Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biên pháp nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.38 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lý do chọn đề tài :
Ở chương trình tiểu học, phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan
trọng trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt. Đây là phân môn sử dụng và tổng
hợp các kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt từ các phân môn Tập đọc, Tập viết, Chính
tả, Luyện từ và câu. Tập làm văn giúp cho học sinh vận dụng các hiểu biết và kĩ
năng về Tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp. Để làm
được một bài văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện các kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết phải vận dụng các hiểu biết kiến thức về Tiếng Việt. Trong quá
trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hoàn thiện và nâng cao
dần. Do đó, Tiếng Việt không chỉ xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân
môn mà trở thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Phân môn Tập làm văn
thực hiện mục tiêu quan trọng nhất của dạy học là dạy học sinh sử dụng Tiếng
Việt để giao tiếp, tư duy, học tập. Việc học tốt môn Tập làm văn giúp cho học
sinh phát triển tư duy lôgic, có sự hiểu biết, có tình cảm yêu mến, gắn bó với
thiên nhiên, gắn bó với con người và vạn vật xung quanh. Từ đó, tâm hồn và
nhân cách của các em sẽ được hình thành và phát triển. Việc dạy cho học sinh
cách viết và trình bày một đoạn văn ngắn rất quan trọng, nó góp phần giúp cho
học sinh học tốt hơn phân môn Tập làm văn ở các lớp trên.
Trên thực tế hiện nay tôi thấy việc dạy học sinh viết đoạn văn ngắn trong
phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 2 còn nhiều khó khăn vì các em vừa
mới lớp Một lên, mới tập làm quen với phân môn này, các em còn nhiều bỡ ngỡ,
chưa có phương pháp học hợp lý. Mặt khác vốn sống của các em còn nghèo nàn,
vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn hạn chế, các em còn ít xúc cảm nên ngay từ
những tiết học đầu tiên về viết đoạn văn ngắn, mặc dù đã được giáo viên hướng
dẫn cụ thể cách viết, các em chưa tiếp nhận được mà các em còn nghĩ sao viết
vậy, không theo trật tự lôgic nào, thậm chí không sử dụng dấu câu trong quá
trình viết văn, có em chỉ trả lời câu hỏi gợi ý cộc lốc, gạch đầu dòng, xuống
dòng tùy tiện, không rõ ý, rõ câu, không thành đoạn. Tôi rất băn khoăn, trăn trở
về vấn đề này và đã quyết định chọn đề tài : “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 ”


1.2. Mục đích nghiên cứu :
Bản thân nghiên cứu đề tài này với một số mục đích sau :
+ Tìm hiểu thực trạng vấn đề dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 2.
+ Giúp bản thân nắm vững hơn về dạy Tập làm văn trong trường Tiểu học.
+ Giúp học sinh lớp 2 nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu :Một số biện pháp nâng cao chất lượng viết đoạn
văn ngắn cho học sinh lớp 2.
1


1.4. Phương pháp nghiên cứu :
+ Phương pháp nghiên cứu.
+ Phương pháp khảo sát thực tế.
+ Phương pháp thu thập thông tin.
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo sử dụng
toàn bộ các kỹ năng được hình thành và phát triển từ nhiều phân môn khác của
môn Tiếng Việt. Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động kiến thức từ nhiều
mặt (hiểu biết cuộc sống, tri thức văn hóa …) có liên quan đến đề bài.
Bài tập làm văn - viết đoạn văn ngắn, là sản phẩm tổng hợp của vốn sống,
vốn văn học, năng lực tư duy, giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn
ngữ, sự sáng tạo của cá nhân học sinh. Qua bài Tập làm văn ta sẽ thấy được
trình độ sử dụng Tiếng Việt, tri thức và hiểu biết về cuộc sống của học sinh.

Đối với lớp 2, dạy Tập làm văn trước hết là rèn luyện cho học sinh các kỹ
năng phục vụ học tập và giao tiếp hằng ngày. Bước đầu dạy cách làm quen với
đoạn văn thông qua nhiệm vụ kể một số việc đơn giản hoặc tả sơ lược về người,
vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc bằng câu hỏi. Vì vậy cần dạy cho học
sinh biết cách sử dụng lời nói, tạo ra động cơ, nhu cầu nói, kích thích học sinh
tham gia vào quá trình giao tiếp (nói, viết).
Để tạo lập một văn bản (đoạn văn) phải tạo nên tính thống nhất thể hiện cả
hai mặt: Sự liên kết về nội dung và sự liên kết về hình thức. Sự liên kết này có
được là nhờ tính định hướng mục đích của văn bản. Vì vậy để rèn luyện kỹ năng
viết đoạn văn ngắn cho học sinh chúng ta phải giúp học sinh xác định được mục
đích của đoạn viết thông qua việc tìm hiểu đề. Phải xác định được đề bài yêu cầu
ta làm gì? Nói, viết về cái gì? Xác định được chủ đề của bài viết và duy trì chủ
đề này trong suốt bài viết để bài văn, không lan man bằng cách tìm ý, sắp xếp ý
theo một trình tự nhất định, đồng thời phải chọn từ ngữ để dùng từ đặt câu cho
chính xác, rõ ý, có hình ảnh, có cảm xúc.
Mặt khác sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy trong dạy
bài Tập làm văn, nhiều người thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi
trọng đúng mức đến lôgic của các ý trong bài. Khi sửa bài cho học sinh, nhiều
giáo viên thường chú ý sửa lời (khi nói) mà không sửa ý (khi viết).
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
Qua nhiều năm công tác, cùng với việc thăm lớp, dự giờ và các buổi sinh
hoạt chuyên môn trong tổ, tôi thấy thực tế của vấn đề này là như sau :
* Về phía giáo viên :
- Một số giáo viên trong quá trình dạy bản thân chưa thực sự coi trọng việc
rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh, cách dạy của giáo viên còn đơn điệu, lệ
thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên. Sự sáng tạo cũng như linh hoạt của
3


giáo viên chưa có hoặc có song chưa được nhiều nên chưa cuốn hút được học

sinh.
- Việc sửa lỗi khi viết đoạn văn cho học sinh chưa được chú trọng hoặc chỉ sửa
một lần vì việc làm này mất rất nhiều thời gian.
- Bản thân tôi đã tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi ở đồng nghiệp, hướng dẫn học
sinh thực hiện nội dung viết đoạn văn theo những phương pháp, biện pháp mới
nhưng hiệu quả vẫn chưa cao.
* Về phía học sinh :
Trong những năm gần đây, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 2 là
chủ yếu. Năm học 2018-2019, tôi tiếp tục được nhà trường phân công giảng dạy
lớp 2A. Qua thời gian giảng dạy ở lớp 2, bản tôi thấy các em còn vướng phải
nhiều hạn chế, cụ thể như sau :
- Học sinh chưa có động cơ, hứng thú học tập với phân môn Tập làm văn.
- Học sinh mới chỉ biết dựa vào các câu hỏi gợi ý đã cho trong sách giáo khoa
nên bài làm còn đơn điệu và giống nhau.
- Vốn từ của các em còn hạn hẹp, vốn sống của các em chưa nhiều, vốn hiểu biết
về Tiếng Việt còn rất hạn chế.
Ví dụ : Khi học bài Tập làm văn tuần 10 (trang 35 – TV2 tập 1) : Hãy viết một
đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) kể về ông, bà hoặc người thân của em.
Có học sinh không biết lựa chọn chi tiết sao cho phù hợp, do vậy khi đọc lên sẽ
mất đi cái hình ảnh đẹp và đáng quý, đáng yêu của người bà. Một bạn đã viết
như sau :
Bà em đã 73 tuổi rồi. Da của bà trắng hồng. Tóc của bà mượt mà. Bà rất hay
quát tháo và bắt nạt em, có hôm bà còn đánh em gãy cả cái gậy…
- Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lược, các em nghĩ
sao, viết vậy không theo trật tự lôgic nào, thậm chí không sử dụng dấu câu trong
quá trình viết văn, có em chỉ trả lời câu hỏi gợi ý cộc lốc, gạch đầu dòng, xuống
dòng tùy tiện...
Ví dụ: Trong tiết Tập làm văn (tuần 8 – trang 69 – TV2 tập 1) viết một đoạn
văn về cô (thầy) giáo lớp 1. Một học sinh đã không chú ý đến câu, cách dùng ý,
dùng từ vào văn cảnh dẫn đến câu rời rạc thiếu sự liên kết. Cụ thể như sau : Cô

giáo lớp 1 của em làm nghề cô giáo. Cô rất thương em. Cô có mái tóc dài. Cô
còn hướng dẫn em làm toán…
Đôi khi học sinh viết câu dùng từ diễn đạt nội dung có hình ảnh song chưa
chính xác. Có em viết : “Mỗi khi cô cười cô đều nhe chiếc răng to ra trông rất
xinh.”
4


- Học sinh hầu như chưa nắm được cấu trúc của một đoạn văn ngắn, chưa có
năng lực tư duy, sáng tạo. Do tâm lý lứa tuổi và chưa được rèn luyện thường
xuyên nên các em chưa có cách quan sát cụ thể chi tiết. Các em chỉ quan sát
thoáng qua, hời hợt, thậm chí có em còn không để ý đến đối tượng cần quan sát.
Thêm vào đó khả năng tưởng tượng còn hạn chế. Do vậy khi viết đoạn văn còn
có những câu văn lạc lõng không sát thực với yêu cầu của đề bài. Các em không
biết viết thế nào, viết từ đâu để thành một đoạn văn. Một số em chưa có kỹ năng
sắp xếp câu thành đoạn. Từ chỗ nói chưa thành câu, nói câu cộc lốc nên khi viết
các em bị chi phối nhiều. Hơn nữa các em còn không biết viết câu nào trước, câu
nào sau, viết chưa thành câu đã chấm hết câu, do vậy nhiều bài văn của các em
viết không thành đoạn theo nội dung yêu cầu.
- Học sinh hay trả lời câu hỏi máy móc, câu văn thiếu sự hấp dẫn, sinh động.
Ví dụ : Tập làm văn (tuần 8 –trang 69 – TV2 tập 1 ) Viết đoạn văn nói về cô
(hoặc thầy)giáo lớp 1, trong sách giáo khoa có mấy câu hỏi gợi ý trong đó có
câu hỏi :
+ Cô giáo (hoặc thầy giáo) lớp 1 của em tên là gì?
+ Tình cảm của cô (hoặc thầy) đối với học sinh như thế nào?
+ Em nhớ nhất điều gì ở cô (hoặc thầy)?
+ Tình cảm của em đối với cô giáo (hoặc thầy giáo) như thế nào?
Có học sinh đã viết : “ Cô giáo lớp 1 của em tên là Vân. Tình cảm của cô đối
với học sinh rất tốt. Em nhớ khuôn mặt hơi đen của cô. Tình cảm của em đối với
cô là rất tốt…”.

- Khi viết đoạn văn các em thường dùng từ bị lặp nhiều lần.
Ví dụ: Khi viết về một người bạn thân như sau : “ Bạn thân của em tên là Lan.
Bạn Lan học cùng lớp với em. Bạn Lan có mái tóc dài. Bạn Lan có nước da
trắng. Bạn Lan học rất giỏi . Bạn Lan hay xung phong lên bảng ...”.
- Qua thực tế giảng dạy, khảo sát 2 tiết đầu tiên (kể về người thân, kể về gia
đình) khi học sinh thực hành làm bài tập viết đoạn văn ngắn tôi thấy kết quả như
sau:
Bảng 1: Kết quả khảo sát viết đoạn văn của học sinh lớp 2 đầu năm học 20182019

5


Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy ngay rằng tỉ lệ bài viết của học sinh chưa
Viết câu văn Viết câu văn có ý
Chưa biết viết
Không sử
trọn ý, đảm
theo yêu cầu đề
văn, gạch đầu
dụng dấu câu
Tổng bảo yêu cầu, bài, diễn đạt câu
dòng, xuống
khi viết văn.
số
đoạn viết
chưa gãy gọn, một dòng tùy tiện,
học
giàu hình
số từ dùng chưa
không rõ ý, rõ

sinh
ảnh, có cảm
chính xác, ít xúc
câu.
xúc.
cảm.
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
29 em
0
0
15
51,8%
10
34,4%
4
13,8%
đạt yêu cầu còn rất cao, đòi hỏi tôi phải tìm biện pháp giúp các em viết đoạn văn
ngắn được tốt hơn.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Từ thực tế công tác và một số kinh nghiệm của bản thân, tôi xin đưa ra một
số biện pháp nhằm khắc phục các tình trạng trên như sau :
Biện pháp 1 : Xây dựng động cơ, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Trong học tập không những cần có động cơ đúng đắn mà còn cần phải có

hứng thú bền vững thì học sinh mới có thể tiếp thu tri thức hiệu quả nhất. Đây là
một hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang chủ
động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao
hiệu quả học tập. Để có thể tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong
tôi đã xây dựng động cơ, tạo hứng thú học tập cho các em như sau :
- Tạo ra môi trường thân hiện giữa thầy và trò, duy trì không khí lớp học thoải
mái, giải phóng sự lo sợ, áp lực của học sinh….
- Xác định được mục tiêu học tập, giáo viên cần phải chuẩn bị giáo án thật tốt,
các phương tiện dạy học phải hấp dẫn như lời nói nhẹ nhàng, lối cuốn, hình ảnh
trực quan sinh động.
Ví dụ : Khi kể về một con vật mà em yêu thích, tôi đã giới thiệu cho các em một
số con vật qua hệ thống tranh ảnh (cũng có thể là các hình ảnh trên máy chiếu,
video...). Từ đó giúp các em có thêm hứng thú học tập đồng thời nhanh chóng
hơn trong việc lựa chọn con vật phù hợp để kể.
- Tổ chức hoạt động học theo nhóm : Học theo nhóm là hình thức học tập có sự
hợp tác của hai hay nhiều thành viên nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập
chung, qua đó giúp những học sinh yếu mạnh dạn, hòa đồng hơn đồng thời xóa
bỏ tâm lí ngại học ở các em.

6


- Tổ chức dạy học ngoài trời : Dạy học ngoài trời tạo điều kiện để HS quan sát
thiên nhiên nhằm gây hứng thú, sự tích cực học tập cho các em. Các em có điều
kiện gần gũi, hiểu biết về thiên nhiên, từ đó có ý thức bảo vệ thiên nhiên và môi
trường sống xung quanh. (tuy nhiên hình thức dạy học này phụ thuộc vào từng
loại bài.)
Ví dụ : Khi viết về một loài cây, tôi đã cho các em ra sân trường quan sát có
mục đích theo yêu cầu của bài tập phải đạt được:
+ Quan sát bao quát ( hình dáng, màu sắc) của cây.

+ Qua sát chi tiết (từ ngữ miêu tả các chi tiết, các bộ phận) của cây.
+ Viết và sửa lỗi từ, câu,... miêu tả cho học sinh.
Sau khi các em nắm được mục đích, yêu cầu khi quan sát, các em đã nhanh
chóng lựa chọn đối tượng khác nhau để làm bài (cây bàng, cây cau, cây phượng,
cây xà cừ ...), thấy được vai trò của loại cây đó đối với mọi người, với cảnh quan
nhà trường. Từ đó các em nâng cao ý thức chăm sóc, bảo vệ... Và điều quan
trọng nhất là các em rất hào hứng học tập, hoàn thành đoạn văn một cách dễ
dàng hơn.
Bên cạnh đó, giáo viên cần phải tăng cường tích cực hoá trong hoạt động học
tập. Nếu các em tiến bộ, giáo viên cần động viên, khích lệ một cách kịp thời
sẽ góp phần quan trọng trong việc tạo hứng thú để cho học sinh học tập, rèn
luyện và phát triển.
Ví dụ: Tả cây bàng
+ Tả bao quát: Cây cao khoảng 10m. Tán lá xòe rộng như một chiếc ô khổng
lồ,..
+ Tả chi tiết: Từng chiếc rễ cây nổi lên mặt đất như những hình thù quái lạ.
Thân cây sần sùi, màu nâu sẫm,...
+ Cho học sinh nêu từ các em đã chọn để tả, từ đó giáo viên giúp học sinh phân
tích, chọn lọc những từ ngữ, câu văn hay để sử dụng vào viết đoạn văn.
Qua cách hướng dẫn học sinh quan sát như trên, đã giúp các em viết được
đoạn văn đúng yêu cầu và viết có sáng tạo (về các sự vật, hiện tượng) theo yêu
cầu.
Biện pháp 2 : Bổ sung hệ thống câu hỏi gợi ý.
Bước 1: Nắm vững nội dung, yêu cầu của bài tập.
- GV viết yêu cầu bài tập lên bảng (trên phiếu)
- HS xác định yêu cầu của bài tập, GV dùng thước gạch chân cụm từ trọng tâm
của bài tập mà HS cần nắm vững.

7



Ví dụ: Viết đoạn văn ngắn khoảng từ 4 đến 5 câu nói về một con vật mà em
thích..(trang 81 – TV2 tập 2)
Bước 2: Hướng dẫn các đối tượng HS viết đoạn văn bằng câu hỏi gợi ý.
*Đối với HS hoàn thành:
+ Dùng hệ thống câu hỏi gợi mở ( theo yêu cầu).
+ HS nói theo từ ngữ đã cho, đặt câu theo hướng dẫn.
+ HS viết câu liên kết logic giữa các ý trong đoạn.
+ HS viết đạt được số câu theo yêu cầu.
*Đối với HS hoàn thành tốt (HS năng khiếu):
- HS đọc kĩ yêu cầu, xác định nội dung, yêu cầu của bài tập.
- GV dùng câu hỏi gợi mở để HS làm bài.
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ ràng và tương
đối đầy đủ. Nhưng nếu cứ dựa vào những câu hỏi gợi ý như vậy thì sẽ có nhiều
bài làm giống nhau và như vậy sẽ gây nhàm chán trong tiết Tập làm văn. Do
vậy, để khắc phục được tình trạng này, giáo viên nên hướng dẫn mỗi học sinh
bằng hệ thống câu hỏi gợi ý khác nhau (việc này rất mất thời gian nhưng nó lại
rất hiệu quả với các em). Ở mỗi dạng bài tập, giáo viên hệ thống cho các em các
ý cần có để các em hình dung ra cấu trúc của đoạn văn và không bị thiếu ý.
* Đối với những bài có câu hỏi gợi ý sơ sài, giáo viên có thể bổ sung thêm câu
hỏi.
* Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, giáo viên soạn câu hỏi cho các em,
giúp các em có một điểm tựa để làm bài.
Ví dụ : Kể về người thì đoạn văn phải đảm bảo giới thiệu được người đó là ai,
hình dáng (nước da, đôi mắt, hàm răng, quần áo...) như thế nào? Có những cử
chỉ như thế nào với em? Tình cảm của người đó dành cho em và của em dành
cho người đó?
Cụ thể : Hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa như sau :
a, Ông, bà (hoặc người thân) của em bao nhiêu tuổi?
b, Ông, bà (hoặc người thân) của em làm nghề gì?

c, Ông, bà (hoặc người thân) của em yêu quý chăm sóc em như thế nào?
Tôi đã hướng dẫn các em dựa vào câu hỏi gợi ý trên. Ngoài ra, tôi bổ sung
thêm câu hỏi để học sinh viết và hoàn thành các đoạn văn không giống nhau đó
có thể :
- Tính tình của người đó ra sao? Người đó có thói quen gì? Sở thích của người
đó là gì?
Ví dụ : Bố em là người rất nghiêm khắc hoặc Mẹ em là một người dịu dàng…
8


- Cử chỉ, lời nói, việc làm của người như đó thế nào?
Ví dụ : Mẹ em người luôn quan tâm, lo lắng cho gia đình. Ngoài công việc ở cơ
quan, mẹ còn phải làm bao nhiêu là việc…
- Tình cảm của em đối với Ông, bà (hoặc người thân) của em?
Hướng dẫn các em nêu nhận xét hay cảm nghĩ của em về người thân hoặc
trong bài làm các em viết xen lẫn cả đặc điểm và tính tình, tính tình và cảm
nghĩ..
* Đối với dạng bài: Kể ngắn về bốn mùa.
- Yêu cầu học sinh khi kể phải đảm bảo giới thiệu mùa đó bắt đầu từ bao giờ?
Mùa đó có điểm gì nổi bật về thời tiết, về bầu trời, về cây cối xung quanh...? Em
và các bạn có những việc làm gì hay niềm vui gì khi mùa đó về? Em có thích
mùa đó không?....
Ví dụ : Khi viết về mùa hè, ngoài câu hỏi gợi ý trong sách, tôi đã hướng dẫn
thêm cho các em một số câu hỏi sau :
- Mùa hè, em nghe được những âm thanh gì ở khắp nơi?
- Tiếng ve làm cho mọi người cảm thấy như thế nào?
hoặc : - Theo em, mùa hè loại hoa nào nở nhiều nhất?
- Màu sắc của hoa như thế nào?
hay : - Quả gì em hay được ăn vào mùa hè?
- Màu sắc và vị của nó như thế nào?

- Mùa hè, em thường làm gì và được đi đâu chơi?
Khi giáo viên hệ thống hóa kiến thức một cách kĩ lưỡng thì học sinh sẽ phân
biệt rõ được đặc điểm của từng đối tượng và các em sẽ tránh được những nhầm
lẫn đáng tiếc đồng thời viết chính xác về đối tượng đang nói đến. Qua cách làm
này, giúp HS biết cách viết đúng và viết hay về một đối tượng theo yêu cầu của
bài tập.
Biện pháp 3: Thực hiện dạy học tích hợp.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần tích hợp kiến thức của phân môn Tập
làm văn với các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu để liên hệ những nội dung
kiến thức có liên quan đến các chủ đề học tập các phân môn nhằm cung cấp
thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ cho học sinh. Bởi vậy, giáo viên chính là người
cung cấp. Cung cấp thông các bài tập đọc. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì
môn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ đề đó. Vì vậy, trong các
tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ ý và chú ý đến
những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn. Từ đó học sinh có thể rút ra
những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ để sau này vận dụng vào viết văn.
9


Ví dụ : Qua bài tập đọc “Mùa xuân đến”
Học sinh rút ra được đoạn văn kể về mùa xuân “Bầu trời ngày thêm xanh. Nắng
vàng ngày càng rực rỡ. Vườn cây lại đâm chồi nảy lộc…”
Hay qua bài Tập đọc “Sự tích cây vú sữa”
Học sinh có thể vận dụng một số chi tiết để kể về lá vú sữa, hoa vú sữa, quả vú
sữa như : Hoa vú sữa từng chùm, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện. Quả
vú sữa có da căng mịn, xanh óng ánh… để phục vụ cho bài Kể về một loại cây.
Khi học song bài Tập đọc “Chuyện bốn mùa”
Học sinh đã nắm thêm về đặc điểm của các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Từ đó
giúp học sinh viết đoạn văn tả về một trong các mùa được thuận tiện hơn…
Nhờ thực hiện biện pháp này mà tôi đã góp phần giúp các em mở rộng thêm

một số chi tiết, hình ảnh phục vụ cho những tiết Tập làm văn có nội dung liên
quan.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả của dạy học tích hợp, tôi đã tăng cường
luyện nói, luyện kể, cho học sinh thông qua phân môn Tập đọc, Kể chuyện. Qua
mỗi tiết học, phải rèn cho học sinh được nói ít nhất là một đến hai câu, nhất là
những câu chuyện liên quan đến Tập làm văn.
Biện pháp 4 : Trang bị cho học sinh một số từ ngữ, hình ảnh thuộc chủ đề.
Học sinh Tiểu học (nhất là học sinh lớp 2) vốn từ của các em còn hạn. Vì vậy,
giáo viên nên bổ sung thêm cho các em dựa vào từng chủ đề.
Ví dụ :
+ Tả nắng của mùa hè có thể dùng hình ảnh : nắng chói chang; nắng như thiêu
như đốt; nắng như đổ lửa; nắng cháy da, cháy thịt…
+ Tả về tiếng hót của chim : líu lo, véo von, vang lừng, ríu rít…
+ Tả thân hình : mảnh khảnh, mảnh mai, gầy gò, béo tròn, thon thả …
+ Nước da : đen sạm, trắng hồng, bánh mật, xanh xao, ngăm đen …
+ Mái tóc : đen bóng, óng mượt, bồng bềnh, đen óng ả, mượt mà…
+ Khuôn mặt : Trái xoan, đầy đặn, tròn trịa, xương xương....
+ Tả mặt biển : xanh, rộng, mênh mông , xanh ngắt …
+ Tả giọt sương : long lanh, lấp lánh, lung linh…
Tuy nhiên bản thân tôi cũng đã tùy theo chủ đề mà học sinh có cách lựa chọn
cho phù hợp.
Biện pháp 5 : Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn đủ ý, đúng ngữ pháp có cảm
xúc.
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết ngữ pháp, các khái niệm từ và câu
được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường
10


sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ là rất cần thiết trong giờ học Tập làm
văn. Sử dụng phương pháp này giáo viên giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu,

nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận.
Ví dụ :
- Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu :“Ai- là gì?”,
“Ai - làm gì?”, Ai - thế nào?”, bản thân tôi đã hướng dẫn học sinh nhận biết
những vấn đề sau :
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa? - Bộ phận nào trả lời cho câu
hỏi Ai?(hoặc cái gì?/con gì)?; Bộ phận nào trả lời cho câu hỏi Là gì? (hoặc làm
gì?/như thế nào?) - Đó chính là hình thức cấu tạo câu.
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa?- Là đảm bảo về mặt ý nghĩa.
Để giúp các em có thể viết đoạn văn đủ ý, đúng ngữ pháp và có cảm xúc, tôi đã
hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi. Gợi ý cho học sinh
trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau. Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa
đúng, gợi ý cho các em thay thế các từ dùng chưa phù hợp (nếu có).
Hướng dẫn học sinh viết thành câu, sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật
tự hợp lý để hoàn chỉnh bài làm miệng.
Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết liền
mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.
Ví dụ : Khi viết về một người thân, có em viết : “Em yêu nhất là bố. Bố em cao.
Bố em làm nghề công an. Bố em 32 tuổi. Bố em rất hay chơi với em. Em sẽ
không để bố buồn”.
Từ những ý đã có trong bài làm nháp của học sinh, tôi đã hướng dẫn các em
phát triển một đoạn văn hay hơn như sau :“Trong gia đình em, em yêu tất cả mọi
người nhưng người em yêu nhất là bố. Bố em năm nay đã 32 tuổi rồi. Với nước
da ngăm đen và dáng người cao trông bố thật khỏe mạnh. Bố em làm công an
nên công việc rất vất vả. Mặc dù bận rộn nhưng bố luôn quan tâm đến em, chăm
lo cho gia đình. Em hứa sẽ cố gắng chăm ngoan học giỏi để bố vui lòng...” (hoặc
thể hiện tình của em đối với bố với những câu văn đầy cảm xúc như : Em yêu bố
của em nhất trên đời! – Bố em quả là một người tuyệt vời! …).
hay Khi viết về con vật có học sinh đã viết như sau : “Nhà em có nuôi một chú
chó. Nó có bộ lông màu vàng lẫn nâu. Nó rất hỗn. Em rất yêu nó”.

Từ những ý đã có của học sinh, giáo viên có thể khuyến khích và hướng dẫn
các em hình thành một đoạn văn hay hơn như sau : “Nhà em có nuôi một chú
chó, em đặt tên cho chú là Mic. Toàn thân Mic phủ một lớp áo màu vàng pha lẫn
chút nâu trông mới đẹp làm sao! Hai tai lúc nào cũng vểnh lên như đang nghe
11


ngóng điều gì đó. Mic rất thính, chỉ cần nghe tiếng động là chú lao ngay ra và
sủa gâu…gâu, nghe rất dữ tợn. Nhờ tiếng sủa của Mic mà những tên trộm không
dám bén mảng tới gần. Gia đình em đã hoàn toàn yên tâm mỗi khi vắng nhà bới
ở nhà đã có Mic trông coi. Em rất yêu chú chó nhà em!”.
hay Khi kể về các mùa trong năm, tôi đã hướng dẫn các em thể hiện cảm xúc về
một mùa nào đó như : Ôi, mùa hè thật tuyệt! – Mùa xuân sao mà đáng yêu đến
thế! - Ôi, mùa thu sao mà diệu kì đến vậy! …)
Khi đó, học sinh sẽ thấy được vẫn là ý tưởng cũ nhưng đoạn văn đã được lột
xác, thêm thắt những từ ngữ chau chuốt hơn làm cho đoạn văn hay hơn.
Bên cạnh đó, đối với một số học sinh có năng khiếu, tôi dã hướng dẫn mẫu các
câu văn có sử dụng hình ảnh nhân hóa, so sánh để bài viết sinh động hơn (không
đưa ra tên gọi những thuật ngữ này).
Ví dụ :
Giáo viên đưa ra hai câu văn : “Chú mèo nhà em rất tinh nghịch” và “Con
mèo nhà em rất hay chạy nhảy”, rồi cho học sinh so sánh xem câu nào hay hơn?
Sau đó cho học sinh thấy câu văn thứ nhất do gọi con mèo bằng chú, thay từ
tinh nghịch cho từ rất hay chạy nhảy nên câu văn sinh động hơn, hay hơn. Từ đó
khuyến khích học sinh viết câu văn với cách tương tự như vậy.
Đối với mỗi dạng bài tập, tôi thường giúp học sinh liên hệ tương tự để các em
được rèn luyện nhiều hơn.
Ví dụ : Khi học xong bài “Kể về người thân” (TV2-Tập 1-Trang 85), tôi
khuyến khích cho học sinh làm bài tập này ở nhà với yêu cầu kể về những người
thân khác trong gia đình.

hay Khi học sinh làm xong bài tập : Viết một đoạn văn ngắn nói về mùa hè
(TV2-Tập 2-Trang 21), tôi cho học sinh dựa trên bài viết đó để viết đoạn văn
ngắn nói về các mùa còn lại trong năm.
Với biện pháp này, học sinh vừa được rèn các kĩ năng đã có, vừa mở rộng
được kiến thức, giúp các em ghi nhớ lâu, đồng thời hình thành cho học sinh các
bước để viết đoạn văn ngắn.
Biện pháp 6 : Giúp học sinh nắm được các bước viết một đoạn văn ngắn.
Mặc dù ở lớp 2 mới yêu cầu các em viết một đoạn văn ngắn (từ 3 - 5 câu)
nhưng vẫn phải có câu mở đoạn, câu kết đoạn thì đoạn văn mới đủ ý, mới để lại
ấn tượng với người đọc đồng thời đó cũng chính là nền tảng để giúp các em làm
được bài văn (ở lớp 4, 5) một cách dễ dàng hơn. Cụ thể tôi đã hướng dẫn các em
theo các bước đơn giản như sau :

12


*Bước 1 : Viết câu mở đoạn : Giới thiệu về đối tượng cần viết (có thể diễn đạt
bằng một câu).
* Bước 2 : Phát triển đoạn văn : Kể về đối tượng (về hình dáng, đặc điểm, hoạt
động…tùy theo đối tượng đã giới thiệu để lựa chọn ý cho phù hợp; Lưu ý : tìm
những điểm nổi bật. Đặc biệt là khi kể về người thân, về bạn thân, về cô giáo
hay thầy giáo lớp 1, cần kể thêm kỉ niệm đáng nhớ).
Ở phần này, có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có thể diễn đạt từ 2 đến 3 câu tùy
theo năng lực học sinh. Tôi đã hướng dẫn học sinh suy nghĩ thật kỹ để trả lời
đúng nội dung câu hỏi ở phần gợi ý của đề bài, có thể viết câu trả lời ra vở nháp
sau đó từ câu trả lời em phát triển câu văn bằng cách thêm từ ngữ chỉ hình ảnh
hoặc từ dùng để so sánh vào, lựa chọn từ ngữ cho sinh động sao cho nội dung
câu văn không bị thay đổi mà người đọc lại thích thú, thấy được sự sáng tạo
trong tư duy của các em. Sau đó tiếp tục sắp xếp ý cho nội dung các câu văn có
sự liên kết lôgic.

*Bước 3 : Câu kết đoạn : Nói về tình cảm, suy nghĩ, mong ước của em về đối
tượng đã kể hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối với mọi người (có thể
viết một câu).
Ví dụ : Viết đoạn văn ngắn khoảng từ 4 đến 5 câu nói về một con vật mà em
thích.(trang 81 – TV2 tập 2)
+ Gợi ý :
- Con vật em định tả là con vật gì?
- Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật?
- Vì sao em thích con vật đó?
+ Giáo viên minh họa để học sinh hiểu cách làm :
* Bước 1 : Câu mở đoạn (giới thiệu về con mèo) : Nhà em có nuôi một chú mèo
rất đẹp. (có thể viết thêm : Chú ở với nhà em đã gần một năm rồi).
* Bước 2 : Các câu phát triển (kể cụ thể về con mèo) : Chú mèo này em đặt tên
là Miu. Chú nhỉnh hơn quả mướp một chút. Hai cái tai như hai hai cánh mộc nhĩ
xinh xinh, lúc nào cũng dựng đứng lên như đang nghe ngóng điều gì đó. Bộ lông
của chú màu tro, mượt mà mượt như nhung. Cái đuôi lúc nào cũng ve vẩy. Miu
bắt chuột rất giỏi, chỉ cần nghe động là chú lao rất nhanh…
* Bước 3 : Câu kết thúc (tình cảm của em đối với con mèo) : Em rất thích chú
vì chú rất đáng yêu và còn có ích nữa.
Ví dụ: Hãy viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè. (Tuần 20 – trang
21- TV2 tập 2)
13


* Bước 1 : Câu mở đoạn (giới thiệu về mùa hè) : Trong bốn mùa, mùa nào cũng
đẹp nhưng với em mùa hè là mùa đẹp nhất trong năm hoặc Trong bốn mùa, mỗi
mùa đều có những nét đẹp riêng nhưng em thích nhất là mùa hè.
* Bước 2 : Các câu phát triển (kể về mùa hè) :Mặt trời mùa hè chiếu những tia
nắng chói chang xuống mặt đất làm cho không khí vô cùng nóng bức và oi nồng.

Dù không khí không ấm áp như mùa xuân hay đẽ chịu như mùa thu nhưng cây
trong vườn vẫn đua nhau khoe sắc. Những chùm phượng vĩ đỏ rực. Tiếng ve kêu
râm ran. Vào mùa hè, chúng em háo hức một kỳ nghỉ đầy thú vị.
* Bước 3 : Câu kết thúc (nhận xét về mùa hè) : Ôi, mùa hè thật tuyệt vời! hoặc
Mùa hè sao đáng yêu đến thế! hoặc Em rất yêu mùa hè!
* Tóm lại : Ngay từ những tiết học đầu tiên, khi học sinh được làm quen với
viết đoạn văn ngắn, tôi đã hướng dẫn sau đó khắc sâu để học sinh nắm được các
bước viết một đoạn văn ngắn như trên. Từ đó, các em có thể mở rộng và phát
huy đoạn viết theo cách hiểu dễ dàng hơn.
Biện pháp 7 : Tăng cường kiểm tra và chữa bài.
Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh,
sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập nhiều
về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ có nhiều lỗi sai.
Trong quá trình sửa bài, giáo viên phát hiện, giúp học sinh khắc phục, biết lựa
chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, giáo
viên giúp học sinh chau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Mỗi một đề bài,
tôi yêu cầu học sinh ba lần như sau :
+ Lần 1 : Dựa vào hệ thống câu hỏi và gợi ý của giáo viên để viết bài vào nháp
(giáo viên kiểm tra, chỉnh sửa).
+ Lần 2 : Làm bài vào vở Bài tập Tiếng Việt (giáo viên kiểm tra, chỉnh sửa).
+ Lần 3 : Hoàn thiện vào vở Tập làm văn.
Đối với những học sinh yếu, có khi các em phải viết đến ba lần vào vở (do
các em không dưạ vào bài giáo viên chỉnh sửa để làm lại bài mà lại làm mới).
Khi sửa bài, tôi giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước, hoặc những
bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó học sinh nhận thấy
sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu rằng những
bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng.
Biện pháp 8 : Tổ chức cho các em sinh hoạt câu lạc bộ “Em yêu Tiếng Việt”.
Trong những năm gần đây, ngoài việc giảng dạy theo chương trình của Bộ
GD&ĐT. Dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của Phòng GD&ĐT, sự đồng tình ủng hộ

của các bậc phụ huynh học sinh và sự đam mê của các em học sinh nên các
14


trường Tiểu học trên địa bàn huyện cũng như trường Tiểu học…. nơi tôi công
tác đã thành lập và tổ chức tốt hoạt động ngoài giờ lên lớp cho các em tham gia
sinh hoạt qua việc sinh hoạt các Câu lạc bộ : Toán; Em yêu Tiếng Việt... Bởi
trong khuôn khổ giờ học trên lớp, các em chưa bộc lộ, phát triển được năng
khiếu của mình. Vì vậy việc thành lập và tổ chức sinh hoạt các Câu lạc bộ trong
Nhà trường nhằm tạo sân chơi bổ ích, sự trải nghiệm, sự sáng tạo…tạo điều kiện
thực hành những điều đã học nhằm càng hoàn thiện mình hơn trong cuộc sống
cũng như phát triển tối đa khả năng còn tiềm ẩn trong mỗi cá nhân. Bên cạnh đó
thông qua việc sinh hoạt tập thể, sinh hoạt nhóm giúp các em học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau trong quá trình làm việc và học tập.
Trong quá trình sinh hoạt Câu lạc bộ :“Em yêu Tiếng Việt” khối lớp 2 gồm có
20 học sinh tham gia. Bản thân tôi đã được Ban giám hiệu nhà trường phân công
phụ trách nên tôi đã hiểu được những tâm lý lứa tuổi của các em. Biết được trình
độ học tập và nhận thức của các em thông qua việc trực giảng dạy trên lớp nên
trong quá trình giảng dạy Câu lạc bộ, từ đó tôi đã làm các dạng đề ôn luyện cũng
như giao lưu với lượng kiến thức vừa đủ, luôn tạo tâm lý thoải mái cho các em,
hướng các em xây dựng nhóm “Đôi bạn cùng tiến” trong quá trình sinh hoạt
nhằm giúp các em học hỏi được những câu, những ý hay của bạn trong quá trình
làm bài viết hay trong cuộc sống đời thường. Hàng tuần, việc sinh hoạt Câu lạc
bộ : “Em yêu Tiếng Việt” được hoạt động theo từng chủ điểm cụ thể và đúng kế
hoạch của Nhà trường (vào chiều thứ 4 hàng tuần). Hàng tháng, tôi sẽ tổ chức
cho các em làm bài kiểm tra dưới nhiều hình thức khác nhau như :Viết; Trả lời
nhanh…Và kết thúc mỗi kì học bản thân tôi đã lập kế hoạch đề xuất với Ban
giám hiệu Nhà trường tổ chức cho các em giao lưu trong khối/lớp dưới sự giám
sát chặt chẽ của Ban giám hiệu Nhà trường, thầy cô giáo, đại diện phụ huynh
học sinh và toàn thể các học sinh trong trường và đã tạo được hiệu quả, niềm tin

trong thầy cô, phụ huynh và toàn thể các em học sinh thân yêu. Dưới đây là một
số hình ảnh trong đợt giao lưu Câu lạc bộ “Em yêu Tiếng Việt” của trường Tiểu
học…nơi tôi đang công tác.
H.1: Buổi gia mắt Câu lạc bộ :“Em yêu Tiếng Việt” của khối 2.
H.2: Sinh hoạt Câu lạc bộ :“Em yêu Tiếng Việt” theo chủ điểm tháng của học sinh khối 2.
H.3: Giao lưu Câu lạc bộ :“Em yêu Tiếng Việt” theo Chuyên đề
Năm học : 2017 - 2018 của học sinh toàn trường.

15


Sau khi áp dụng biện pháp này, tôi thấy nhiều học sinh viết đoạn văn sáng tạo,
giàu hình ảnh. Các em biết áp dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa để nói, viết
về một sự vật thêm sinh động (bài tham khảo phần phụ lục)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên, kỹ năng viết đoạn văn ngắn
của học sinh lớp tôi phụ trách. Bản thân tôi nhận thấy các em đã có nhiều tiến bộ
rõ rệt, nhiều học sinh phấn khởi hơn khi học phân môn này. Cụ thể:
+ Học sinh biết được cách viết đoạn văn theo yêu cầu của từng bài, nhiều học
sinh viết hay, sáng tạo và liên kết câu trong đoạn văn rất tốt.
+ Học sinh củng cố các từ ngữ và sử dụng tốt các từ ngữ trong từng chủ đề để
viết đoạn văn.
+ Học sinh biết cách liên hệ thực tế để viết đoạn văn ngắn đảm bảo tính loogic
trong từng chủ đề và nội dung cần tích hợp của môn học (TN-XH, Đạo đức, Âm
nhạc,…) và môn Tiếng Việt (Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện)’
+ Sự hợp tác, qua trao đổi, nhận xét, đánh giá, giúp các em sửa lỗi và viết câu
đúng, đoạn văn hay, sáng tạo.
Qua khảo sát lần cuối năm học, tôi thấy không còn tình trạng học sinh
không sử dụng dấu câu khi viết văn, biết dùng từ ngữ phù hợp hơn, diễn đạt trôi
chảy hơn…kết quả thu được như sau :

Bảng 2: Kết quả khảo sát viết đoạn văn của học sinh lớp 2 cuối năm học 20182019

Tổng
số
học
sinh

29
em

Viết câu văn
trọn ý, đảm
bảo yêu cầu,
đoạn viết giàu
hình ảnh, có
cảm xúc.
SL
TL
16
52,2%

Viết câu văn có ý theo
yêu cầu đề bài, diễn đạt
câu chưa gãy gọn, một
số từ dùng chưa chính
xác, ít xúc cảm.
SL
13

TL

44,8%

Chưa biết viết
văn, gạch đầu
dòng, xuống dòng
tùy tiện, không rõ
ý, rõ câu.
SL
0

TL
0%

Không
sử dụng
dấu câu
khi viết
văn.
SL TL
0 0%

16


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận :
Việc dạy cho học sinh biết cách học tốt phân môn Tập làm văn là môi trường
quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như : tính cẩn thận, chịu khó,
tự tin, óc tư duy, sáng tạo, bồi dưỡng cho các em thế giới quan và nhân sinh
quan. Bên cạnh đó, tôi nhận thấy rằng, những em tiếp thu chậm, việc viết đoạn

văn sạch sẽ, rõ ràng là yêu cầu không quá cao nhưng muốn viết hay thì yêu
cầu trẻ phải kiên nhẫn nhiều hơn. Trong quá trình áp dụng một số biện pháp
trên, bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau :
- Giáo viên phải có lòng nhiệt tình, quan tâm chăm sóc, gần gũi với học sinh,
phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các em thực hiện nhiệm vụ học tập.
- Lựa chọn phương pháp dạy học, có hiệu quả nhằm phát huy tính tích cực chủ
động sáng tạo của học sinh.
- Sử dụng tối đa đồ dùng dạy học và có hiệu quả trong từng tiết dạy.
- Phải tạo lớp học không khí thoải mái, sinh động để tạo sự ham thích học tập
ở học sinh thông qua một số trò chơi phục vụ bài học.
- Hình thành cho các em thói quen học tập, làm việc một cách khoa học : Đọc
kỹ đề bài, xác định yêu cầu của đề bài, quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy
học, câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới.

17


- Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghĩ, tìm tòi để phát
triển tư duy, khơi gợi niềm say mê ở các em, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến
thức.
- Phải để các em tự do trình bày ý kiến của mình, không ngắt lời khi học sinh
đang phát biểu, tạo cho các em sự tự tin.
Theo ý kiến của cá nhân tôi, các biện pháp trên không chỉ áp dụng với phân
môn Tập làm văn ở khối lớp 2 mà có thể áp dụng với nhiều khối lớp khác. (khi
lên các lớp trên, các em sẽ dựa vào những gì đã tiếp thu được về viết đoạn văn
ngắn để phát triển, mở rộng thành những bài văn hay một cách chủ động hơn).
Tôi hi vọng sáng kiến của tôi có thể góp phần nhỏ bé vào việc giúp học sinh làm
tốt hơn bài tập viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn ở lớp 2 nói riêng
và trong trường Tiểu học nói chung.
3.2. Kiến nghị.

+ Đối với giáo viên :
- Tích cực tham gia các Chuyên đề do Nhà trường tổ chức để nâng cao trình độ
chuyên môn.
- Người giáo viên cần hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình do đó cố gắng trau
dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy
của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn, tạo cơ hội cho các em được nói,
được diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi, mọi lúc để các em có cơ hội phát triển
một cách toàn diện.
+ Đối với Nhà trường :
- Duy trì và phát triển tốt các hoạt động Ngoài giờ lên lớp, nhất là việc thành lập
và phát triển các Câu lạc bộ : Toán; Em yêu Tiếng Việt... để các em phát huy hết
năng khiếu của mình, có thể tự học hỏi bạn bè nhằm mở rộng và nâng cao vốn
từ cho các em.
Trên đây là :“Một số biện pháp nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho
học sinh lớp 2”. Trong quá trình hoàn thành tốt sáng kiến, bản thân tôi đã có
nhiều nỗ lực cố gắng. Song với trình độ hiện có và kinh nghiệm của bản thân
phần nào còn hạn chế nên không tránh khỏi sự thiếu sót. Rất mong được sự bổ
sung góp ý của các bạn đồng nghiệp và các cấp để tôi có thêm những kinh
nghiệm trong giảng dạy, vận dụng vào thực tế giảng dạy có hiệu quả cao hơn./.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Thọ Xuân, ngày 10 tháng 3 năm 2019

18


Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Xác nhận của Hiệu trưởng

Người viết


Phạm Thị Phượng

PHỤ LỤC
Bài viết của em : Lê Thị Thanh Thảo

Bài viết của em : Tống Hoàng Min Quân

Bài viết của em : Lê Đức Trung Anh

19


20



×