ tiêu sử dụng trong
phân tích chủ yếu là chỉ tiêu tuyệt đối nhằm đánh giá kết quả
sản xuất đã qua phục vụ cho việc ra quyết định của chính chủ
thể quản lý.
Nền kinh tế ngày càng mở rộng và phát triển, các mối
quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng, phong phú đòi hỏi các nhà
quản lý cần có những thông tin đầy đủ chính xác và toàn diện
hơn về quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế phân tích tài


23

chính đã phát triển cả về mặt lý luận và phương pháp phân
tích để đạt được những yêu cầu thực tiễn đề ra.
Cùng với đà phát triển của nền kinh tế, vai trò của tài
chính ngày càng được nâng cao. Các chế độ và chính sách tài
chính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Do vậy sự phát triển của nền kinh tế thị trường dẫn
đến sự phát triển của phân tích tài chính là một tất yếu khách
quan.
Khi phân tích tài chính phát triển mạnh mẽ thì hệ thống
chỉ tiêu phân tích ngày càng phong phú và đa dạng. Hệ thống
các chỉ tiêu phân tích tài chính phát triển là do những nguyên
nhân chính sau :

- Do sự phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng
khoán đòi hỏi hệ thống chỉ tiêu phân tích phải hoàn thiện toàn
diện hơn. Sự phát triển của các dự án đầu tư, sự sinh lời của
các dự án đã hướng các ngân hàng và các công ty tài chính
xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích toàn diện nhất để đưa ra
những quyết định tín dụng.
- Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi
nhuận đã dẫn tới các doanh nghiệp phải hoàn chỉnh hệ thống
chỉ tiêu phân tích tài chính để tránh rủi ro trong kinh doanh,
bảo đảm an toàn vốn.
- Sự phát triển của nhiều hình thức đầu tư đã thúc đẩy nhà
đầu tư tìm cách lựa chọn cách kết hợp các hình thức tài trợ để
đạt được lợi ích cao nhất với chi phí sử dụng vốn thấp nhất.
Các ràng buộc của chính tín dụng, sự biến động của giá cả, tỷ
giá hối đoái đều ảnh hưởng mạnh mẽ đến đầu tư tài chính của


24

doanh nghiệp. Vì vậy cần phải hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu
phân tích tài chính để đáp ứng yêu cầu mới đó.
- Sự phát triển và hội nhập nền kinh tế của mỗi quốc gia
dẫn tới sự thống nhất về các phương pháp phân tích, chỉ tiêu
phân tích, tài liệu phân tích để nhiều chủ thể có thể khác nhau
có thể so sánh các thông tin với nhau trong điều kiện công
nghệ hiện đại. Đó chính là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển
của phân tích tài chính và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân
tích.
1.4.2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính
1.4.2.1. Chỉ tiêu phân tích đánh giá khái quát tình hình tài chính.


Phân tích khái quát tình hình tài chính là việc xem xét, nhận định về
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Công việc này sẽ cung cấp cho người sử
dụng thông tin biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp là khả quan hay
không khả quan.
Trước hết cần tiến hành so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn
giữa cuối kỳ với đầu năm. Qua đó ta sẽ thấy được quy mô vốn mà đơn vị sử
dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
số tổng cộng của “Tài sản” và “Nguồn vốn” tăng, giảm do nhiều nguyên nhân
nên việc so sánh như trên chưa thể biểu hiện đầy đủ tình hình tài chính của
đơn vị được. Vì thế để có nhận định chính xác hơn về tình hình tài chính của
doanh nghiệp cần đi sâu vào phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong
BCĐKT (Mẫu số B01-DN).
Bên cạnh việc huy động và sử dụng vốn, khả năng tự bảo đảm về tài
chính và mức độ độc lập về mặt tài chính cũng cho thấy một cách khái quát
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy cần tính ra và so sánh chỉ tiêu :


25

Nguồn vốn chủ sở hữu
Hệ số tài trợ

=

Tổng số nguồn vốn

Hệ số tài trợ là chỉ tiêu phản ánh mức độ độc lập về mặt tài chính của
doanh nghiệp. Nó cho biết vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong
tổng số nguồn vốn. Chỉ tiêu "Hệ số tài trợ" chiếm tỷ trọng càng cao trong

nguồn vốn và càng cao so với kỳ trước chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài
chính của doanh nghiệp càng cao bởi vì hầu hết tài sản mà doanh nghiệp hiện
có đều được đầu tư bằng số vốn của mình.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp lại được thể hiện rõ nét qua khả
năng thanh toán chung. Nếu doanh nghiệp có khả năng thanh toán cao thì tình
hình tài chính sẽ khả quan và ngược lại. Do vậy, khi phân tích khả năng thanh
toán chung của doanh nghiệp ta thường xem xét các chỉ tiêu sau :
Tổng số tài sản
Hệ số thanh toán hiện hành

=

Tổng số nợ phải trả

Hệ số thanh toán hiện hành là chỉ tiêu được dùng để đánh giá khả năng
thanh toán tổng quát của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Chỉ tiêu này có vai
trò rất quan trọng trong việc xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có chỉ số này luôn lớn hơn hoặc bằng 1 thì doanh nghiệp
bảo đảm được khả năng thanh toán và ngược laị thì khả năng thanh toán của
doanh nghiệp càng thấp và doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán.
Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ
ngắn hạn (phải thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh)
của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này là xấp xỉ bằng 1 thì doanh
nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài
chính là bình thường và khả quan. Ngược lại nếu chỉ tiêu này càng nhỏ hơn 1
thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng thấp.
Ngoài ra còn có chỉ tiêu "Hệ số thanh toán nhanh" để đánh giá khả năng thanh toán



×