------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, bộ môn Mĩ thuật từ lâu giữ một vai trò quan trọng
trong chương trình giáo dục nước nhà. Mục đích của nền giáo dục nước ta là tạo
ra những con người phát triển toàn diện: Đức - Trí - Thể - Mĩ - Lao động hướng
nghiệp. Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước cũng đề cập nhiều đến việc
dạy bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh phổ thông, nhằm phát triển nhân tài cho
đất nước. Ngoài việc bồi dưỡng kiến thức văn hóa cần phải bồi dưỡng tư duy
khoa học, phát huy năng khiếu, óc thẩm mĩ, sáng tạo nghệ thuật cho học sinh,...
bởi cái đẹp đã góp phần không nhỏ vào nền kinh tế quốc dân và trở thành một
trong những nhu cầu không thể thiếu của con người.
Môn Mĩ thật ở trường THCS khác với trường chuyên nghiệp, không nhằm
đào tạo học sinh thành họa sĩ chuyên nghiệp hay làm nghề, mà đó là hoạt động
“giáo dục thẩm mĩ” cho các em. Nó không những hướng người học tới cái hay,
cái đẹp, mà còn giúp các em bước đầu cảm thụ, nhận thức, đánh giá đúng về giá
trị thẩm mĩ (trước thiên nhiên, một bức tranh, một công trình, một tác phẩm,…)
đồng thời thấy được tầm quan trọng của Mĩ thuật đối với đời sống và biết sáng
tạo, vận dụng vào cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, môn Mĩ thuật còn
định hướng, giúp học sinh có năng khiếu có thể phát huy được khả năng vốn có
của mình trong lĩnh vực nghệ thuật. Không những thế bộ môn Mĩ thuật còn có tác
dụng bổ trợ vào việc học một số môn văn hóa khác như môn: Toán, Lí, Sinh học,
Ngữ văn, Lịch Sử, Địa lí, Âm nhạc,… đồng thời góp phần rèn luyện kĩ năng sống
cho học sinh, hướng các em tới “Chân - Thiện - Mĩ”
Để nâng cao hiệu quả, chất lượng giảng dạy Mĩ thuật ở trường THCS,
chúng ta cần kết hợp rất nhiều yếu tố như: sự chuẩn bị giáo án, đồ dùng, phương
pháp và sự vận dụng linh hoạt trong cả quá trình lên lớp. Tuy nhiên, yếu tố vô
cùng quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng và hiệu quả của tiết học mà
ít khi chúng ta nghĩ tới, đó là “Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh”
Quả thật! Để góp phần cho một giờ dạy đạt hiệu quả cao, hấp dẫn được học
sinh với bài học, trước hết người thầy phải mang đến cho các em nguồn năng
lượng tươi mới, phải thu hút được sự say mê tìm tòi, tạo được sự hứng khởi, khơi
nguồn sáng tạo, chủ động tiếp thu vào bài của các em. Điều đó không hề khó, chỉ
cần chúng ta chịu khó tích luỹ kiến thức trên nhiều lĩnh vực, sưu tầm, sáng tạo,
linh hoạt một chút trong cách tổ chức là chúng ta có thể tạo được sự khởi đầu
thành công cho giờ dạy của mình.
Bản thân là một giáo viên giảng dạy Mĩ thuật ở trường THCS, ngoài việc
tự học - tự bồi dưỡng, học hỏi đồng nghiệp và những người đi trước tôi luôn trăn
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
1
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
trở, không ngừng tìm tòi, sáng tạo để tìm ra phương pháp dạy học tích cực, tạo
cho học sinh sự hứng thú, chủ động trong mỗi bài học. Từ những kinh nghiệm
tích luỹ trong 14 năm công tác, tôi thấy để đạt được chất lượng và hiệu quả trong
tiết dạy, cũng như khơi nguồn cảm hứng tích cực đến học trò một cách tốt nhất thì
sự chuẩn bị bài và cách dẫn dắt các em hứng thú bước vào bài học đặc biệt rất
quan trọng, bởi nó ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình lên lớp. Chính vì vậy, tôi chọn
đề tài “Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh” mà sau một thời gian
nghiên cứu, áp dụng và thấy có những hiệu quả đáng kể. Thực tế cho thấy trong
các giờ học, học sinh hăng say, hứng thú, tự giác học tập, sôi nổi, tích cực hơn rất
nhiều. Với mục đích là bồi dưỡng thêm kiến thức, phương pháp giảng dạy cho
mình để đạt được hiệu quả cao hơn, đồng thời chia sẻ với đồng nghiệp, hướng tới
mục tiêu đổi mới phương pháp, cách tổ chức và không ngừng nâng cao chất
lượng giảng dạy theo yêu cầu của giáo dục trong thời đại mới.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu, nghiên cứu nội dung, mục đích, yêu cầu của bài dạy và đối
tượng học sinh để đưa ra phương pháp, “Nghệ thuật vào bài” tạo hứng thú, cuốn
hút học sinh đối với môn Mĩ thuật sao cho hợp lý, hiệu quả nhất.
- Thực nghiệm kết quả học tập của học sinh qua kinh nghiệm giảng dạy
trong năm học 2017 - 2018.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài “Nghệ thuật vào bài” tạo hứng thú cho học sinh tôi áp dụng với
tất cả các em học sinh thuộc bốn khối 6,7,8,9 ở trường Trung học cơ sở hiện tôi
đang công tác trong năm học 2017- 2018 và 2018 - 2019
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp tìm hiểu, sưu tầm và đọc tài liệu: (gồm các tài liệu sau)
- Tài liệu đổi mới phương pháp dạy học
- Tâm lý lứa tuổi học sinh
- Trò chơi dân gian
- Một số tài liệu khác...
b. Phương pháp quan sát sư phạm:
Thường xuyên thao giảng, dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp trong trường,
trong huyện để học hỏi đúc rút kinh nghiệm.
c. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm:
- Nghiên cứu đồ dùng dạy học, giáo án
- Nghiên cứu phương pháp lên lớp của giáo viên.
- Nghiên cứu kết quả, khả năng tiếp nhận sáng tạo của học sinh sau một
quá trình học tập.
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
2
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
2. NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lí luận:
Nói đến Mĩ thuật là nói đến nghệ thuật tạo ra cái đẹp. Là nghệ thuật của
thị giác - nghệ thuật nhìn ra cái đẹp và cảm thụ cái đẹp. Nói đến dạy học là nói
đến hoạt động trao đổi kiến thức giữa thầy và trò, tác động qua lại bổ sung cho
nhau để đạt được đích cuối cùng là sự lĩnh hội và vận dụng tri thức của học sinh.
Học sinh là đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của hoạt động học.
Đặc biệt dạy Mĩ thuật ở trường THCS là giúp học sinh cách nhìn ra cái đẹp,
tạo ra cái đẹp và cảm thụ cái đẹp. Sự thành công trong giảng dạy Mĩ thuật là dựa
vào cách dẫn dắt, tổ chức và hướng dẫn của thầy cùng với sự phối hợp của trò.
Mỗi học sinh có một trình độ, khả năng cảm thụ, sở thích riêng, vì vậy cách nhìn
nhận, cảm thụ cái đẹp cũng không giống nhau,… Do đó, người thầy không được
áp đặt, hay làm thay, mà cần tìm ra biện pháp tổ chức hiệu quả, làm sao đánh
thức, khơi dậy được tiềm năng, tạo cho các em sự say mê, chủ động đón nhận,
tìm hiểu kiến thức. Nghĩa là người thầy phải có phương pháp giảng dạy tích cực,
lôi cuốn được học trò trong bài học.
Hẳn ai trong chúng ta cũng biết rằng hứng thú có vai trò rất quan trọng
trong học tập và công việc. Dưới sự tác động của hứng thú người ta dễ dàng làm
được mọi việc và yêu công việc hơn, nhưng đôi khi cảm hứng không tự nhiên mà
có. Vậy làm thế nào để tạo được cảm hứng cho học sinh trong mỗi bài học? Tôi
rất thích câu nói của nhà giáo dục lỗi lạc William Arthur Ward: “Người thầy
trung bình chỉ biết nói, Người thầy giỏi biết giải thích, Người thầy xuất chúng
biết minh họa, Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”. Theo tôi, người
thầy, khi đứng trên bục giảng, để góp phần cho một giờ dạy đạt hiệu quả cao, hấp
dẫn, lôi cuốn được học sinh trong mỗi bài học, trước hết người thầy phải tràn đầy
cảm hứng tích cực, mang đến cho các em nguồn năng lượng tươi mới, phải thu
hút được sự say mê tìm tòi, tạo được sự hứng khởi, khơi nguồn sáng tạo, chủ
động tiếp thu vào bài của các em. Chính vì lẽ đó, trong mỗi bài học, phần giới
thiệu vào bài tạo cảm hứng cho học sinh đặc biệt vô cùng quan trọng.
Khi dạy Mĩ thuật, giáo viên phải hiểu rõ được tâm lý lứa tuổi học sinh ở
từng cấp học, lớp học, từ đó có phương pháp dẫn dắt, định hướng, cung cấp lượng
kiến thức đến các em sao cho phù hợp nhất. Cùng với việc biên soạn, soạn giảng
theo phương pháp mới, chuẩn bị mọi phương tiện, đồ dùng, chúng ta phải tìm
hiểu, sáng tạo cách thức truyền đạt làm sao dẫn dắt học sinh vào bài học để ngay
từ ban đầu đã tạo cho các em sự say mê hứng thú, học một cách chủ động, tích
cực. Vì vậy, người thầy cần phải biết khai thác được nội dung và các phương án
thể hiện phương pháp vào bài khác nhau sao cho phù hợp với mục đích yêu cầu
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
3
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
của từng phân môn, từng bài học và từng đối tượng học sinh mà mình tiếp cận để
đưa ra phương pháp vào bài hợp lý và hiệu quả nhất.
Phải nói rằng học sinh rất hứng thú với những tiết học có sự đầu tư, sáng
tạo trong cách dẫn dắt vào bài của giáo viên. Để lôi cuốn được học sinh, khơi
nguồn cảm hứng cho các em trong mỗi bài học của mình, người thầy cần sáng tạo
nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh, phải là người truyền lửa, truyền
cảm hứng cho các em trong mỗi giờ lên lớp.
2.2. Thực trạng vấn đề:
a. Thực trạng:
Trước kia mỗi khi lên lớp tôi thường mất rất nhiều thời gian để chấn chỉnh,
ổn định lại lớp trước khi vào bài học. Do chưa có kinh nghiệm nên khi giới thiệu
vào bài tôi chưa quan tâm nhiều đến phương pháp mà chỉ giới thiệu qua rồi trực
tiếp ghi đầu bài luôn. Thực tế với những học sinh có năng khiếu thì rất yêu thích,
say mê học tập, vẽ và sáng tạo. Nhưng bên cạnh đó có những học sinh không có
năng khiếu, xem môn Mĩ thuật là môn phụ và sao nhãng nên cũng không mấy
hứng thú với môn học, một số em không mấy tập trung, ngồi chơi, nói chuyện
riêng, không mang bút, sách vở, đồ dùng... hoặc học đối phó.
Tất cả những thực trạng trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy và
học của nhà trường. Điều đó thể hiện rất rõ qua kết quả thi thử nghiệm đầu năm ở
trường THCS nơi tôi đang công tác, khi tôi chưa áp dụng đề tài:
KHỐI SĨ SỐ
6
7
8
9
80
63
77
80
SL
70
57
70
74
CHƯA ÁP DỤNG ĐỀ TÀI
Loại Đ
Loại CĐ
%
SL
%
87,5
10
12,5
90,5
6
9,5
90,9
7
9,1
92,5
6
7,5
Từ những vấn đề trên, tôi mạnh dạn đưa ra “Nghệ thuật vào bài tạo hứng
thú cho học sinh”, giúp cho các em tích cực, yêu thích bộ môn Mĩ thuật hơn.
b. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng học tập của học sinh:
Theo tôi, tình trạng trên ở trường tôi có rất nhiều nguyên nhân, song tập
trung vào những điều kiện cơ bản sau:
* Về phía giáo viên và nhà trường:
Từ kết quả thực trạng trên của học sinh tôi đã đặt ra câu hỏi: có phải do
mình chưa thực sự đổi mới phương pháp dạy học để lôi cuốn học sinh? Chưa thực
sự nhiệt tình đam mê với công việc, còn coi nhẹ việc tự học tự bồi dưỡng? Chưa
phát huy được hết tác dụng của đồ dùng trực quan? Chưa thường xuyên vận dụng
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
4
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
phương pháp sử dụng giáo án điện tử - máy chiếu vào bài dạy, dẫn đến hiệu quả
giảng dạy chưa cao và các thiết bị như tranh ảnh phiên bản mẫu vẽ chưa đáp ứng
đầy đủ yêu cầu bài? môn lí thuyết ở trường chưa có các phòng chức năng riêng
nên việc tổ chức lớp học theo nhóm hay xếp lớp hình chữ U, vòng bi là rất khó,
không thực hiện được dẫn đến chất lượng dạy học không cao.
* Về phía học sinh:
Qua tìm hiểu tôi nhận thấy kết quả học tập của học sinh chưa tốt do những
nguyên nhân:
- Thiếu dụng cụ học tập môn Mĩ thuật
- Đa số ở trường THCS các em bắt đầu ý thức môn học chính nên xem môn Mĩ
thuật là phụ và có phần sao nhãng.
- Do một số học sinh không có năng khiếu nên không thích vẽ.
2.3. Những giải pháp:
Xuất phát từ tình trạng học tập Mĩ thuật của học sinh và việc đổi mới
phương pháp dạy học để gây hứng thú cho các em, chúng ta cần tìm ra phương
pháp vào bài phù hợp. Nắm bắt, hiểu rõ mục tiêu dạy học Mĩ thuật ở trường
THCS; bám sát mục tiêu bài học trong chương trình; tâm lí lứa tuổi học sinh và
thực tế giảng dạy của bản thân. Thông qua nghiên cứu, học hỏi, sưu tầm, sáng tạo,
tôi đã tự biên soạn ra một số phương pháp, trò chơi học tập tích cực mà tôi đã đang áp dụng, tổ chức trong phần “Giới thiệu vào bài” tạo sự hứng thú, lôi cuốn
học sinh vào bài học. Trong phạm vi đề tài này, tôi xin được đề cập đến những
giải pháp cơ bản sau:
- Đưa các trò chơi phù hợp vào phần giới thiệu bài.
- Sử dụng phương pháp trực quan nêu vấn đề gợi mở.
- Tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện những bài hát, thơ, ca dao, tục
ngữ,... liên quan tới nội dung bài học, trên cơ sở đó giáo viên giới thiệu vào bài.
Cụ thể:
2.3.1. Phương pháp trò chơi: (Áp dụng trong cả 4 phân môn)
Phương pháp trò chơi rất hấp dẫn đối với học sinh. Khi vận dụng phương
pháp này tôi thấy tạo được sự hứng thú, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo, tìm
tòi, học hỏi ở học sinh, khiến các em rèn luyện được sự linh hoạt, tư duy nhạy
bén, nhanh tay, nhanh mắt. Khác với trò chơi rèn luyện sức khỏe, giải trí, trò chơi
học tập định hướng tới sự thông hiểu kiến thức, gắn với các nội dung học tập cụ
thể của môn học, bài học. Không những thế phương pháp trò chơi còn tạo được
một môi trường học tập vui vẻ, thân ái, đoàn kết giữa học sinh với học sinh và
học sinh với giáo viên.
Có thể tổ chức trò chơi trong phần giới thiệu vào bài tạo hứng thú cho học
sinh, hay trong một nội dung cụ thể hoặc phần cuối bài để củng cố lại kiến thức.
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
5
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
Tùy thuộc vào nội dung, mục đích - yêu cầu của bài mà giáo viên linh hoạt tổ
chức.
Tuy nhiên! Do trò chơi được tổ chức lồng ghép ở phần giới thiệu bài nên
giáo viên phải linh hoạt, tổ chức nhanh chóng nếu không sẽ ảnh hưởng đến thời
gian dạy - học. Do vậy, khi đưa trò chơi vào phần giới thiệu bài cần phải chú ý
giới hạn yếu tố thời gian sao cho hợp lý (khoảng 2 - 3 phút), vừa có hiệu quả
trong giới thiệu bài giúp học sinh dễ hiểu, hăng say, vừa có thể đảm bảo được rõ
nội dung của bài và thời gian học tập, thực hành của các em.
Có rất nhiều cách thức tổ chức trò chơi áp dụng cho từng phân môn và phù
hợp với từng bài học, chúng ta có thể tự nghiên cứu sao cho phù hợp. Giáo viên
có thể chia lớp thành 2,3 hay nhiều nhóm, tùy thuộc vào hình thức tổ chức trò
chơi của mình.
(Một số hình ảnh trò chơi học tập tôi đã áp dụng trong tiết dạy ở phần giới thiệu vào bài)
Trò chơi “ghép hình”: (Áp dụng cả bốn phân môn)
Ví dụ: Tiết vẽ tranh Đề tài bộ đội- lớp 6; Vẽ trang trí chậu cảnh- lớp 7; trang trí
quạt giấy- lớp 8, trang trí túi xách- lớp 9,….
Hình thức chơi:
Cách 1: Với trò chơi này giáo viên chuẩn bị sẵn ba đến bốn tranh có đề tài
hoặc nội dung vẽ khác nhau (phụ thuộc vào cách chia nhóm) đã được tách rời
thành nhiều mảng hình, để riêng từng bộ phận mảng hình đã cắt.
- Chia lớp thành 3 - 4 nhóm, phát tranh cho từng nhóm, yêu cầu mỗi nhóm
1, 2 hoặc 3 bạn chơi, yêu cầu các nhóm trong khoảng thời gian nhất định phải
ghép hoàn thành bức tranh, hay vật dụng sinh hoạt,… dán trên giấy GV đã phát,
cử đại diện lên trình bày kết quả.
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
6
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
- Sau khi học sinh đã ghép xong hoặc hết thời gian, giáo viên cùng cả lớp
nhận xét phần trình bày của các nhóm, nhóm nào xong trước thời gian, đúng, đẹp
sẽ được tuyên dương. Sau đó giáo viên hỏi học sinh: nhận biết hình ảnh trong
tranh ghép là gì? Vẽ nội dung gì? Hoặc hỏi: nhận biết vật dụng đó là gì? (Nếu đó
là hình vẽ một vật dụng sinh hoạt).
- Trên cơ sở câu trả lời của học sinh, giáo viên chốt ý giới thiệu vào bài.
Cách 2: Trong bài vẽ tranh lớp 6 (phần giới thiệu vào bài vẽ tranh, sau tiết Cách
vẽ tranh đề tài để HS khắc sâu kiến thức)
- GV giới thiệu các bước tiến hành (bông hoa,...) không theo trình tự, yêu
cầu học sinh sắp xếp đúng (đính vào cây,...) theo thứ tự.
- Gọi 1 HS tham gia, HS khác nhận xét, GV củng cố, giới thiệu, vào bài
(Ghép hình các bước tiến hành bài vẽ tranh trong phần giới thiệu vào bài)
Trò chơi điểm khuyết: (Đó là dạng điền từ đúng vào chỗ trống)
Ví dụ: Tiết thường thức mĩ thuật: chạm khắc gỗ đình làng - lớp 9
Hình thức chơi:
Chia lớp thành 3- 6 nhóm, tuỳ thuộc vào sĩ số và sơ đồ lớp học. Phát phiếu
học tập theo từng nhóm, yêu cầu điền từ đúng vào chỗ trống.
GV tham khảo các câu ca dao, tục ngữ sau (đáp án: Đình)
1.
“ Qua ..... ngả nón trông .....
..... Bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
2.
3.
“ Bao giờ rau diếp làm .....
Gỗ lim làm ghém thì mình lấy ta
Bao giờ trạch đẻ ngọn đa
Bồ câu đẻ nước thì ta lấy mình”
“ Răng to như tấm thớt .....”
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
7
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
4.
“ Trúc xinh trúc mọc đầu .....
Em xinh em đứng một mình cũng xinh”
5.
“ Hôm qua tát nước đầu ......
Để quên chiếc áo trên cành hoa sen”
6.
“ Trăng thanh nguyệt rạng mái ......
Chén son chưa cạn sao tình đã quên”
7.
“ Ăn chơi cho hết tháng hai
Cho làng đóng đám, cho trai dọn .....
Trong thì chiêng trống dập dình
Ngoài thì trai gái tự tình cùng nhau”
8.
“ Toét mắt là tại hướng ......
Cả làng toét mắt, riêng mình em đâu”
9.
“ Mình về mình lại nhớ ta
Mái ...... Hồng Thái, cây đa Tân trào”
(Trích: Việt Bắc - Tố Hữu)
10. “Tôi đứng mãi trên boong, chờ đợi phút qua ngang nhà. Làng tôi
xanh ngắt những tàu dừa, tàu chuối. Mái ...... cháy hơn một nửa, nhô ra giữa rặng
cây”
(Trích tuỳ bút: Măng tầm Vông- Đoàn Giỏi)
Yêu cầu: thời gian 1phút, nhóm nào xong trước, đúng được điểm tốt. Trên cơ sở
đó giáo viên chốt ý, giới thiệu vào bài.
Trò chơi ai nhanh hơn.
Với trò chơi này, không chỉ rèn luyện cho các em sự linh hoạt, mà còn rèn
luyện cho các em có tư duy nhạy bén, tìm hiểu, phân loại nhanh, chính xác.
Ví dụ 1. Tiết thường thức mĩ thuật: Giới thiệu một số tranh dân gian Việt
Nam - lớp 6.
Hình thức chơi:
- Giáo viên tổ chức chia lớp thành 2 - 4 nhóm mang tên hai dòng tranh dân
gian Đông Hồ và Hàng Trống, mỗi nhóm cử 2 đại diện tham gia chơi.
- Yêu cầu mỗi nhóm ghi nhanh lên bảng hoặc phiếu học tập những bức
tranh dân gian nhóm mình mang tên trong thời gian một phút. Hết thời gian, giáo
viên cùng học sinh ở dưới lớp nhận xét, nhóm nào kể được nhiều tranh và đúng
được tuyên dương và giành chiến thắng. Trên cơ sở đó giáo viên củng cố, giới
thiệu vào bài mới.
Ví dụ 2. Tiết vẽ tranh: Đề tài trò chơi dân gian.
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
8
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
- GV kết hợp linh hoạt giữa trò chơi “Ai nhanh hơn” với kỹ thuật dạy
học: “Tranh luận ủng hộ- phản đối” (Tranh luận chia phe)
Hình thức chơi:
- Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm thảo luận, ngồi đối diện nhau.
Các nhóm cử nhóm trưởng chỉ đạo và thư kí ghi lại kết quả và đại diện trình bày.
- Bước 2: GV giới thiệu hình thức chơi, phát phiếu học tập cho từng nhóm,
yêu cầu nhóm 1 ghi tên những trò chơi dân gian; nhóm 2: ghi tên những trò chơi
hiện đại vào phiếu, sau đó trình bày đan xen, lần lượt.
Ví dụ: Nhóm 1: A, nhóm 2: B, nhóm 1: C, nhóm 2: D,… cho đến hết.
- Khi đại diện trình bày, GV (quản trò) và thành viên các nhóm theo dõi kết quả,
nhóm nào kể được nhiều trò chơi hơn và đúng thì sẽ chiến thắng.
- Bước 3: GV yêu cầu 2 nhóm thảo luận, tranh luận và phản hồi ngược
chiều để khẳng định bảo vệ về lợi ích của trò chơi nhóm mình với nhóm bạn,
dưới sự điều khiển của GV.
- Bước 4: Sau phần tranh luận ủng hộ- phản đối của 2 nhóm, GV tóm lại
các ý, so sánh ưu, nhược điểm của các trò chơi và chốt lại: Mỗi trò chơi đều phục
vụ nhu cầu vui chơi, giải trí, đem đên những ích lợi riêng. Tuy nhiên, trò chơi
hiện đại không phải ai cũng biết đến và có thể chơi, còn trò chơi dân gian rất quen
thuộc, gần gũi với con người, xuất phát từ cuộc sống của người dân lao động sáng
tạo nên. Phù hợp với mọi tầng lớp, lứa tuổi, giới tính, không ảnh hưởng đến kinh
tế,… trên cơ sở đó, dẫn dắt vào bài học.
Trò chơi vẽ tiếp sức (Bịt mắt vẽ người, vật,...)
Giúp học sinh rèn luyện trí nhớ, phán đoán, tập vẽ,...
Ví dụ: Tiết vẽ theo mẫu: Giới thiệu tỉ lệ khuôn mặt người - vẽ chân dung - lớp 8
Hình thức chơi: (3 phút)
Chia lớp thành 2 - 4 nhóm. Yêu cầu người đại diện chơi.
- Giáo viên vẽ lên bảng những hình tròn (biểu hiện khuôn mặt) tương ứng
với mỗi đội một khuôn mặt. Các thành viên của từng nhóm bị bịt mắt, xếp hàng
dọc trước hình tròn trên bảng và lần lượt từng người vẽ minh hoạ từng bộ phận
trên khuôn mặt theo chỉ định của người điều khiển. (tóc, tai, mắt, mũi, miệng)
- Thành viên nào khi bịt mắt mà vẫn nhìn thấy, gian lận sẽ phạm qui
- Hết thời gian, giáo viên cùng lớp nhận xét, nhóm nào hoàn thành trước
đẹp, chính xác trong hình của khuôn mặt sẽ giành chiến thắng.
- Giáo viên chốt ý và giới thiệu vào bài.
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
9
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
(Học sinh chơi trò chơi vẽ tiếp sức)
Trò chơi “Đoán chữ” (Tìm ô chữ bí mật.)
Trong học tập, trò chơi này cũng khiến học sinh vô cùng hứng thú. GV đưa
ra các ô chữ, (trên máy chiếu hoặc bảng phụ) yêu cầu HS giải đáp các câu hỏi gợi
ý ở hàng ngang để tìm ra ô chữ bí mật ở cột dọc (hoặc ngược lại). Chú ý các câu
hỏi và đáp án phải có nội dung liên qua đến kiến thức trong bài để khắc sâu hơn.
Chúng ta có thể áp dụng ở phần mở đầu- giới thiệu vào bài, phần nội dung hoặc
phần kết để đánh giá sự tiếp thu bài của HS.
Ví dụ: Tiết vẽ tranh: Đề tài cuộc sống quanh em- Lớp 7
Hình thức chơi:
- Chia lớp thành các nhóm theo tổ- Yêu cầu các nhóm tập trung, lắng nghe
câu hỏi, nhóm nào có câu trả lời trước, trả lời được nhiều, đúng sẽ giành chiến
thắng.
- Sau mỗi câu trả lời của HS, GV và HS nhận xét, bổ sung, GV ghi đáp án
lên bảng phụ theo từng câu trả lời. Kết thúc các câu giải đáp ô chữ hàng ngang,
yêu cầu một HS đọc chính xác ô chữ bí mật của cột dọc: “CUỘC SỐNG”. Trên
cơ sở đó GV dẫn dắt, giới thiệu vào bài học. Cụ thể:
Câu 1: (Gồm 6 chữ cái)
Đây là một hình thức lao động trí óc để tích lũy kiến thức, được xem là
nhiệm vụ cần thiết của học sinh.
(Học tập)
Câu 2: (Gồm 6 chữ cái)
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
10
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
Khi lúa chín, để đưa được hạt lúa về nhà, công việc đầu tiên ngoài đồng,
người nông dân phải làm gì?
(Gặt lúa)
Câu 3: (Gồm 8 chữ cái)
Đây là một hoạt động thiết thực để bảo vệ môt trường. Sinh thời, Bác Hồ
thường nhắc nhở mọi người nên làm trong dịp đầu xuân?
( Trồng cây)
Câu 4: (Gồm 7 chữ cái)
Những người làm công việc quét, dọn, vệ sinh đường phố, giúp không khí
trong lành, môi trường “xanh- sạch- đẹp”
(Lao công)
Câu 5: (Gồm 5 chữ cái)
Là người tốt nghiệp bậc đại học y khoa, khám và chữa bệnh cho mọi
người?
(Bác sĩ)
Câu 6: (Gồm 6 chữ cái)
Những người thi hành pháp luật, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đem lại sự
bình yên cho nhân dân?
(Công an)
Câu 7: (Gồm 7 chữ cái)
Được xem là một tế bào của xã hội, là cái nôi của tình yêu thương, là mái
ấm hạnh phúc lớn nhất, gắn liền với sự trưởng thành của chúng ta?
(Gia đình)
Câu 8: (Gồm 6 chữ cái)
Người sống ở vùng sông nước, chuyên làm nghề chài lưới, đánh bắt tôm,
cá gọi là?
(Ngư dân)
H
Ọ
C T Ậ P
G Ặ T
T
L A
B Á
L
R
O
C
U
Ô
C
S
A
N G C Â Y
Ô N G
Ĩ
C Ô N G A N
G I A Đ I N H
N G Ư D Â N
Ngoài những trò chơi trên, còn có thể vận dụng các trò chơi dân gian cùng
với rất nhiều trò chơi khác trong học tập để giới thiệu vào bài, giúp giáo viên
khắc sâu, kiểm tra kiến thức, củng cố bài học hoặc cho học sinh giải trí, tạo không
khí thoải mái, hứng thú hơn với bài học. Tùy theo nội dung của bài và mục đích,
phương pháp của giáo viên sao cho phù hợp.
2.3.2. Phương pháp trực quan, nêu vấn đề gợi mở. (So sánh, đối chiếu, nhận biết)
Có thể kết hợp hai phương pháp hoặc tách rời, tùy thuộc vào mục tiêu, yêu
cầu nội dung bài học. Chúng ta cần có mẫu, đồ vật thật để học sinh quan sát hoặc
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
11
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
tranh ảnh minh họa để gợi mở hướng dẫn học sinh vào bài. Với phương pháp này
học sinh sẽ rất hứng thú và hiểu yêu cầu của bài ngay từ đầu. Giáo viên cần vận
dụng linh hoạt, phù hợp với từng kiểu bài.
Cách 1.
Ví dụ 1. Tiết vẽ trang trí: Cách sắp xếp (bố cục) trong trang trí - lớp 6.
Để hướng học sinh chú ý vào bài học, trước khi vào bài giáo viên có thể
giới thiệu với học sinh một số đồ vật được trang trí đẹp mắt so sánh với những vật
tương tự nhưng không được trang trí. Đặt câu hỏi để học sinh so sánh nhận xét.
Sau khi học sinh nhận xét, giáo viên có thể chốt lại:
- Một bài vẽ trang trí cơ bản được sắp xếp hoạ tiết, màu sắc hài hòa, hợp lý
sẽ đẹp hơn.
- Những đồ vật khi đã được tạo dáng, nếu được trang trí sẽ tăng thêm sự
hấp dẫn, đẹp mắt.
- Khi trang trí hội trường trong các ngày lễ có chữ và hình ảnh, biểu trưng
được sắp xếp hợp lý, thuận mắt sẽ tăng thêm hiệu quả, góp phần cho sự thành
công của buổi lễ hội.
Sau phần chốt, giáo viên giới thiệu vào bài. Cụ thể: (ví dụ 2)
Ví dụ 2. Tiết vẽ trang trí: Trang trí đĩa tròn - Lớp 7
* Bước 1: Để hướng HS chú ý vào bài học, trước khi vào bài, GV có thể giới
thiệu một số hình ảnh đĩa có hình dáng, họa tiết, chất liệu khác nhau:
? Đây là những đồ vật gì trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta? (Đĩa)
? Đĩa có kiểu dáng và chất liệu như thế nào? (Gợi ý HS nhớ lại đĩa có trong gia
đình mình và đã được nhìn thấy)
+ Kiểu dáng phong phú: vuông, tròn, bầu dục, chữ nhật, elip, hoa, lá,…
+ Chất liệu: gốm, sứ (phổ biến), nhựa, thủy tinh, pha lê, mây, tre đan,…
* Bước 2: GV giới thiệu 2 đĩa tròn, 1 đĩa được trang trí, và 1 đĩa không được
trang trí, đặt câu hỏi để HS so sánh nhận xét:
? Theo em, trong 2 cái đĩa này, đĩa nào trông sinh động, bắt mắt hơn? Vì sao?
(Đĩa A trông sinh động, hấp dẫn, bắt mắt hơn, vì được trang trí)
GV chốt ý, vào bài: Đĩa là một trong những vật dụng không thể thiếu được
đối với mỗi gia đình, và nhất là trong các bữa ăn hằng ngày của chúng ta. Thông
thường trên đĩa được trang trí với những màu sắc rất đẹp mắt, nó vừa có tác dụng
làm đẹp cho đĩa, vừa làm cho bữa ăn thêm ngon miệng.
Cách 2.
Chúng ta có thể giới thiệu tranh, ảnh để học sinh nhận biết (treo, dán trên
bảng, máy chiếu,...)
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
12
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
Phương pháp này giúp học sinh xác định được mục đích yêu cầu bài học ngay từ
đầu, không bị lạc đề, sai nội dung.
Ví dụ 1: Tiết thường thức mĩ thuật: Tranh dân gian Việt Nam - lớp 6
- GV trình chiếu một đoạn clip giới thiệu tranh dân gian Việt Nam
? Đoạn clip trên trình chiếu những hình ảnh gì?
(Tranh dân gian Đông Hồ, là một trong những dòng tranh tiêu biểu của
nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam)
- GV giới thiệu (trình chiếu) 5 bức tranh dân gian khác nhau và một tranh
“Thiếu nữ bên hoa huệ” - Tô Ngọc Vân
? Phân biệt tranh nào không thuộc tranh dân gian Việt Nam? Vì sao em biết?
(Tranh 6 không thuộc tranh dân gian, vì cách thể hiện hình ảnh, chất liệu, đường
nét, màu sắc hoàn toàn khác với tranh dân gian. Tranh do hoạ sĩ Tô Ngọc Vân
sáng tác. Tranh dân gian không có tên tác giả)
- GV chốt - giới thiệu vào bài: Vậy như thế nào là tranh dân gian? Để hiểu
rõ hơn vấn đề này, bài học hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về tranh dân gian
Việt Nam.
Ví dụ 2: Tiết thường thức mĩ thuật: một số tác giả tác phẩm tiêu biểu...
- Giáo viên treo một số tranh của các họa sĩ trong bài học nói đến lên bảng.
- Yêu cầu học sinh lên dán đúng tên tác giả của từng bức tranh hoặc dán
tranh đúng tên tác giả đã ghi trên bảng. Sau đó học sinh dưới lớp nhận xét, giáo
viên củng cố, chốt ý, giới thiệu vào bài.
Ví dụ 3: Tiết vẽ theo mẫu: Kí hoạ - lớp 7
- GV trình chiếu hình ảnh hoặc dán bảng để HS so sánh sự khác nhau giữa
hai hình thức: vẽ theo mẫu và kí hoạ
? Nhìn vào hai hình (Hình 1: vẽ theo mẫu và Hình 2), em hãy chỉ ra sự
giống và khác nhau của hai hình thức vẽ này?
(Giống: Đều nhìn mẫu để vẽ về đồ vật, tĩnh vật,... thể hiện cảm xúc của mình
Khác: Hình 1 vẽ chi tiết, kỹ hơn; Hình 2 vẽ một cách khái quát, đơn giản hơn, vẽ
chủ yếu là đường nét)
? Theo em, hình thức vẽ nào cần nhiều thời gian hơn? (Hình 1: vẽ theo mẫu)
-> HS trả lời, GV kết luận: Hình 2 chính là hình thức vẽ Kí họa, trên cơ sở đó dẫn
dắt vào bài mới.
Ví dụ 4: Tiết vẽ tranh: Tranh phong cảnh - lớp 7
- GV trình chiếu hoặc treo bảng một số tranh thuộc đề tài tranh phong cảnh và
tranh đề tài sinh hoạt khác, yêu cầu HS quan sát, nhận xét, phân biệt tranh phong
cảnh và tranh đề tài khác nhau.
- Sau khi 2-3 HS nhận xét, bổ sung, đánh giá, GV củng cố, dẫn dắt, giới thiệu vào
bài mới.
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
13
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
Cách 3
Ví dụ . Trong phân môn vẽ theo mẫu.
Giáo viên có thể giới thiệu một bài vẽ theo mẫu đẹp ( tiết 1) trình chiếu trên
máy chiếu hoặc dán lên bảng. Hỏi học sinh:
? Nhận xét tranh vẽ đồ vật gì, bố cục, đường nét như thế nào?
? Bài vẽ đã hoàn thành chưa?
Trên cơ sở học sinh trả lời, giáo viên chốt ý: hình vẽ đẹp, bố cục chặt chẽ,
đường nét có đậm nhạt, tuy nhiên vẫn chưa hoàn thành. Để bài vẽ giống mẫu hơn
và có không gian, chúng ta cần phải vẽ đậm nhạt/ vẽ màu. (GV có thể treo bảng/
trình chiếu thêm bài đã vẽ đậm nhạt/ vẽ màu để HS so sánh) Sau đó giới thiệu
vào tiết 2: vẽ đậm nhạt.
(Vào bài có sử dụng hình ảnh trực quan để học sinh so sánh, nhận biết)
2.3.3. Phương pháp sử dụng bài hát, thơ, ca dao, tục ngữ (liên quan đến
nội dung bài học).
Với phương pháp này cũng gây được sự tập trung và không nhàm chán
trong phần giới thiệu vào bài, tạo cho học sinh không khí vui vẻ, hứng thú học
tập. Có rất nhiều dạng bài phù hợp như: Vẽ tranh đề tài mẹ của em, đề tài học
tập, đề tài ngày tết và mùa xuân - lớp 6; đề tài ngày nhà giáo Việt Nam - lớp 8, đề
tài Phong cảnh quê hương- lớp 9... chúng ta có thể yêu cầu HS hát 1 bài hát, đọc
bài thơ hay tổ chức các nhóm thi hát liên khúc, đọc thơ, ca dao, tục ngữ liên quan
đến nội dung bài. Cách tổ chức như sau:
+ Tìm hiểu các bài hát, thơ, ca dao- tục ngữ, truyện: (Tích hợp Âm nhạc, Văn
học vào bài)
Ví dụ: Tiết vẽ tranh: Đề tài Phong cảnh quê hương- lớp 9, cảnh đẹp đất nướclớp 7, Quê hương em- lớp 6
- GV chia lớp thành 3 nhóm, phát phiếu học tập cho từng nhóm, yêu cầu các
nhóm tham gia trò chơi “Ai nhanh hơn”, trong thời gian 2 phút, nhóm nào kể
được nhiều và đúng sẽ giành chiến thắng (cộng điểm vào bài vẽ)
? Dựa vào kiến thức Ngữ văn, Âm nhạc đã học trong chương trình và hiểu
biết của bản thân, kể được các câu ca dao/ tục ngữ/ thơ; văn bản/ truyện; bài hát/
dân ca... có nội dung nói về hình ảnh, vẻ đẹp của quê hương, đất nước.
NHÓM 1
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
NHÓM 2
NHÓM 3
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
14
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
Ca dao, thơ,…
Văn bản, truyện,…
Bài hát, dân ca,…
( Một tiết dạy đã áp dụng ở lớp 9A)
+ Lồng ghép nhạc vào slide trình chiếu: (Tích hợp Âm nhạc, kích thích thị giác
và thính giác)
Ví dụ 1: Tiết vẽ tranh: Đề tài Phong cảnh quê hương- lớp 9
- GV trình chiếu Slide các hình ảnh chụp về cảnh đẹp quê hương trên
khắp vùng miền đất nước lồng ghép nhạc bài hát “Quê hương” - Đỗ Trung
Quân, phổ nhạc: Giáp Văn Thạch
Ví dụ 2: Tiết vẽ tranh: Đề tài ngày tết và mùa xuân- lớp 6
- GV trình chiếu Slide các hình ảnh chụp về ngày tết, lễ hội mùa xuân và các
hoạt động diễn ra trên khắp vùng miền đất nước lồng ghép nhạc bài hát “Ngày
tết quê em”
- Mời HS theo dõi lên máy chiếu, quan sát, nhận xét nội dung hình ảnh, sau
khi HS nhận xét, GV củng cố, giới thiệu vào bài.
+ Thi đọc - hát liên khúc:
Có thể là cá nhân, tập thể hoặc giữa các tổ, (nhóm) với nhau
Ví dụ: Tiết vẽ tranh: Đề tài mẹ của em – lớp 6.
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
15
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
Hình thức tổ chức:
- GV chia lớp thành 2 đến 4 nhóm.
- Các nhóm thi hát liên khúc: hát 1 đoạn bài hát thể hiện tình cảm về mẹ.
- Lần lượt từng nhóm hát (nhóm 1 hát trước -> nhóm 2 -> nhóm 3 - > nhóm 4)
Luật chơi:
- Mỗi bài hát đúng được cộng 1 điểm, hát sai lời trừ 0,5.
- Các nhóm không hát lại bài của nhóm khác đã hát “hát lại bị trừ 2 điểm”.
- Có thể đọc diễn cảm thơ, ca dao, tục ngữ.
- Sau khi nhóm bạn hát (đọc) xong, nhóm tiếp theo phải hát (đọc) ngay trong thời
gian 2- 5 giây. Nếu chưa chuẩn bị được, quyền hát thuộc về nhóm khác.
- Kết thúc, nhóm nào hát (đọc) được nhiều bài và đúng, được điểm cao hơn sẽ
giành chiến thắng.
+ Thi hát tập thể:
Tạo không khí vui vẻ, phấn chấn, hướng học sinh vào bài học. Một số tiết
có thể áp dụng: Bài vẽ tranh đề tài: Mẹ của em, đề tài học tập, đề tài bộ đội, đề tài
ngày tết và mùa xuân – lớp 6; đề tài ngày nhà giáo việt nam – lớp 8;…
Ví dụ: Tiết vẽ tranh: Đề tài ngày nhà giáo Việt Nam – Lớp 8.
Hình thức tổ chức:
- GV tổ chức cho cả lớp hát 1 bài hát có nôi dung về thầy cô, trường, lớp
như: Bài hát em yêu trường em (Hoàng Vân), Ngày đầu tiên đi học (Nguyễn
Ngọc Thiện), Bụi Phấn (Vũ Hoàng – Lê Văn Lộc), Khi tóc thầy bạc (Trần Đức),
Cô và mẹ (Phạm Tuyên),…
- Quản ca cho lớp hát, vừa hát vừa vỗ tay - GV dùng một đồ vật (khăn,
bông hoa, …) cho HS truyền nhau, khi bài hát dừng lại ở ai thì người đó chịu phạt
(ai ném hoặc giữ đồ vật truyền cũng bị phạt).
2.3.4- Phương pháp lược đồ tư duy:
Tức là sơ đồ hóa các ý tưởng, nhằm trình bày 1 cách rõ ràng, sơ lược, thâu
tóm các ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá nhân, nhóm về 1
chủ đề. Khi “giới thiệu vào bài” chúng ta có thể cho học sinh trình bày trên giấy
“phiếu học tập khổ lớn” với nội dung ngắn gọn.
Cách 1:
Tùy thuộc vào nội dung của bài GV có thể hướng dẫn cho các nhóm
tự thiết kế sơ đồ tư duy như sau:
Viết tên (hoặc vẽ hình ảnh) chủ đề chính ở trung tâm, từ chủ đề trung tâm
vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết 1 khái niệm/ nội dung phản ánh
nội dung lớn của chủ đề, từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp nhánh phụ để viết tiếp những
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
16
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
nội dung triển khai. Lưu ý những nội dung trên 1 nhánh thì phải vẽ, viết màu
giống nhau. Tiếp tục như vậy ở các nhánh phụ tiếp theo.
Cách 2:
GV có thể cho học sinh hoàn thành sơ đồ tư duy mà GV đã chuẩn
bị, thiết kế sẵn, và cắt rời. Yêu cầu học sinh ghép đúng trình tự nội dung kiến
thức. (Tương tự trò chơi ghép hình)
(Các bước vẽ tranh và vẽ theo mẫu trong phần kiểm tra bài cũ, giới thiệu vào bài)
=> Trên đây là những phương pháp mà tôi từng áp dụng để giới thiệu vào
bài đã đem lại hiệu quả tương đối khả quan trong mỗi bài dạy. Phương pháp này
có cái chung và cũng có cái riêng. Mỗi chúng ta phải vận dụng làm sao cho phù
hợp với nội dung, mục đích yêu cầu của bài và từng đối tượng học sinh.
Tóm lại: Đổi mới phương pháp dạy học là vô cùng quan trọng và việc áp
dụng phương pháp vào bài phù hợp với từng dạng bài học trong từng phân môn
rất cần thiết, nó không những giúp cho chúng ta nâng cao hiệu quả giờ dạy, lôi
cuốn học sinh vào bài học mà còn giúp các em thêm yêu thích, chủ động, tích cực
học tập hơn.
Một giờ dạy dù chuẩn bị công phu tới đâu nhưng nếu không có nghệ thuật
dẫn dắt học sinh vào bài học, mà chỉ giới thiệu sơ sài hoặc trực tiếp ghi đầu bài
lên bảng và chuyển sang các hoạt động trong nội dung của bài luôn, lâu dần sẽ
dẫn đến sự nhàm chán, tẻ nhạt và sẽ không gây được sự hứng thú cho học sinh.
Vì vậy, với mỗi bài dạy chúng ta cần tìm ra được phương pháp vào bài phù
hợp nhất, tạo cho các em không khí thoải mái, không bị gò ép, làm phấn chấn tinh
thần học tập, khơi nguồn cảm hứng của các em để hứng thú với bài. Điều đó tuy
đơn giản nhưng góp phần không nhỏ vào sự thành công trong mỗi bài học cũng
như hiệu quả giáo dục thẩm mĩ cho học sinh.
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm :
* Kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài:
Sau hơn một năm nghiên cứu và thực hiện, áp dụng phương pháp vào bài
tạo hứng thú cho học sinh ở trường Trung học cơ sở, qua kỳ thi khảo sát cuối năm
2017 - 2018 tôi đã thu được kết quả chất lượng học sinh ở các khối như sau:
KHỐI SĨ SỐ
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
CHƯA ÁP DỤNG ĐỀ TÀI
Loại Đ
Loại CĐ
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
17
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
6
7
8
9
80
63
77
80
SL
78
63
77
79
%
97,5
100
100
98,8
SL
2
0
0
1
%
2,5
0
0
1,2
So sánh kết quả khảo sát đầu năm và cuối năm học, cho thấy học sinh tiến
bộ tăng lên rõ rệt. Thể hiện rất rõ là tỉ lệ học sinh loại chưa đạt ở cuối năm đã
giảm đáng kể. Ví dụ: Khối 6 từ 12,5% giảm xuống còn 2,5%; khối 7 từ 9,5%
giảm còn 0%. Điều đáng mừng là trong số học sinh đó đã có nhiều em vượt lên
để trở thành học sinh loại đạt với mức độ suất sắc . Đặc biệt hơn nữa trong các
tiết học Mĩ thuật các em đều rất nghiêm túc, chủ động tiếp thu bài, học tập rất sôi
nổi và hứng thú, giảm hẳn tình trạng ồn ào, mất trật tự, làm việc riêng trong giờ
học.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Qua tìm hiểu việc giảng dạy môn Mĩ thuật ở nhiều trường tiểu học, THCS
và kinh nghiệm giảng dạy của bản thân trong quá trình công tác, tôi nghiên cứu
đề tài này nhằm bồi dưỡng vốn kiến thức, kinh nghiệm cho việc giảng dạy của
mình, đồng thời tôi đã áp dụng trong các giờ học ở trường Trung học cơ sở nơi tôi
đang công tác (năm học 2017 – 2018) và thấy có những hiệu quả rõ rệt.
3.2. Đề xuất, kiến nghị:
Mục đích của nền giáo dục là tạo ra những con người phát triển đầy đủ,
toàn diện. Giáo dục về nghệ thuật bao gồm nhiều môn học, trong đó môn Mĩ
thuật có một vị trí quan trọng, vì thế mỗi nhà giáo hãy phát huy, tìm tòi, sáng tạo
trong dạy học, đặc biệt là tìm ra những phương pháp tối ưu để phát triển những
khả năng tiềm ẩn trong con em chúng ta về hội họa, bởi mục đích cuối cùng của
chúng ta là tạo ra những thế hệ, những con người toàn diện, có cái nhìn đẹp, biết
thưởng thức, giữ gìn, bảo tồn và phát huy cái đẹp, quan trọng hơn cả là những
người biết sáng tạo cái đẹp. Công việc này cũng đòi hỏi việc dạy đúng phương
pháp, đúng nội dung và hơn thế nữa đó là phải thật sự tâm huyết thì mới mang lại
kết quả cao.
Từ những vấn đề trên tôi rút ra một số kiến nghị sau:
- Năng khiếu của học sinh được bộc lộ rất sớm vì vậy nên chú ý giảng dạy cho
học sinh từ khi còn nhỏ. Để thực hiện được việc này thì các cấp, các ban ngành
cần có sự quan tâm hơn nữa về môn học.
- Cung cấp thêm nhiều tài liệu liên quan, những bài viết về phân môn Thường
thức mĩ thuật, phiên bản các tranh mẫu của họa sĩ Việt Nam và thế giới... để đáp
ứng cho các giáo viên công tác ở vùng nông thôn, một số trường học miền núi ít
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
18
------ Nghệ thuật vào bài tạo hứng thú cho học sinh ------
có điều kiện được tiếp cận với công nghệ thông tin hiện đại, khó khăn trong việc
sưu tầm tài liệu. Ngoài ra, nhiều tranh minh hoạ của học sinh trong sách giáo
khoa và một số tranh phiên bản cho đồ dùng dạy học Mĩ thuật hình chưa đẹp,
màu sắc chưa thống nhất, không đúng với bản gốc.
- Mỗi trường nên có phòng chức năng riêng phù hợp với đặc thù bộ môn.
- Cần đưa vào chương trình học những tiết học ngoại khóa để các em được tiếp
xúc trực tiếp hơn với thực tế.
Tóm lại: Có rất nhiều hình thức, phương pháp để thầy/ cô lựa chọn, sao
cho đạt được mục tiêu, kết quả dạy học một cách tốt nhất. Trên đây là những hình
thức, phương pháp, biện pháp tôi đã tích lũy trong quá trình giảng dạy, giúp học
sinh thêm yêu thích học Mĩ thuật và đạt kết quả cao hơn. Điều đó luôn là niềm
vui, động viên, cổ vũ cho tôi rất nhiều trong công việc, tạo cho tôi niềm tin để tiếp
tục phấn đấu cho sự nghiệp giáo dục của mình.
Chia sẻ này của tôi còn rất nhiều thiếu sót và khuyết điểm, chân thành kính
mong quý thầy cô, đồng nghiệp trong chuyên môn và các bạn đọc góp ý để hoàn
thiện thêm sáng kiến kinh nghiệm này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
Thanh Hoá, ngày 16 tháng 02 năm 2019.
Người viết
Ngô Thị Hải
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Một sốvấn đề đổi mới phương pháp dạy học Mĩ thuật THCS (NXB Giáo dục)
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Mĩ thuật THCS
- Học Mĩ thuật theo định hướng phát triển năng lực lớp 6,7,8,9 (NXB Giáo dục Việt Nam)
- 501 câu đố dành cho HS tiểu học (NXB Giáo dục)
- Một số trò chơi Đoàn - Đội (NXB Giáo dục)
- Nguồn tài liệu trên mạng internet
DANH MỤC ĐỀ TÀI CÙNG TÁC GIẢ
- Thủ thuật vào bài môn Mĩ thuật (Loại A cấp huyện, B cấp tỉnh)
- Dạy học ngoài trời nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy đối với môn Mĩ thuật
(Loại B cấp huyện, C cấp tỉnh)
----------- Giáo viên Ngô Thị Hải -
Trường THCS Xuân Thắng- Thọ Xuân -----------
19