Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Đánh giá thử nghiệm lâm sàng của viên thuốc “thấp khớp nam dược” để điều trị bệnh thoái hóa khớp gối có kết hợp siêu âm trị liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 80 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
THK là một bệnh khớp rất thường gặp ở mọi quốc gia trên thế giới. Có
khoảng 18% nữ và 9,5% nam giới trên toàn cầu mắc bệnh THK nói chung,
trong đó THK gối chiếm tới 15% dân số [2].
Ở Mỹ hàng năm có 21 triệu người mắc bệnh THK, với 4 triệu người phải
nằm viện, khoảng 100.000 bệnh nhân không thể đi lại được do THK gối nặng.
THK gối là nguyên nhân gây tàn tật cho người có tuổi đứng thứ hai sau bệnh
tim mạch [41].
Ở Việt Nam, THK đứng hàng thứ ba (4,66%) trong các bệnh có tổn
thương khớp, trong đó THK gối chiếm 56,5% tổng số các bệnh khớp do thoái
hóa cần điều trị nội trú. Tỷ lệ thoái hóa khớp của bệnh viện Bạch Mai từ
1991 – 2000 là 4,66% số bệnh nhân điều trị nội trú tại khoa cơ xương khớp
[26]. Khớp gối bị thoái hóa không những làm ảnh hưởng tới chất lượng cuộc
sống mà còn gây tổn hại kinh tế của người bệnh. Tại các nước Châu Âu chi
phí trực tiếp cho điều trị THK khoảng 4.000 USD/bệnh nhân/năm [ 59]. Ở Việt
Nam mỗi đợt điều trị nội khoa THK khoảng 2 – 4 triệu VNĐ, chưa kể đến chi
phí cho các dịch vụ khác liên quan đến điều trị [35].
Thoái hóa khớp là một bệnh lý mạn tính bao gồm tổn thương sụn khớp
là chủ yếu, kèm theo tổn thương xương dưới sụn, dây chằng, các cơ cạnh
khớp và màng hoạt dịch. Đây là hậu quả của quá trình cơ học và sinh học làm
mất cân bằng giữa tổng hợp và hủy hoại của sụn và xương dưới sụn.
Các phương pháp điều trị hiện nay chủ yếu là điều trị triệu chứng, giảm
đau và cải thiện chức năng vận động của khớp chứ chưa thực sự tác dụng vào
nguyên nhân chính của bệnh. Hơn nữa việc dùng thuốc kéo dài đặc biệt các
thuốc chống viêm, giảm đau dẫn đến nhiều biến chứng như viêm loét dạ dày

`



2

hành tá tràng xuất huyết tiêu hóa, tăng huyết áp, tổn thương gan thận... Trong
đó có biến chứng nặng có thể gây tử vong.
Việc kết hợp giữa vật lý trị liệu và thuốc y học cổ truyền để điều trị thoái
hóa khớp đang là một trào lưu đang được áp dụng rất nhiều trong thực tế, nó
vừa đem lại hiệu quả tương đối tốt cho người bệnh vừa tránh được các tác
dụng không mong muốn của các thuốc tân dược gây ra, ngoài có tác dụng
điều trị triệu chứng thì còn có tác dụng vào nguyên nhân chính của bệnh.
Theo y học cổ truyền thoái hóa khớp gối thuộc phạm vi chứng tý.
Nguyên nhân do phong, hàn, thấp xâm phạm cùng với chính khí suy giảm mà
gây nên bệnh. Việc điều trị nguyên nhân thường được áp dụng các bài cổ
phương để điều trị.
“Thấp khớp nam dược” là một chế phẩm được bào chế hiện đại dựa trên
bài thuốc cổ phương “Độc hoạt tang ký sinh” đã được y dược cổ truyền Việt
Nam cấp phép hoạt động nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá
thử nghiệm lâm sàng của viên thuốc “thấp khớp nam dược”. Đồng thời với
mục đích nâng cao hiệu quả điều trị chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài
“Đánh giá thử nghiệm lâm sàng của viên thuốc “thấp khớp nam dược” để
điều trị bệnh thoái hóa khớp gối có kết hợp siêu âm trị liệu” với các mục
tiêu sau:
1. Đánh giá hiệu quả điều trị của viên thuốc “thấp khớp nam dược” kết
hợp với siêu âm trị liệu.
2. Đánh giá tác dụng không mong muốn của viên thuốc thấp khớp nam
dược.

`


3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu khớp gối
Khớp gối là một khớp phức tạp gồm các thành phần: Đầu dưới xương
đùi, đầu trên xương chày, xương bánh chè, sụn khớp, hệ thống dây chằng và
bao khớp [17]. Ngoài ra còn có hệ thống mạch máu, thần kinh chi phối, nuôi
dưỡng, vận động. Khớp gối có bao hoạt dịch rất rộng, khớp lại ở nông nên dễ
bị va chạm và tổn thương.
Khớp gối gồm hai khớp:
- Khớp đùi - chày (khớp lồi cầu).
- Khớp đùi bánh - chè (khớp phẳng).

Hình 1.1: Giải phẫu khớp gối [17]
1.1.1 Màng hoạt dịch
Màng hoạt dịch bao phủ toàn bộ mặt trong của khớp gối. Đó là một
màng mỏng giàu mạch máu và mạch bạch huyết, mặt hướng vào khoang khớp
nhẵn bóng có lớp tế bào biểu mô bao phủ. Các tế bào này có nhiệm vụ tiết ra
dịch khớp. Dịch khớp có tác dụng bôi trơn ổ khớp, giảm ma sát khi cử động
khớp, cung cấp dinh dưỡng cho sụn khớp [76].

`


4

1.1.2. Cấu tạo và thành phần chính của sụn khớp gối
1.1.2.1. Cấu tạo sụn khớp
Sụn khớp bình thường dày khoảng 4 - 6 mm, có tính chịu lực và đàn
hồi cao. Sụn khớp bao bọc các đầu xương, đáp ứng chức năng sinh lý là bảo

vệ đầu xưong và dàn đều sức chịu lực lên toàn bộ bề mặt khớp. Sụn khớp
được dinh dưỡng từ tổ chức dưới sụn thấm qua các proteoglycan và từ các
mạch máu của màng hoạt dịch thấm qua dịch khớp [17].
1.1.2.2 Thành phần chính của sụn khớp
Thành phần chính của sụn khớp bao gồm chất căn bản và các tế bào
sụn. Tế bào sụn có chức năng tổng hợp chất căn bản.
- Tế bào sụn là một trong các thành phần cơ bản tạo nên sụn, chứa
nhiều proteoglycan, fibrin, sợi collagen. Các tế bào sụn sống trong môi trường
kỵ khí. Tế bào sụn ở người trưởng thành nếu bị phá hủy chúng sẽ không thay
thế [63].
- Chất căn bản của sụn có 3 thành phần trong đó nước chiếm 80%, các
sợi collagen và proteoglycan chiếm 5 - 10% [76].
Sợi collagen: Bản chất là các phân tử acid amin. Kiểm soát khả năng
chịu đựng sức co giãn của sụn. Sợi collagen bị phân hủy bởi men collagenase.
Hoạt động của collagenase chỉ xảy ra trong sụn khớp bị thoái hóa.
Proteoglycan (PG): Là chất có khả năng chịu sức ép lên sụn và giữ lại
một lượng lớn dung môi. Chúng được tạo thành từ một protein với các dải
bên glycosaminoglycan rất giàu tế bào sụn và keratin sunfat. Càng ở dưới đáy
sụn, lượng PG càng tăng.
1.2. Chức năng khớp gối
Khi đi bình thường khớp gối chịu sức nặng gấp 3- 4 lần trọng lượng cơ
thể, khi gập gối mạnh khớp gối chịu lực gấp 9 - 10 lần trọng lượng cơ thể.
Chức năng chính của khớp gối là chịu sức nặng của cơ thể ở tư thế thế thẳng

`


5

và quy định sự chuyển động của cẳng chân. Lực đè nén của sức nặng cơ thể

và sức mạnh của sự chuyển động đòi hỏi khớp gối có sức chịu đựng đặc biệt.
Động tác của khớp gối rất linh hoạt, trong đó động tác chủ yếu là gấp và duỗi,
khớp gối gấp 1350 - 1400, duỗi 00 [2].
1.3. Bệnh thoái hóa khớp theo Y học hiện đại (YHHĐ)
1.3.1. Định nghĩa
Thoái hóa khớp do rất nhiều yếu tố gây nên như di truyền, chuyển hóa,
hóa sinh, sinh cơ học, cuối cùng là hiện tượng viêm thứ phát màng hoạt dịch.
Quá trình thoái hóa khớp bao gồm đồng thời hiện tượng phá hủy và sửa chữa
sụn, xương và màng hoạt dịch [2], [23].
Trước kia, thoái hóa khớp được coi là bệnh lý của riêng sụn khớp, song
ngày nay, thoái hóa khớp là tổn thương của toàn bộ khớp, bao gồm tổn thương
sụn là chủ yếu, kèm theo tổn thương xương dưới sụn, dây chằng, các cơ cạnh
khớp,và màng hoạt dịch [22], [65].

Hình 1.2: Hình ảnh khớp gối bình thường và bị thoái hóa [15]
“Bệnh có tính chất mạn tính gây đau đớn và biến dạng khớp nhưng
không do viêm đặc hiệu, thường tổn thương ở những khớp ngoại biên đặc biệt
những khớp phải chịu sức nặng của cơ thể như khớp gối, háng” [2].

`


6

1.3.2. Phân loại và nguyên nhân của thoái hóa khớp gối
Năm 1991, Altman và cộng sự đề nghị xếp loại THK thành hai loại.
THK nguyên phát và THK thứ phát. Cách phân loại này đến nay vẫn được
nhiều tác giả ứng dụng [42].
THK gối nguyên phát: Sự lão hóa là nguyên nhân chính, bệnh thường
xuất hiện muộn ở người trên 60 tuổi, nhiều vị trí, tiến triển chậm, tăng dần

theo tuổi. Nguyên nhân lão hóa theo tuổi được giải thích do các tế bào sụn
thời gian lâu sẽ già, khả năng tổng hợp các chất tạo nên sợi collagen và
mucopolysacharid sẽ giảm sút và rối loạn, chất lượng sụn kém dần đặc biệt là
tính đàn hồi và chịu lực, hơn nữa các tế bào sụn của người trưởng thành
không có khả năng sinh sản và tái tạo.
THK gối thứ phát: Phần lớn do các nguyên nhân cơ giới, gặp ở mọi lứa
tuổi (thường là dưới 40 tuổi), khu trú ở một vài vị trí. Có thể gặp:
- Sau chấn thương: Gãy xương gây lệch trục, can lệch, tổn thương sụn
chêm sau chấn thương hoặc sau cắt sụn chêm, các vi chấn thương liên tiếp do
nghề nghiệp. Các tổn thương này dẫn đến rối loạn phân bố lực làm tổn thương
sụn khớp sớm.
- Sau các bệnh lý xương sụn: Hoại tử xương, hoại tử sụn do viêm, Viêm
khớp dạng thấp, bệnh Goute…
- Các bệnh nội tiết (Đái tháo đường, to viễn cực…), rối loạn đông máu
(bệnh Hemophilie) cũng là nguyên nhân gây THK gối thứ phát.
1.3.3. Cơ chế bệnh sinh và các yếu tố liên quan đến quá trình phát triển
thoái hóa khớp gối
1.3.3.1. Cơ chế bệnh sinh
Cho đến nay cơ chế bệnh sinh của thoái hóa khớp vẫn còn những vấn đề
đang bàn cãi. Tổn thương cơ bản trong THK xảy ra ở sụn khớp. Hiện nay, có
nhiều nghiên cứu cho rằng có hai cơ chế chính làm khởi phát quá trình phát

`


7

triển THK. Ở hầu hết các bệnh nhân, cơ chế đầu tiên là do tác động về cơ
giới, có thể là một chấn thương lớn hoặc là vi chấn thương lặp đi lặp lại dẫn
đến các tế bào sụn giải phóng ra các enzyme phá hủy và các đáp ứng sửa chữa

tương ứng rất phức tạp, cuối cùng dẫn đến phá hủy sụn. Cơ chế thứ hai là các
tế bào sụn cứng lại do tăng áp lực, giải phóng các enzyme tiêu protein, hủy
hoại dần các chất cơ bản là nguyên nhân dẫn đến THK.
Những thay đổi của sụn khớp và phần xương dưới sụn trong THK: Trong
bệnh lý thoái hóa khớp, sụn khớp là tổ chức chính bị tổn thương. Sụn khớp
khi bị thoái hóa sẽ chuyển sang màu vàng nhạt, mất tính đàn hồi, mỏng, khô
và nứt nẻ. Những thay đổi này tiến triển dần đến giai đoạn cuối là những vết
loét, mất dần tổ chức sụn, làm trơ ra các đầu xương dưới sụn. Phần rìa xương
và sụn có tân taọ xương (gai xương).
Cơ chế gải thích quá trình viêm trong THK: Mặc dù là quá trình thoái
hóa, song trong THK vẫn có hiện tượng viêm diễn biến thành từng đợt, biểu
hiện bằng đau và giảm chức năng vận động của khớp tổn thương, tăng số
lượng tế bào trong dịch khớp kèm theo viêm màng hoạt dịch kín đáo về tổ
chức học. Nguyên nhân có thể do phản ứng của màng hoạt dịch với các sản
phẩm thoái hóa sụn, các mảnh sụn, hoặc xương bị long ra.
Cơ chế gây đau khớp trong THK gối: Trong bệnh THK gối, đau là
nguyên nhân đầu tiên khiến bệnh nhân đi khám. Do sụn khớp không có hệ
thần kinh nên đau có thể do các cơ chế sau:
- Viêm màng hoạt dịch, các cơ bị co kéo.
- Xương dưới sụn có tổn thương rạn nứt nhỏ gây kích thích phản ứng đau.
- Gai xương gây căng các đầu mút thần kinh ở màng xương [22].
1.3.3.2. Các yếu tố liên quan đến quá trình phát triển thoái hóa khớp
Không có nguyên nhân đơn độc nào gây THK. THK là một quá trình
của sự phá hủy sụn khớp, sự thay đổi collagen, proteoglycan, đầu xương,
màng hoạt dịch. Có nhiều yếu tố liên quan dẫn đến THK:

`


8


Tuổi: Tuổi là yếu tố quan trọng nhất trong THK, tần số THK tăng dần
theo tuổi. Theo Brandt KD trên 80% những người trên 55 tuổi có dấu hiệu
THK trên XQ, trong đó có 10 – 20% có sự hạn chế vận động do THK [47].
Cân nặng: Sự tăng khối lượng cơ thể có liên quan rõ ràng với THK, béo
phì làm tăng tỷ lệ THK lên 1,9 lần ở nam và 3,2 lần ở nữ, điều này gợi ý rằng
béo phì đóng vai trò quan trọng trong việc làm nặng thêm THK gối. Theo
Felson khi cân nặng cơ thể giảm thì tỷ lệ THK gối giảm từ 25- 30% và khớp
hang 25% hoặc hơn nữa [57].
Giới: Dưới 55 tuổi tỷ lệ THK ở nam bằng nữ, sau 55 tuổi tỷ lệ THK ở
nữ nhiều hơn nam. Điều này thể hiện sự liên quan giữa estrogen với THK. Sự
giảm hormone sinh dục nữ làm giảm tế bào sụn. Sau mãn kinh lượng estrogen
suy giảm là nguy cơ cao gây THK.
Yếu tố chấn thương và cơ học: Những chấn thương mạnh làm rạn nứt
bề mặt sụn có thể là nguồn gốc gây THK. Theo Felson khi ngăn chặn chấn
thương khớp gối có thể giảm tỷ lệ THK ở nam là 25%, ở nữ là 15% [57].
Ngoài ra còn có các yếu tố khác như vấn đề di truyền, các Cytokin, yếu
tố nghề nghiệp…

`


9

SƠ ĐỒ 1.1. TÓM TẮT CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA THOÀI
HÓA KHỚP GỐI (Howell 1988) [63]
Yếu tố cơ học

Bất thường sụn khớp
- Lão hóa


- Chấn thương

- Viêm

- Béo phì

-

- Khớp không ổn đinh

Rối loạn chuyển hóa

Sụn khớp

Bất thường sụn khớp

Chất cơ bản
- Thoái biến collagen

- Tế bào sụn tổn thương

- Xơ gãy PG

- Tăng các enzyme thủy phân
protein
-

Sụn khớp bị rạn vỡ


- Hẹp khe khớp
- Đầu xương dưới sụn mất
bảo vệ
Tái tạo lại của xương

`


10

1.3.4. Triệu chứng của thoái hóa khớp gối
1.3.4.1. Triệu chứng lâm sàng của thoái hóa khớp gối
Bệnh nhân THK gối có một số triệu chứng chính sau:
- Đau: Đây là triệu chứng chủ đạo khiến bệnh nhân phải đi khám, đau
tại vị trí khớp, ít lan xa. Đau kiểu cơ học tăng khi vận động (đi lại, lên xuống
dốc, ngồi xổm…), đau giảm khi nghỉ ngơi, đau với tính chất âm ỉ, có thể đau
nhiều về chiều (sau một ngày lao động). Đau diễn tiến thành từng đợt ngắn
tùy trường hợp, hết đợt có thể đau, sau đó tái phát đợt khác.
- Dấu hiệu “phá gỉ khớp”: Là dấu hiệu cứng khớp buổi sáng kéo dài từ
15 đến 30 phút.
- Hạn chế vận động (khó khăn với một vài động tác), đi lại khó khăn,
có thể hạn chế vận động nhiều phải chống gậy nạng hoặc không đi lại được.
- Tiếng động bất thường tại khớp xuất hiện khi vận động: Nghe thấy
tiếng “lắc lắc”, “lục cục” tại khớp khi đi lại.
- Dấu hiệu bào gỗ: Di động bánh chè trên ròng rọc như kiểu bào gỗ
thấy tiếng lạo xạo, gây đau tại khớp gối.
- Một số bệnh nhân xuất hiện khớp sưng to do các gai xương và phì đại
mỡ quanh khớp, hoặc do có tràn dịch khớp gối (dấu hiệu bập bềnh xương
bánh chè). Một số trường hợp có thoát vị bao hoạt dịch ở vùng khoeo (kén
Baker) [2], [22].

1.3.4.2. Các phương pháp thăm dò trong chẩn đoán THK gối
Chụp XQ khớp gối thường quy: Được sử dụng để đánh giá mức độ tổn
thương và THK gối trong nhiều năm nay. Có 3 dấu hiệu cơ bản [22].
- Hẹp khe khớp không đồng đều, hẹp không hoàn toàn, ít khi dính khớp
hoàn toàn trừ THK giai đoạn cuối.
- Đặc xương ở phần đầu xương dưới sụn, phần xương đặc có thể thấy
một số hốc nhỏ sáng hơn.
- Gai xương tân tạo ở phần tiếp giáp xương và sụn, gai thô, đậm đặc.

`


11

Phân loại giai đoạn THK trên XQ theo Kellgren và Lawrence (1987) [66]
- Giai đoạn 1: Gai xương nhỏ hoặc nghi ngờ có gai xương.
- Giai đoạn 2: Mọc gai xương rõ.
- Giai đoạn 3: Hẹp khe khớp vừa.
- Giai đoạn 4: Hẹp khe khớp nhiều kèm đặc xương dưới sụn.
Nội soi khớp gối:
Là phương pháp chẩn đoán tốt nhất vì thấy được trực tiếp vị trí và
những tổn thương thoái hóa của sụn khớp ở các mức độ khác nhâu. Nội soi
còn có thể kết hợp với sinh thiết màng hoạt dịch làm xét nghiện tế bào, nhằm
chẩn đoán phân biệt với bệnh khác. Ngoài ra nội soi là một phương pháp điều
trị THK gối [11].
Các xét nghiệm cơ bản khác nói chung bình thường, có giá trị chẩn
đoán loại trừ.
1.3.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán thoái hóa khớp gối
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1991 (American College of
Rheumatology) [42].

1. Đau khớp gối.
2. Gai xương ở rìa khớp trên Xquang.
3. Dịch khớp là dịch thoái hóa.
4. Tuổi ≥ 40.
5. Cứng khớp buổi sáng dưới 30 phút.
6. Lạo xạo ở khớp khi cử động.
Chẩn đoán xác định khi có yếu tố 1, 2 hoặc 1, 3, 5, 6 hoặc 1, 4, 5, 6.
Tiêu chuẩn này có độ nhạy > 94%. Độ đặc hiệu > 88% và là tiêu chuẩn
phù hợp nhất với điều kiện Việt Nam [1].

`


12

1.3.6. Các phương pháp điều trị thoái hóa khớp gối
Mục đích của điều trị THK gối là kiểm soát đau, phục hồi chức năng, thay
đổi quá trình bệnh. Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị THK gối [2], [22].
1.3.6.1. Điều trị không dùng thuốc
- Tư vấn giáo dục kiến thức cho bệnh nhân về THK gối.
- Điều trị vật lý trị liệu: Chiếu đèn hồng ngoại, siêu âm…
- Cung cấp các thiết bị trợ giúp như nẹp chỉnh hình, đai cố định khớp…
1.3.6.2. Điều trị thuốc
Thuốc giảm đau thông thường: Các thuốc như Paracetamol, nhóm thuốc
này được EULAR và ACR khuyến cáo là thuốc được lựa chọn hàng đầu trong
điều trị THK.
Thuốc chống viêm không steroid.
Các thuốc điều trị tại chỗ: Corticoid: Tiêm steroid nội khớp…
Các thuốc làm chậm tiến triển bệnh hoặc thay đổi quá trình bệnh: Một số
chế phẩm như: Glucosamin sulfat, Diacerein, Piascledin…

1.3.6.3. Điều trị ngoại khoa
Chỉ định điều trị ngoại khoa khi bệnh nhân điều trị nội khoa thất bại.
1.4 . Bệnh thoái hóa khớp gối theo quan niệm của y học
cổ truyền (YHCT)
YHCT không có bệnh danh của THK gối, tuy nhiên hầu hết các bệnh
nhân đến khám và điều trị THK gối thường có các triệu chứng là đau khớp và
hạn chế vận động nên THK gối được quy vào chứng tý của YHCT [5], [39].
1.4.1. Đại cương về chứng tý của YHCT
Chứng tý theo YHCT gồm có 2 thể: Thể phong hàn thấp tý và thể
phong thấp nhiệt tý [5], [39].
Dù là thể phong hàn thấp hay phong thấp nhiệt, nếu bệnh diễn biến kéo
dài cũng ảnh hưởng đến công năng hoạt động của tạng can, thận, tỳ gây biến

`


13

dạng, teo cơ, dính khớp. Vương Chí Lan nói: “Những người âm hư, nhiệt tà
uất lại gây chứng nhiệt thắng. Dương hư sinh chứng hàn thắng. Âm dương
lưỡng hư lâu ngày thành hàn nhiệt thác tạp. Ba loại này không điều trị kịp thời
sẽ thương tổn đến tạng phủ. Đầu tiên tổn thương tỳ, can, thận, dần dần làm
cho cơ nhục teo, cân co quắp, gân cốt co cứng, tái diễn nhiều lần dẫn đến
xương khớp biến dạng”.
Triệu chứng và phương pháp điều trị chứng tý
1.4.1.1. Thể phong hàn thấp tý:
Triệu chứng chung: Đau mỏi các khớp, lạnh, mưa, ẩm thấp đau tăng hoặc
tái phát, bệnh mạn tính. Do thể chất mỗi người khác nhau nên sự cảm thụ tà khí
gây bệnh cũng khác nhau, nên trên lâm sàng phân thành 3 thể [5], [39].
- Nếu do phong là chính gọi là phong tý (hành tý):

Triệu chứng: Các khớp đau di chuyển, co duỗi khó, sợ gió, rêu lưỡi
trắng mỏng, mạch phù.
Pháp điều trị: Khu phong là chính, tán hàn, trừ thấp, hoạt huyết, hành khí.
Bài thuốc: Phòng phong thang gia giảm: Phòng phong 12g, Khương
hoạt 12g, Tần giao 8g, Quế chi 8g, Phục linh 8g, Bạch thược 12g, Đương quy
12g, Cam thảo 6g, Ma hoàng 8g.
Châm cứu: Châm các huyệt tại các khớp sưng đau và vùng lân cận
khớp đau kết hợp với châm Hợp cốc, Phong môn, Phong trì, Huyết hải,
Túc tam lý.
- Nếu do hàn là chính gọi là hàn tý (thống tý):
Triệu chứng: Đau dữ dội một khớp, trời lạnh đau tăng, chườm nóng
đỡ đau, tay chân lạnh, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng mỏng,mạch huyền khẩn hoặc
nhu hoãn.
Pháp điều trị: Tán hàn là chính, khu phong, trừ thấp, hành khí hoạt huyết.

`


14

Bài thuốc: Ô đầu thang gia giảm : Phụ tử chế 8g, Ma hoàng 8g, Bạch
thược 8g, Hoàng kỳ 8g, Phục linh 8g, Cam thảo 6g.
Châm cứu: Châm tả ôn châm các huyệt tại chỗ và lân cận vùng khớp
đau kết hợp với Quan nguyên, Khí hải, Túc tam lý.
- Nếu do thấp là chính gọi là thấp tý (trước tý):
Triệu chứng: Các khớp nhức mỏi, đau một chỗ, tê bì, đau các cơ, bệnh
lâu ngày, vận động khó, miệng nhạt, rêu lưỡi trắng dính, mạch nhu hoãn,
người nặng nề, mệt mỏi.
Pháp điều trị: Trừ thấp là chính, tán hàn khu phong, hành khí hoạt huyết.
Bài thuốc: Ý dĩ nhân thang gia giảm: Ý dĩ 16g, Thương truật 8g, Ma

hoàng 8g, Khương hoạt 8g, Độc hoạt 8g, Phòng phong 8g, Ô dược 8g, Hoàng
kỳ 12g, Cam thảo 6g, Đẳng sâm 12g, Xuyên khung 8g, Ngưu tất 8g.
Châm cứu: Châm A thị huyệt tại vùng khớp sưng đau và vùng lân cận
nơi đau kết hợp với châm Túc tam lý, Tam âm giao, Tỳ du, Thái khê.
1.4.1.2. Thể phong thấp nhiệt tý:
Triệu chứng: Các khớp đau, chỗ đau có cảm giác nóng rát, sưng, đỏ. Co
duỗi các khớp khó khăn, khớp đau chườm lạnh có cảm giác dễ chịu. Các khớp
sưng đau làm cho vận động khó khăn. Toàn thân thường phát sốt, miệng khô,
tâm phiền, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch hoạt sác [5], [39].
Pháp điều trị: Thanh nhiệt trừ thấp, sơ phong thông lạc.
Bài thuốc:
- Nếu các khớp đang sưng, đau, nóng đỏ, sốt cao dùng bài “Bạch hổ quế
chi thang”: Thạch cao 40g, Tri mẫu 12g, Nghạnh mễ 40g, Quế chi 8g, Cam
thảo 6g.
- Nếu các khớp đã bớt sưng, đau, nóng đỏ, sốt nhẹ thì dùng bài “Quế chi
thược dược tri mẫu thang”: Quế chi 12g, Bạch truật 12g, Hắc phụ tử 6g, Bạch

`


15

thược 12g, Tri mẫu 12g, Chích cam thảo 6g, Ma hoàng 8g, Phòng phong 12g,
Sinh khương 5 lá.
Châm cứu: Châm các a thị huyệt kết hợp Hợp cốc, Phong môn…
1.4.2. Bệnh thoái hóa khớp gối theo YHCT
Theo YHCT THK gối được quy vào nhóm bệnh danh chứng tý và do
can, thận hư kết hợp với phong, hàn, thấp gây ra [5], [39].
Nguyên nhân gây bệnh: Do vệ khí không đầy đủ, các tà khí như phong,
hàn, thấp xâm phạm vào cân, cơ, khớp xương, kinh lạc làm cho sự vận hành của

khí huyết tắc lại gây các chứng sưng, nóng, đỏ, đau các khớp. Do người già can
thận bị hư tổn hoặc bệnh lâu ngày làm khí huyết giảm sút, không nuôi dưỡng
được nên cân, xương khớp bị thoái hóa, biến dạng, cơ bị teo và khớp bị dính.
Thể bệnh: Phong hàn thấp tý.
Triệu chứng: Triệu chứng thường thiên về hàn tý: Đau ở một khớp hoặc
2 khớp, đau tăng khi vận động đi lại, trời lạnh đau nhiều, chườm nóng đỡ đau,
tay chân lạnh, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng. Kèm theo triệu chứng của can thận hư
như: Đau lưng, ù tai, ngủ kém, nước tiểu trong, tiểu nhiều lần, mạch trầm tế.
Phương pháp điều trị: Các phương pháp điều trị đều nhằm lưu thông khí
huyết ở gân xương đưa tà khí ra ngoài, bổ khí huyết, bổ can thận để chống
bệnh tái phát và để chống lại các hiện tượng thoái hóa khớp, biến dạng khớp,
teo cơ, cứng khớp nhằm hồi phục chức năng bình thường của khớp.
Pháp chữa: Khu phong trừ thấp tán hàn, bổ can thận khí huyết.
Bài thuốc: Độc hoạt tang ký sinh thang (Thiên kim phương) [39].
Châm cứu: Châm các huyệt tại chỗ, bổ can thận: Tam âm giao, Thái
khê, Túc tam lý, Huyết hải, Lương khâu...

`


16

1.5. Một số nghiên cứu về điều trị thoái hóa khớp gối ở trên thế giới và
Việt Nam
THK gối là một bệnh phổ biến ở mọi quốc gia trên thế giới, hiện nay
người ta vẫn chưa tìm ra được một thuốc nào có thể chữa khỏi bệnh, vì vậy đã
và đang có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam về vấn đề điều trị
THK gối.
1.5.1. Trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về THK gối từ nguyên nhân, cơ chế

bệnh sinh đến đặc điểm lâm sàng và điều trị THK gối. Dưới đây là các nghiên
cứu về các phương pháp điều trị THK gối của một số tác giả:
Năm 1997, Gabriel H.B và các cộng sự tại Bệnh viện Barcelona, Madrid
đã nghiên cứu tác dụng của Glucosamin sulfat trong điều trị THK gối, Kết
quả sau 6 tháng điều trị, nhóm bệnh nhân dùng Glucosamin có hiệu suất giảm
đau cao hơn nhóm chứng (p<0,05) [59].
Mc Carthy và cộng sự (2004) tiến hành nghiên cứu 214 bệnh nhân
THK gối trong 1 năm đã có nhận xét về hiệu quả của phương pháp tập luyện
tại khớp giúp cải thiện các triệu chứng lâm sàng. Theo tác giả tuy đây là
nghiên cứu đầu tiên nhưng kết quả cho thấy nên giới thiệu phương pháp này
cho các bệnh nhân THK gối và các nhà lâm sàng [72].
1.5.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam còn ít các nghiên cứu về THK gối. Chủ yếu tập trung vào
hai nhóm nghiên cứu: Nhóm mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nhóm
nghiên cứu về điều trị THK gối.
Đặng Hồng Hoa (2001) đã nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm
sàng của 42 bệnh nhân THK gối, nhận thấy đặc điểm THK gối ở nước ta là
85,7% là nữ, 78,6% tuổi từ 50 trở lên, 64,3% lao động chân tay [8].

`


17

Nguyễn Thị Ái (2006) nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và
áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh THK gối đã đưa ra kết luận: Trong chẩn
đoán THK gối áp dụng theo tiêu chuẩn ACR 1991 là phù hợp với điều kiện
Việt Nam [1].
Nguyễn Mai Hồng (2001) đã nghiên cứu giá trị của nội soi trong chẩn
đoán và điều trị THK gối. Tác giả kết luận nội soi khớp có tầm quan trọng để

chẩn đoán, chữa trị hoặc nghiên cứu bệnh THK [11].
Phạm Thị Cẩm Hưng (2004) tiến hành nghiên cứu đánh giá tác dụng
điều trị nhiệt kết hợp vận động trong điều trị THK gối. Nghiên cứu cho thấy
sự cải thiện mức độ đau và chức năng khớp gối tương đương kết quả điều trị
bằng thuốc chống viêm không steroid (Mobic) [14].
Nguyễn Văn Pho (2007) đánh giá hiệu quả của phương pháp tiêm chất
nhầy Sodium-Hyaluronate (Go-on) vào ổ khớp gối trong điều trị THK gối.
Hiệu quả trên lâm sàng giảm triệu chứng đau, cải thiện biên độ vận động
khớp gối 96,1%. Tổn thương khớp gối giai đoạn II theo Kellgren – Lawrence
đáp ứng với liệu pháp tốt hơn so với giai đoạn III.
Cầm Thị Hương (2008) tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả của cồn
đắp thuốc Boneal Cốt thống linh trong điều trị THK gối. Nghiên cứu cho thấy
Boneal Cốt thống linh có hiệu quả giảm đau, chống viêm, phục hồi chức năng
vận động tốt đối với THK gối ở mức độ nhẹ và vừa, hoặc đợt đau cấp tính, ít
hiệu quả với mức độ nặng [15].
Đinh Thị Lam (2011) nghiên cứu bước đầu đánh giá hiệu quả của chế
phẩm Glucosamin trong điều trị THK gối, tác giả đã rút ra kết luận chế phẩm
Glucosamin có tác dụng hỗ trợ trong điều trị thoái hóa khớp gối [20].
1.6. Về phương pháp siêu âm trị liệu
1.6.1. Đại cương
1.6.1.1. Âm và siêu âm

`


18

Quá trình lan truyền giao động trong môi trường đàn hồi dưới dạng
sóng dọc (phương dao động của các phần tử trong môi trường đàn hồi trùng
với phương truyền của sóng) gọi là sóng âm.

Các âm có tần số trong khoảng 16 - 20.000Hz, tai người có thể nghe
được thì được gọi là âm thanh.
Các âm có tần số dưới 16Hz, tai người không nghe được thì gọi là hạ âm.
Các âm có tần số trên 20.000Hz, tai người cũng không nghe được thì
gọi là siêu âm.
1.6.1.2. Vận tốc của siêu âm
Siêu âm và âm thanh có cùng bản chất là sóng âm nên vận tốc của siêu
âm cũng như âm thanh không phụ thuộc vào tần số mà phụ thuộc vào môi
trường truyền âm. Trong cùng một môi trường, siêu âm và âm thanh lan
truyền với vận tốc như nhau:
1.6.1.3. Năng lượng của siêu âm
Các phần tử trong môi trường đàn hồi có sóng cơ học truyền qua không
bị cuốn đi theo sóng mà chỉ giao động quanh vị trí cân bằng của chúng. Nếu
chiều của giao động trùng với phương truyền của sóng thì gọi là sóng dọc (Ví
dụ: giao động của lò xo). Nếu chiều của giao động vuông góc với phương
truyền của sóng thì gọi là sóng ngang (ví dụ: sóng nước, sóng điện từ).
Năng lượng giao động của nguồn sóng sẽ truyền theo sóng ra khắp môi
trường (truyền theo phương truyền của sóng cho các phần tử giao động. Năng
lượng của sóng siêu âm chính là động năng giao động và thế năng đàn hồi của
các phần tử trong môi trường.
Cường độ siêu âm tỷ lệ thuận với bình phương của biên độ và bình
phương của tần số. Trong cùng một môi trường, giả sử với cùng một biên độ,
sóng siêu âm có cường độ lớn hơn sóng âm thanh vì tần số của siêu âm lớn
hơn sóng âm thanh.

`


19


Áp xuất siêu âm: Dưới tác dụng của siêu âm, các phần tử của môi
trường đàn hồi giao động tuần hoàn dọc theo phương truyền của sóng (sóng
siêu âm là sóng dọc). Trong quá trình giao động đó, chúng gây nên sự biến
đổi áp suất trong môi trường có tính chất tuần hoàn phù hợp với tần số của
siêu âm. Tại một vị trí nào đó trong môi trường, ở nửa chu kỳ đầu của sóng áp
suất tại đó tăng lên và trong nửa chu kỳ sau lại giảm xuống. Tính chất này
cũng tuần hoàn theo không gian: các vùng áp suất tăng và giảm sắp xếp luân
phiên và cách nhau một khoảng bằng độ dài một nửa bước sóng.
1.6.1.4. Sự hấp thụ siêu âm
Trong quá trình truyền qua môi trường, năng lượng của siêu âm bị suy
giảm do hiện tượng hấp thu. Hệ số hấp thu phụ thuộc vào tính chất của môi
trường. Chất khí có mật độ môi trường thấp hơn chất lỏng và chất rắn nên hệ
số hấp thu của chất khí lớn hơn chất lỏng và chất rắn. Cùng một môi trường
thì hệ số hấp thu đối với siêu âm lớn hơn đối với âm thanh và cùng cường độ,
nguồn siêu âm nào có tần số lớn hơn thì có hệ số hấp thu lớn hơn. Nghĩa là
siêu âm có tần số càng lớn thì năng lượng càng cao nhưng khả năng xuyên
sâu càng giảm.
1.6.1.5. Phản xạ và khúc xạ của siêu âm
Sau khi ra khỏi đầu phát, chùm siêu âm đi thẳng sau đó bị phân kỳ.
Trường mà chùm siêu âm đi thẳng gọi là trường gần, trường mà chùm siêu âm
phân kỳ gọi là trường xa. Trong điều trị, trường gần có vai trò quan trọng.
Vì sóng phẳng nên các tia sóng siêu âm là những tia song song, có
định hướng. Vì có bước sóng nhỏ nên chùm tia siêu âm ít bị nhiễu xạ khi đi
qua các vật cản. Với chùm siêu âm song song, định hướng nên dễ hội tụ lên
một tiết diện nhỏ chính xác.
Khi siêu âm truyền qua mặt phẳng giữa hai môi trường thì nó sẽ phản
xạ và khúc xạ giống như ánh sáng.

`



20

1.6.2. Tác dụng của siêu âm đối với cơ thể sống
1.6.2.1. Tác dụng sinh học
* Hiệu ứng cơ học
Trong môi trường có siêu âm truyền qua thì các phần tử trong môi
trường giao động tạo nên các pha nén và pha giãn. Sự giao động của các phần
tử và sự thay đổi áp suất làm tăng tính thấm qua các màng của các tổ chức,
tăng tính khuếch tán và thẩm thấu của tổ chức, từ đó làm tăng các quá trình
sinh học của tổ chức.
* Hiệu ứng hóa học
Các lỗ nhỏ trong môi trường được hình thành dưới tác dụng của siêu
âm trong pha giãn chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian rất ngắn. Quá trình
giảm và tăng áp xuất tại mỗi điểm diễn ra trong một nửa chu kỳ giao động.
Trong pha nén, các lỗ bị vỡ ra với một áp suất lớn, lúc này các phân tử trong
môi trường chuyển động với một tốc độ lớn, quá trình va chạm và ma sát xảy
ra, kết quả là các phân tử có thể bị kích thích hay ion hóa. Hiện tượng này làm
tăng tốc độ các phản ứng sinh học, tăng chuyển hóa của tổ chức. Ngoài ra có
thể làm hình thành các gốc ion tự do như O 2- (anion superoxid),
OH- (hydroxyl), 1O2 (oxy đơn bội)... Các ion và các gốc tự do có hoạt tính
mạnh sẽ tương tác với các chất của tổ chức sống như các lipid màng tế bào,
protein, men, acid nucleic... làm biến tính và bất hoạt các phân tử quan trọng
này.
* Hiệu ứng nhiệt
Các phần tử của môi trường giao động dưới tác dụng của siêu âm, cơ
năng sẽ chuyển thành nhiệt năng do ma sát làm tăng nhiệt độ của tổ chức.
Hiệu ứng nhiệt phụ thuộc vào cường độ và thời gian tác dụng của siêu âm. Ở
cường độ dưới 1W/cm2 thường chỉ làm xuất hiện trong tổ chức sống các hiệu
ứng sinh vật dương tính. Bào tương của tế bào bị khuấy động làm tăng các

quá trình sinh học bình thường. Siêu âm liên tục 1,5W/cm 2 sau 5 phút thấy tổ

`


21

chức phần mềm tăng 3,30C, bao khớp tăng 6,30C, xương tăng 9,30C. Nhiệt độ
tăng nhiều tại ranh giới giữa các tổ chức có trị số phản xạ âm khác nhau. Tăng
nhiệt độ tổ chức dẫn đến tăng các quá trình sinh học như tăng tốc độ các phản
ứng sinh học, tăng chuyển hóa và dinh dưỡng... Siêu âm liên tục làm tăng
nhiệt độ nhiều hơn siêu âm xung, điều này cần lưu ý khi điều trị các tổ chức
như khớp, các vùng xương gần sát da, vì vậy nên sử dụng siêu âm xung.
* Hiệu ứng tạo lỗ
Vì bước sóng siêu âm rất nhỏ tạo nên những vùng nén và vùng giãn
mạnh. Trong nước và tổ chức cơ thể sống chịu tác động của sự biến thiên áp
suất, nếu siêu âm có cường độ đủ lớn thì mối liên kết của các phần tử bị đứt
tạo nên các lỗ hổng. Hiệu ứng này gọi là hiệu ứng tạo lỗ của siêu âm. Nếu
cùng cường độ, nguồn siêu âm nào có bước sóng ngắn hơn (tần số lớn hơn)
thì hiệu ứng tạo lỗ mạnh hơn. Hiệu ứng tạo lỗ gây phá hủy cấu trúc. Trong y
học ứng dụng hiệu ứng này để làm dao mổ siêu âm hoặc tán nhuyễn thủy tinh
thể trong phẫu thuật phaco.
1.6.2.2. Ứng dụng của siêu âm trong điều trị
Trong các khoa Vật lý trị liệu, siêu âm được sử dụng trong điều trị có
công suất từ 0,1 - 3W/cm2. Khi tác động lên tổ chức, chúng gây ra ba hiệu
ứng: hiệu ứng cơ học, hiệu ứng hóa học và hiệu ứng nhiệt. Từ các hiệu ứng cơ
bản trên, siêu âm có các tác dụng sau:
+ Tăng tuần hoàn máu cục bộ do tăng nhiệt độ, tăng tính thấm của
mạch máu và tổ chức.
+ Giãn cơ do kích thích trực tiếp của siêu âm lên các cảm thụ thần kinh.

+ Tăng tính thấm của màng tế bào, tăng tính khuếch tán và thẩm thấu
qua màng do tăng giao động của các phần tử và biến đổi áp suất luân phiên
giữa các vùng tổ chức. Do đó siêu âm có tác dụng làm tăng hấp thu dịch nề,
tăng trao đổi chất, tăng dinh dưỡng và tái sinh tổ chức.
+ Giảm đau do tác dụng trực tiếp lên cảm thụ thần kinh.

`


22

* Chỉ định và chống chỉ định
Chỉ định
- Chỉ định trong các bệnh co thắt cơ do thần kinh:
+ Co thắt phế quản: hen phế quản, viêm phế quản co thắt; điều trị vào
vùng liên sống bả.
+ Co thắt các mạch máu ngoại vi: hội chứng Reynaud.
+ Co thắt cơ do đau, lạnh.
+ Đau do phản xạ thần kinh, viêm dây thần kinh.
- Các bệnh có nguyên nhân giảm dinh dưỡng chuyển hóa:
+ Các chấn thương sau 3 ngày, các vùng sẹo xấu kém nuôi dưỡng.
+ Các vùng sưng nề do chấn thương giai đoạn hấp thu dịch nề, do các ổ
viêm cũ.
- Làm mềm sẹo
- Siêu âm dẫn thuốc:
Dưới tác dụng của siêu âm làm tăng tính thấm và khuếch tán của các
ion qua các màng bán thấm. Người ta pha các thuốc vào chất tiếp xúc giữa
đầu phát siêu âm và da rồi dùng siêu âm để đưa thuốc vào tại chỗ. Các ion
thuốc được đẩy vào và tích lũy lại ở biểu bì và khuếch tán dần vào cơ thể
giống như làm điện di ion thuốc bằng dòng điện một chiều. Các thuốc thường

dùng là mỡ hydrocortisol, mỡ nọc rắn, mỡ profenid, mỡ kháng sinh...
- Siêu âm tạo khí dung trong điều trị các bệnh mũi, họng, đường hô hấp.
Chống chỉ định
- Các vùng không được điều trị bằng siêu âm: não, tủy sống, cơ quan
sinh dục, thai nhi.
- Vùng điều trị có mang các vật kim loại hoặc vật rắn (đinh, nẹp vít...).
- Các khối u (cả u lành và u ác tính).
- Giãn tĩnh mạch và viêm tắc động mạch, viêm tắc tĩnh mạch.

`


23

- Các vùng đang chảy máu và có nguy cơ chảy máu như dạ con thời kỳ
kinh nguyệt, chảy máu dạ dày, các vết thương mới, các chấn thương có tụ máu...
- Các ổ viêm nhiễm khuẩn vì có thể làm vi khuẩn lan rộng.
- Giãn phế quản: không điều trị vào vùng liên sống - bả.
- Các chấn thương mới trong 3 ngày đầu.
1.6.3. Những điểm lưu ý trong kỹ thuật điều trị bằng siêu âm trị liệu
1.6.3.1. Các phương pháp điều trị bằng siêu âm
* Siêu âm tiếp xúc trực tiếp với da
Đặt đầu phát siêu âm tiếp xúc trực tiếp với da. Không khí có hệ số hấp
thu siêu âm rất lớn nên chỉ cần một lớp không khí mỏng ngăn cách giữa đầu
phát siêu âm với da cũng hấp thu gần hoàn toàn siêu âm. Vì vậy, giữa đầu
phát siêu âm và da cần có một môi trường trung gian dẫn truyền siêu âm.
Người ta thường dùng một chất gel, dầu, vaselin... làm chất trung gian giữa
đầu phát siêu âm và da để triệt tiêu lớp không khí giữa đầu phát và da. Kỹ
thuật tiếp xúc trực tiếp đơn giản, dễ làm, thường được dùng ở những vùng bề
mặt da tương đối phẳng, dễ tiếp xúc.

* Siêu âm qua nước
Nước là một môi trường dẫn truyền âm tốt, người ta thường dùng
thùng, chậu hay bể đựng nước sạch có nhiệt độ thích hợp, bộ phận điều trị và
đầu phát siêu âm đều phải ngập trong nước. Đầu phát siêu âm để vuông góc
với mặt da vùng điều trị, cách mặt da khoảng 1 - 5cm. Siêu âm qua nước có
ưu điểm là tận dụng được năng lượng siêu âm, nhưng kỹ thuật phức tạp hơn
nên thường chỉ sử dụng cho những vùng điều trị không bằng phẳng mà sử
dụng kỹ thuật tiếp xúc trực tiếp khó khăn như các ngón tay, ngón chân, khớp
cổ tay, cổ chân.
* Siêu âm dẫn thuốc
Dưới tác dụng của siêu âm tạo nên các vùng có áp suất thay đổi tuần
hoàn trong tổ chức, do đó làm tăng tính thấm và tính khuếch tán của các chất
qua các màng sinh học. Vì vậy người ta pha các thuốc vào mỡ hoặc dầu làm

`


24

môi trường trung gian giữa đầu phát và da. Dưới tác dụng của siêu âm, thuốc
được "đẩy" vào da tại vùng điều trị. Các thuốc thường dùng là mỡ
hydrocortisol, mỡ kháng sinh, mỡ profenid, salicylat...
1.6.3.2. Kỹ thuật thao tác
* Cố định đầu phát siêu âm
Đầu phát siêu cố định tại vùng điều trị. Kỹ thuật này thường dùng cho
những vùng điều trị nhỏ. Chỉ dùng liều siêu âm thấp < 0,3W/cm 2 với chế độ
siêu âm liên tục và dùng liều 1W/cm2 với chế độ siêu âm xung. Với siêu âm
trong nước, người ta sử dụng kỹ thuật cố định đầu phát.
Kỹ thuật siêu âm cố định dễ gây quá liều và tổn thương màng xương,
sụn khớp nhất là khi dùng chế độ liều cao liên tục.

* Di động đầu phát siêu âm
Đầu phát siêu âm điều trị không cố định mà di chuyển theo vòng xoáy
hoặc theo chiều dọc hoặc ngang trên vùng da điều trị. Tốc độ di chuyển chậm
và đầu phát phải luôn tiếp xúc với bề mặt da.
Với kỹ thuật di động đầu phát siêu âm, có thể dùng cường độ siêu âm
trung bình 1W/cm2 với chế độ liên tục và 1 - 2W/cm 2 với chế độ xung. Có thể
điều trị cho vùng rộng hơn nhưng cần tính toán thời gian điều trị cho phù hợp,
diện tích điều trị càng rộng thì thời gian cần phải dài hơn.
1.6.3.3. Chế độ siêu âm và liều điều trị
* Chế độ siêu âm liên tục
Siêu âm được phát liên tục với cường độ không đổi trong suốt thời gian
điều trị. Chế độ siêu âm liên tục gây hiệu ứng nhiệt độ cao nên người ta
thường phải dùng cường độ siêu âm thấp, điều này hạn chế tác dụng của hiệu
ứng cơ học và hóa học.
* Chế độ siêu âm xung
Siêu âm không phát liên tục mà phát ngắt quãng trong thời gian điều
trị. Vì vậy, năng lượng trung bình của siêu âm theo thời gian thấp. Ví dụ:
xung 1 : 5 (1giây có siêu âm, 5giây không có siêu âm) thì liều trung bình chỉ

`


25

bằng 20% chế độ liên tục. Xung 1 : 10 thì liều trung bình chỉ bằng 10% chế
độ liên tục.
Với chế độ siêu âm xung thì cường độ siêu âm có thể cao nhưng liều
trung bình lại thấp nên tăng nhiệt độ ít và phát huy được tác dụng của hiệu
ứng cơ học và hóa học. Chế độ siêu âm xung được sử dụng rộng rãi trong
điều trị hiện nay.

* Liều điều trị siêu âm
Cường độ siêu âm là năng lượng siêu âm truyền qua một đơn vị diện
tích môi trường (W/cm2), còn công suất siêu âm là tích của cường độ siêu âm
với vùng bức xạ có hiệu lực điều trị (W). Ví dụ dùng đầu phát có diện tích
tính bằng 1cm2 với cường độ 1W/cm2 thì công suất là 1cm2 ´ 1W/cm2 = 1W.
Nếu dùng đầu phát có diện tích 5cm2 với cường độ 1W/cm2 thì công xuất là
5cm2 ´ 1W/cm2 = 5W. Liều điều trị siêu âm cần được điều chỉnh dựa vào các
yếu tố:
- Tần số siêu âm: Siêu âm có tần số càng cao thì năng lượng càng lớn.
- Cùng một thời gian điều trị, cùng một cường độ siêu âm thì chế độ
siêu âm liên tục cho liều lớn hơn chế độ xung.
- Thời gian điều trị càng dài thì liều tác dụng càng lớn.
- Cùng thời gian, cùng cường độ siêu âm, vùng điều trị càng nhỏ thì
chịu liều tác dụng càng lớn. Chọn liều điều trị cần lưu ý đến tính chất vùng
điều trị, loại bệnh cần điều trị.
Với chế độ siêu âm liên tục, cường độ siêu âm không nên vượt quá
0,6W/cm2. Với chế độ siêu âm xung, có thể sử dụng các liều: < 0, 5W/cm2 (liều
nhẹ), 0,5 - 1,2W/cm2 (liều trung bình), 1,2 - 3W/cm2 (liều mạnh).
Một đợt điều trị thông thường 10 - 15 lần, 1 lần/ ngày. Các trường hợp
bệnh mạn tính, có thể điều trị cách quãng 2 - 3 lần/tuần [84].
1.7 Về chế phẩm thuốc “Thấp khớp nam dược”
Thành phần bài thuốc: Gồm các vị sau đây [39].
Độc hoạt
08g
Tế tân
4-8g
Phòng phong
12g
Tang ký sinh 12g
Phục linh 12g

Đương quy
12g

`


×