Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Đánh giá kết quả thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo tại trung tâm hỗ trợ sinh sản quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.4 KB, 58 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ xưa, việc chăm lo gia đình, nuôi dạy con cái đã là ”nhiệm vụ” không
thể thiếu của người phụ nữ. Niềm hạnh phúc vô bờ bến của mỗi người phụ nữ
đó là làm vợ và làm mẹ, được chăm sóc cho những người mình yêu thương,
điều đó không thay đổi theo tiến trình lịch sử, theo những thay đổi trong quan
niệm thời đại song không phải người phụ nữ nào cũng có được niềm hạnh
phúc tưởng chừng như rất đơn giản ấy, vì một số nguyên nhân họ không thể
có con một cách tự nhiên như những phụ nữ khác.
Khoa học phát triển, những hiểu biết của con người về quá trình thụ tinh
và sinh sản càng được mở rộng, các phương pháp chữa trị vô sinh đã ngày
càng phát triển.Thụ tinh trong ống nghiệm -mang thai hộ là một trong những
thành tựu của hỗ trợ sinh sản , sự phát triển của thụ tinh trong ống nghiệm
-mang thai hộ đã thỏa mãn niềm mong ước được làm mẹ cho hàng triệu phụ
nữ bất hạnh không thể mang thai bằng chính tử cung của mình.
Năm 1985 kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm - mang thai hộ lần đầu tiên
thực hiện tại Mỹ thành công[1].Năm 1986, Melissa Stern hay còn gọi là Baby
M, em bé đầu tiên được sinh ra nhờ thụ tinh trong ống nghiệm -mang thai hộ tại
mỹ.Từ đó đến nay kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm - mang thai hộ được thực
hiện ở nhiều nước trên thế giới (Anh, Hà Lan, Úc, Bỉ, Ấn Độ, Canada...) [2].
Những năm vừa qua, vì Việt Nam cấm mang thai hộ nên đã có người phải
ra nước ngoài để thực hiện dịch vụ này với chi phí cao. Trở về nước, họ lại gặp
phải rất nhiều khó khăn khi làm giấy tờ xác định hồ sơ nhân thân cho cháu bé
trong khi các kỹ thuật đó hoàn toàn có thể thực hiện được tại nước ta.
Đáp ứng nhu cầu cấp thiết trên, ngày15/03/2015, theo Nghị định số
10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 do chính phủ ban hành quy định về sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về điều kiện mang thai hộ vì


2



mục đích nhân đạo. Bệnh viện Phụ sản trung ương; bệnh viện đa khoa trung
ương Huế và bệnh viện Phụ sản Từ Dũ Tp. Hồ Chí Minh sẽ được thực hiện
ngay kỹ thuật mang thai hộ[3].
Để đánh giá một cách toàn diện kết quả của phương pháp này. Để không
ngừng nâng cao chất lượng phục vụ bệnh nhân, để tìm hiểu kết quả và các yếu
tố ảnh hưởng lên kết quả của phương pháp TTTON mang thai hộ từ đó rút ra
kinh nghiệm, nâng tỷ lệ thành công của phương pháp và mở rộng kỹ thuật này
cho các trung tâm TTTON khác ở Việt Nam, chúng tôi tiến hành đề tài "Đánh
giá kết quả thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm - mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo tại trung tâm hỗ trợ sinh sản quốc gia” với các mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng,cận lâm sàng của cặp vợ chồng người
nhờ mang thai hộ, người mang thai hộ và chỉ định của thụ tinh trong
ống nghiệm-mang thai hộ tại trung tâm hỗ trợ sinh sản quốc gia.
2. Nhận xét kết quả thụ tinh trong ống nghiệm - mang thai hộ tại trung
tâm hỗ trợ sinh sản quốc gia.


3

Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH MANG THAI HỘTẠI VIỆT NAM VÀ TRÊN
THẾ GIỚI.

Từ mang thai hộ (surrogacy) đã tồn tại từ lâu, nhưng việc mang thai hộ
thật sự chỉ có thể thực hiện sau khi con người thực hiện thành công kỹ thuật
TTTON. Trước khi kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ra đời, khi người vợ
không thể có con hay mang thai, người chồng có thể giao hợp với một người

phụ nữ khác hoặc bơm tinh trùng vào tử cung của người phụ nữ này để mang
thai và việc này thời đó cũng được xem là “mang thai hộ”. Người phụ nữ này
có thể có thai, sau đó trao con lại cho cặp vợ chồng có nhu cầu. Khi này thật
ra đứa trẻ là con sinh học giữa người chồng và người phụ nữ mang thai hộ, sự
việc trên thường ít được luật pháp và đạo đức xã hội chấp nhận. Ngày nay với
sự phát triển của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể là TTTON, cho phép lấy tinh
trùng và noãn của một cặp vợ chồng ra ngoài cơ thể, cho tinh trùng và noãn
thụ tinh để tạo phôi, nuôi cấy phôi và cho đưa phôi vào tử cung một phụ nữ
khác để mang thai thì kỹ thuật mang thai hộ chính danh mới có thể được thực
hiện đúng nghĩa.
Trường hợp mang thai hộ chính danh đầu tiên được báo cáo ở Mỹ (1985)
[1]. Mỹ là nước có nhiều kinh nghiệm và báo cáo các nghiên cứu liên quan
đến mang thai hộ trên thế giới, bên cạnh đó nhiều nước khác cũng cho phép
mang thai hộ (chiếm hơn 1/3 quốc gia được khảo sát trên thế giới).
Một số cặp vợ chồng, do người vợ vì ngại những thay đổi khi mang thai
và đau đớn khi chuyển dạ đẻ nên muốn nhờ người khác mang thai hộ mặc dù
không có chỉ định của bác sỹ, trong trường hợp này việc mang thai hộ không


4

còn vì mục đích nhân đạo mà vì tính chất thương mại, hay còn gọi là đẻ thuê
(“womb for rent” hoặc “commercial surrogacy”) [2].
Luật pháp của từng quốc gia về mang thai hộ khác nhau:
Tại Anh, đẻ thuê không được luật pháp cho phép và bị ngăn cấm từ năm
1985, chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, bà mẹ mang thai hộ
vẫn được pháp luật cho phép duy trì quan hệ với đứa trẻ sau khi sinh ngay cả
khi họ không có quan hệ họ hàng[4].
Tại Mỹ, vấn đề đẻ thuê vẫn còn gây nhiều tranh cãi về mặt luật pháp, một
số bang chấp nhận việc đẻ thuê, còn một số bang thì nghiêm cấm đẻ thuê[2].

Ở Canada chỉ chấp nhận mang thai hộ nhân đạo, người mang thai hộ sẽ
được chi trả các phí tổn cho quá trình mang thai hộ, ngoài ra bất cứ khoản thù
lao khác đều trái luật[5].
Ở Nam Mỹ, tòa án dân sự tối cao sẽ xem xét hồ sơ mang thai hộ trước
khi bắt đầu quá trình. Việc này nhằm nhận biết cặp vợ chồng cần mang thai
hộ thực thụ và hạn chế tối đa đẻ thuê[2].
Tại các nước Châu Á, Nhật Bản cũng cho phép mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo. Ả Rập xê út theo quan niệm tôn giáo không chấp nhận việc
mang thai hộ[6].
Trung Quốc: Bộ Y Tế ban hành luật mang thai hộ nhân đạo vào năm
2001, mặc dù vậy các báo cáo cho thấy việc mang thai hộ bất hợp pháp
(illegal surrogacy) trên thị trường chợ đen (“black market”) vẫn đang phát
triển mạnh mẽ ở Trung Quốc[2].
Tại Ấn độ: Việc đẻ thuê đang trở thành một ngành kinh doanh phát triển
mạnh mẽ, Ấn độ trở thành một nơi mà cả thế giới biết tới với việc đẻ thuê
chuyên nghiệp thông qua những hoạt động du lịch gắn liền với đẻ thuê. Dịch


5

vụ đẻ thuê đang bóc lột những người phụ nữ nghèo ở đây và làm gia tăng tỷ lệ
tử vong mẹ[2].
Lý giải về việc gia tăng tỷ lệ tử vong mẹ, các nghiên cứu cho thấy: khi
mà tại Mỹ, số phôi được chuyển vào tử cung người mang thai hộ không quá
hơn 2, thì tại Ấn Độ để tăng khả năng mang thai, số phôi được chuyển lên đến
5 phôi. Việc chuyển một số lượng lớn phôi tiềm ẩn những nguy cơ về sức
khỏe cho mẹ, chửa đa thai làm gia tăng tỷ lệ tiền sản giật, sản giật, rau bong
non, nhiễm khuẩn hậu sản, băng huyết, trầm cảm sau sinh…mặc khác chuyển
nhiều phôi đồng nghĩa với việc tăng liều các thuốc nội tiết, tăng tác dụng phụ
của thuốc.

Cũng chính vì lý do này, các nhà chức trách Ấn Độ đang cân nhắc sửa
đổi luật mang thai hộ[2].
Tại Việt Nam: Em bé thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên ra đời tại Việt
Nam năm 1998. Sau đó kỹ thuật xin noãn - TTTON đã thành công vào năm
2000. Sau đó, một số trường hợp mang thai hộ đặc biệt cũng được thực hiện
thành công vài năm sau đó với sự cho phép đặc biệt của Bộ Y Tế. Từ năm
2003, kỹ thuật mang thai hộ bị cấm thực hiện ở Việt Nam theo nghị định số
12/2003/NĐ - CP của Chính phủ. Từ đó đến nay, những cặp vợ chồng có chỉ
định mang thai hộ phải đi nước ngoài điều trị hoặc chấp nhận không có con.
Việc cho phép trở lại việc thực hiện mang thai hộ ở Việt Nam mở ra nhiều hy
vọng và cơ hội cho nhiều cặp vợ chồng không may mắn[7].
Pháp luật Việt Nam (theo Luật hôn nhân gia đình sửa đổi 2014) chỉ cho
phép những trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. “Mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo” được giải thích là việc một người phụ nữ tự nguyện,
không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khiđã áp dụng các biện pháp hỗ trợ


6

sinh sản. Cách thực hiện là lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người
chồng TTTON để tạo phôi, sau đó cấy phôi vào tử cung của người tự nguyện
mang thai để người này mang thai và sinh con, con sinh ra là con chung của
cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
Điều kiện để một cặp vợ chồng có quyền nhờ mang thai hộ:


Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không
thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ


sinh sản
• Cặp vợ chồng đang không có con chung
• Đã được tư vấn đầy đủ về y tế, pháp lý, tâm lý
Điều kiện của một người có quyền nhận mang thai hộ:


Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng của cặp vợ

chồng nhờ mang thai hộ
• Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ 1 lần
• Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về
việc có khả năng mang thai hộ
• Người phụ nữ mang thai hộ phải được sự đồng ý bằng văn bản của
người chồng nếu có chồng
• Phải được tư vấn về mặt y tế, pháp lý, tâm lý
1.2. SINH LÝ THỤ TINH
1.2.1. Vai trò của trục dưới đồi - tuyến yên - buồng trứng
1.2.1.1. Vùng dưới đồi
Vùng dưới đồi nằm ở vách não thất 3, điều khiển hệ thống nội tiết, vùng
dưới đồi thường xuyên nhận các thông tin thần kinh, hóa học và điều khiển
các chu kỳ qua trung gian tuyến yên.


7

Củ xám, nhân bụng giữa, nhân lưng giữa và nhân cung tiết ra các
hormone giải phóng. Trong đó có các hormon giải phóng hormon hướng sinh
dục, gọi tắt là Gn-RH (Gonadotropin Releasing Hormone).
Gn-RH là một decapeptid có cấu trúc chung cho tất cả các động vật có
vú và được tổng hợp từ một tiền chất có 92 acid amin ở giải tiền thị giác.

Tác dụng của GnRH là kích thích tế bào thùy trước tuyến yên bài tiết cả
FSH và LH. Vắng mặt GnRH hoặc nếu đưa GnRH liên tục vào máu đến tuyến
yên thì cả FSH và LH đều không được bài tiết[8], [9].
1.2.1.2. Tuyến yên
Tuyến yên nằm trong hố yên, nặng khoảng 0,5g, có hai thùy là thùy
trước và thùy sau.
Thùy trước tuyến yên được cấu tạo bởi những tế bào có khả năng chế tiết
nhiều loại hormon khác nhau, trong đó có các tế bào bài tiết hormon hướng
sinh dục là FSH và LH dưới tác dụng của Gn-RH.


FSH (Follicle Stimulating Hormone) kích thích nang noãn của buồng

trứng phát triển và trưởng thành.
• LH (Luteinizing Hormone) phối hợp với FSH kích thích nang noãn
phát triển, kích thích nang noãn chế tiết estrogen, kích thích nang noãn
trưởng thành và phóng noãn, kích thích hình thành hoàng thể và kích
thích hoàng thể chế tiết progesteron và estrogen[10].
1.2.1.3. Buồng trứng
Buồng trứng là tuyến sinh dục nữ, có hai buồng trứng, trọng lượng trung
bình 8- 15g, kích thước mỗi buồng trứng trưởng thành là 2,5 - 5 x 2 x 1 cm.
Buồng trứng có rất nhiều nang noãn. Số lượng các nang noãn này giảm
rất nhanh theo thời gian. Khi bé gái ra đời, số lượng nang khoảng 2.000.000,
vào tuổi dậy thì, số lượng nang noãn chỉ còn 300.000 - 400.000. Trong suốt


8

thời kỳ sinh sản của phụ nữ (khoảng 30 năm) chỉ có khoảng 400 nang noãn
phát triển tới chín và phóng noãn hàng tháng.

Buồng trứng vừa có chức năng nội tiết vừa có chức năng ngoại tiết, chức
năng ngoại tiết là sinh noãn, còn chức năng nội tiết là chế tiết ra các hormon
sinh dục:




Vỏ nang trong chế tiết estrogen.
Các tế bào hạt của hoàng thể chế tiết progesteron.
Các tế bào của rốn buồng trứng chế tiết androgen (hormon nam).
Buồng trứng hoạt động dưới sự điều khiển trực tiếp của tuyến yên và

gián tiếp của vùng dưới đồi[10]. Mối liên quan hoạt động chức năng giữa
vùng dưới đồi - tuyến yên - buồng trứng được thể hiện ở hình dưới đây:

Hình 1.1. Trục dưới đồi (Hypothalamus) - Tuyến yên (Pituitary) - Buồng
trứng (Ovary)[11].


9

1.2.2. Cấu tạo và sự phát triển của nang noãn
1.2.2.1. Cấu tạo








Tế bào vỏ ngoài
(thecal cells)
Tế bào vỏ trong
(Granulosa cells)
Màng đáy (zone
pellucida)
Các lớp tế bào hạt
(Coronal radiate)
Khoang chứa dịch
nang (Antrum)
Noãn (Oocyte)

Hình 1.2. Cấu trúc một nang noãn trưởng thành trước khi phóng noãn[12]
1.2.2.2. Sự phát triển của noãn
a. Sự chiêu mộ các nang noãn (recruitment)

Mỗi chu kỳ, có khoảng vài trăm nang noãn nguyên thủy được chiêu mộ
vào nhóm nang noãn phát triển để sau khoảng 12 tuần có một nang noãn đạt
đến giai đoạn trưởng thành và phóng noãn. Cơ chế của sự chiêu mộ các nang
noãn nguyên thủy vẫn chưa được hiểu rõ, dường như không phụ thuộc vào
kiểm soát của tuyến yên và có thể phụ thuộc vào các yếu tố nội tại của buồng
trứng. Số lượng các nang noãn nguyên thủy được chiêu mộ vào nhóm nang
noãn phát triển thay đổi theo tuổi, nhiều nhất khi mới sinh và giảm dần khi
tuổi càng lớn[13].

b. Sự chọn lọc nang noãn (Selection)


10


Khoảng ngày 7 của chu kỳ, sự chọn lọc của nang noãn được tiến hành.
Một số nang noãn trong số các nang noãn thứ cấp sẽ được chọn lọc để chuẩn
bị cho sự phóng noãn sau này. Các nang noãn này thường là các nang đáp ứng
tốt với tác dụng của FSH, có nhiều thụ thể của FSH trên các tế bào hạt, và chế
tiết rất nhiều estradiol[13].
c. Sự vượt trội của một nang noãn (dominance)

Khoảng ngày 8 - 10 của chu kỳ, một nang noãn đã được chọn lọc sẽ vượt
trội hơn những nang khác. Trong nang noãn vượt trội, hoạt động chế tiết ra
estradiol rất nhanh, đồng thời dưới tác dụng của FSH, nang noãn vượt trội tiết
ra inhibin (trọng lượng phân tử > 70.000 D). Inhibin ức chế sự chế tiết FSH
của tuyến yên, làm cho các nang khác thiếu FSH, làm giảm khả năng chế tiết
estradiol của các nang khác, dẫn đến sự tích lũy của androgen và thoái hóa
của các nang khác, đảm bảo cho vai trò vượt trội của chỉ riêng nang noãn vượt
trội đó[13].
d. Sự thoái hóa của nang noãn (atresia)

Dihydrotestosterone (DHT) đã được chứng minh là ức chế hoạt động
chuyển hóa androgen thành estradiol của nang noãn. Do đó, môi trường chứa
androgen của nang noãn chịu trách nhiệm cho sự thoái hóa của nó[13].
e. Sự phóng noãn (ovulation)

Phóng noãn là một quá trình mà thông qua đó một noãn có khả năng thụ
tinh được giải phóng từ một nang noãn.
Thời gian phóng noãn thay đổi rất nhiều trong từng chu kỳ kinh, ngay cả
trên cùng một người phụ nữ. Ước tính thời gian trung bình phóng noãn là 34 38 giờ sau sự khởi phát của đỉnh LH. Phóng noãn không phải là một sự kiện
đột ngột. Đỉnh LH khởi phát một chuỗi các biến cố mà cuối cùng dẫn đến sự
phóng noãn[13].



11

Vài giờ trước khi phóng noãn, có hai hiện tượng đồng thời xảy ra dưới
tác dụng của progesterone là:


Các tế bào vỏ ngoài của nang trứng chín giải phóng các enzym tiêu
protein từ các bọc lysosom. Dưới tác dụng của enzym này, thành nang

bị phá hủy trở nên mỏng hơn và yếu hơn.
• Tăng sinh các mạch máu ở thành nang đồng thời tại đây prostaglandin
cũng được bài tiết. Dưới tác dụng của prostaglandin các mao mạch giãn
ra và tăng tính thấm làm cho huyết tương thấm vào trong nang.
Cả hai tác dụng trên đều làm cho nang căng phồng trong khi thành nang
lại mỏng, yếu vì vậy nang sẽ vỡ ra và giải phóng noãn ra khỏi nang trứng.
Hiện tượng phóng noãn thường xảy ra vào thời điểm 13 - 14 ngày trước khi
có kinh lần sau. Thông thường mỗi chu kỳ chỉ có một nang trứng vỡ và xuất
noãn ở cả hai buồng trứng[14].
1.2.3. Cấu tạo và sự di chuyển của tinh trùng
1.2.3.1. Cấu tạo tinh trùng
Từ tế bào mầm của tinh hoàn tạo thành những tinh nguyên bào rồi phát
triển thành những tinh bào I. Mỗi tinh bào I có 46 NST, tinh bào I phân chia
gián phân giảm số thành tinh bào II có 23 NST. Tinh bào II phân chia gián
phân nguyên số thành tiền tinh trùng rồi phát triển thành tinh trùng có 23
NST. Trong số 23 NST của tinh trùng có 22 NST thường và 1 NST giới tính X
hoặc Y. Tinh trùng trưởng thành gồm: đầu, khúc giữa và đuôi[13].
1.2.3.2. Sự di chuyển của tinh trùng
Sau khi được hình thành trong ống sinh tinh, tinh trùng tách khỏi các tế
bào Sertoli và lớp biểu mô của ống sinh tinh để di chuyển vào lòng của ống
sinh tinh. Lúc này tinh trùng đã có hình dạng đặc trưng nhưng chưa có khả



12

năng di động. Tinh trùng đi từ các ống sinh tinh vào đến mào tinh chủ yếu do
tác động luồng dịch di chuyển và một phần do các nhung mao.
Trước khi xuất tinh, các tinh trùng trưởng thành tập trung ở vùng đuôi
mào tinh. Nếu không xuất tinh kéo dài, các tinh trùng già sẽ dần dần thoái hóa
và tiêu đi, đồng thời các tinh trùng mới vẫn tiếp tục được sinh ra và đi đến
đuôi mào tinh. Bình thường tại đuôi mào tinh sẽ tồn tại cùng lúc nhiều thế hệ
tinh trùng khác nhau
Ngay trước khi phóng tinh, tinh trùng trưởng thành từ mào tinh sẽ di
chuyển vào ống dẫn tinh, ống phóng tinh và niệu đạo để ra ngoài. Trên đường đi
tinh trùng được hòa với các dịch tiết từ các tuyến phụ để tạo thành tinh dịch: các
túi tinh, tiền liệt tuyến, các tuyến niệu đạo…Sự co thắt của ống dẫn tinh, các
tuyến phụ, phối hợp với sự co thắt hệ cơ xung quanh tạo thành một áp lực rất
mạnh lúc phóng tinh, làm tinh dịch bị bắn ra ngoài theo đường niệu đạo.
Tinh dịch được phóng vào âm đạo, gần lỗ ngoài cổ tử cung. pH tinh dịch
vào khoảng 7,2 - 7,8. Trong khi pH của âm đạo thường < 5. Do đó, ngay sau
khi phóng tinh, tinh dịch đông, vón cục, do sự hình thành fibrin, tạo thành
một vỏ bọc để bảo vệ tinh trùng khỏi môi trường acid của âm đạo và giữ tinh
trùng ở vị trí gần cổ tử cung, tránh chảy ngược ra ngoài. Môi trường âm đạo
sau đó bị kiềm hóa do khả năng đệm của tinh dịch. Sự ly giải bắt đầu xảy ra,
nhờ tác động của fibrinolysin, và giải phóng tinh trùng[13].
Sự di chuyển của tinh trùng trong buồng tử cung được sự hỗ trợ của
nhiều yếu tố:





Sự co thắt của cơ trơn tử cung
Dịch trong lòng tử cung
Các nếp gấp nội mạc tử cung


13

1.2.4. Sự thụ tinh
Khoảng vài trăm tinh trùng đến được 1/3 ngoài vòi trứng để thụ tinh với
noãn. Hyaluronidase do tinh trùng tiết ra và các men khác của vòi trứng sẽ
làm tan rã các lớp tế bào bao quanh trứng. Nhiều tinh trùng với độ xuyên phá
cao sẽ tạo những “đường hầm” đi đến trứng. Một số tinh trùng sau đó có thể
tiếp xúc được với màng trong suốt (zona pelucida) bao quanh trứng. Khi tinh
trùng tiếp xúc với các thụ thể trên bề mặt màng trong suốt, phản ứng cực đầu
(acrosome reaction) xảy ra, các men bên trong cực đầu của tinh trùng được
phóng thích. Các men này cùng với tác động xuyên phá của tinh trùng giúp
tinh trùng xuyên thủng được lớp màng zona, đi vào khoang quanh noãn chui
vào bên trong noãn
Sự xâm nhập của một tinh trùng đầu tiên vào trứng kích thích hàng loạt
phản ứng sinh học từ noãn. Noãn sẽ tiết vào khoang quanh noãn một chất làm
thay đổi cấu trúc bên mặt trong của màng trong suốt, ngăn cản sự xâm nhập của
các tinh trùng khác. Noãn tiếp tục hoàn tất quá trình giảm phân II, hình thành thể
cực thứ 2. Đến thời điểm này bộ nhiễm sắc thể của noãn mới là n nhiễm sắc thể.
Hai tiền nhân từ từ tiến lại gần nhau ở giữa hợp tử và hợp nhất thành nhân của
hợp tử. Quá trình phân chia của hợp tử bắt đầu để hình thành phôi.
Sự thụ tinh diễn ra ở đoạn bóng của vòi trứng. Dưới tác động của các
lông chuyển và sự co thắt của cơ trơn vòi trứng, phôi di chuyển trong dịch vủa
vòi trứng hướng về buồng tử cung. Phôi vào đến buồng tử cung khoảng 4 - 5
ngày sau khi thụ tinh, vào giai đoạn cuối của phôi dâu (morula) hoặc đầu của
phôi nang (blastocyst). Trong thời gian đó, nội mạc tử cung được chuẩn bị

cho quá trình làm tổ nhờ ảnh hưởng của progesterone do buồng trứng tiết ra
trong giai đoạn hoàng thể. Phôi sẽ bám vào nội mạc tử cung để làm tổ vào
thời điểm 6 - 7 ngày sau khi thụ tinh[13].


14

1.3. THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM - MANG THAI HỘ
1.3.1. Định nghĩa các kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm [15]
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF - In vitro fertilization):là chọc hút một
hay nhiều noãn đã trưởng thành từ buồng trứng cho thụ tinh với tinh trùng (đã
được lọc rửa) trong ống nghiệm. Sau khi noãn thụ tinh phát triển thành phôi,
chuyển phôi tốt vào buồng tử cung để phôi làm tổ và phát triển thành thai nhi.
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI - Intracytoplasmic Sperm
Injection): kỹ thuật ICSI được tiến hành như một trường hợp TTTON thông
thường nhưng ở giai đoạn thụ tinh, chỉ 01 tinh trùng được tiêm trực tiếp vào bào
tương của noãn dưới sự hỗ trợ của hệ thống vi thao tác.
Thụ tinh trong ống nghiệm mang thai hộ (IVF - surrogacy): là chọc
hút noãn đã trưởng thành từ buồng trứng của người nhờ mang thai hộ , sau đó
cho thụ tinh với tinh trùng (đã được lọc rửa) của chồng người nhờ mang thai hộ
trong ống nghiệm. Sau khi noãn thụ tinh phát triển thành phôi, chuyển phôi tốt
vào buồng tử cung của người mang thai hộ(đã được chuẩn bị niêm mạc tử cung)
để phôi làm tổ và phát triển thành thai nhi.

Hình 1.3. Thụ tinh trong ống nghiệm - mang thai hộ[16]


15

1.3.2. Chỉ định TTTON - mang thai hộ

1.3.2.1. Không có tử cung hoặc tử cung dị dạng


Dị dạng tử cung bẩm sinh:
Trên thai gái, ở giai đoạn phôi thai, hệ thống ống Muller và ống Wolff

phối hợp phát triển thành bộ phận sinh dục trong, hệ thống Wolff thoái triển,
còn hai ống Muller sẽ kết hợp với nhau ở giữa để tạo thành tử cung, buồng
trứng và âm đạo. Các dị dạng đường sinh dục xuất phát từ rối loạn sự kết hợp
giữa hai ống Muller này. Sự kết hợp hai ống Muller có thể xảy ra hoàn toàn
bình thường tạo nên bộ phận sinh dục nữ trong và ngoài bình thường, nhưng
nếu có hiện tượng kết hợp dở dang ở từng giai đoạn sẽ gây ra những dị dạng
khác nhau cụ thể là:
-

Rối loạn hoàn toàn sự kết hợp hai ống Muller sẽ tạo ra hai tử cung, hai cổ tử

cung và hai âm đạo.
- Rối loạn không hoàn toàn sự kết hợp hai ống Muller ở từng giai đoạn sớm hay
muộn khác nhau sẽ tạo ra các dị dạng: tử cung hai buồng, hai cổ tử cung một
âm đạo, tử cung có vách ngăn hoàn toàn, không hoàn toàn.
- Ống Muller chỉ phát triển 1 bên sẽ tạo thành tử cung một sừng, một cổ tử
cung.
- Ống Muller ngừng phát triển sẽ có dị dạng không có tử cung (hội chứng
Rokitansky - tỷ lệ gặp 1/5000 phụ nữ), hoặc tử cung bất sản.
• Không có tử cung do phẫu thuật cắt tử cung: bệnh lý tại tử cung (u xơ tử
cung), tai biến sản khoa (rau tiền đạo, rau bong non, đờ tử cung, vỡ tử
cung…)



16

1.3.2.2. Các bệnh lý tại tử cung đã điều trị bằng các phương pháp hỗ trợ
sinh sản khác nhưng thất bại:bao gồm
 Dính buồng tử cung:đây là biến chứng do viêm nhiễm ngược dòng

từ âm đạo, cổ tử cung hoặc biến chứng sau nạo hút thai[17].
 U xơ tử cung, khối lạc nội mạc tử cung …
1.3.2.3.Bệnh lý nội khoa nặng không thể mang thai
-

Suy tim: là tình trạng bệnh lý, trong đó cơ tim giảm hay mất khả năng
cung cấp máu nuôi cơ thể theo nhu cầu cơ thể lúc gắng sức và sau đó là

ngay cả lúc nghỉ ngơi.
- Hẹp, hở van hai lá nặng
- Hẹp, hở van 3 lá nặng
- Bệnh tim bẩm sinh: tam chứng, tứ chứng fallot…
Các tổn thương có thể đơn độc hoặc phối hợp
1.3.2.4.TTTON thất bại nhiều lần[18]
1.3.3. Quy trình TTTON mang thai hộ
-

Thủ tục pháp lý: người nhờ và người mang thai hộ phải thực hiện các cam kết

trên nguyên tắc tự nguyện và đúng pháp luật.
- Khám lâm sàng và thực hiện các xét nghiệm để đảm bảo người nhờ và người
mang thai hộ đúng tiêu chuẩn.
- Sử dụng nội tiết để điều chỉnh chu kỳ kinh nguyệt của người nhờ và người
mang thai hộ

- Kích thích buồng trứng của người nhờ mang thai hộ song song với chuẩn bị
niêm mạc tử cung của người mang thai hộ bằng nội tiết.
- Chọc hút lấy noãn của người nhờ mang thai hộ.
- Tinh trùng của chồng người nhờ mang thai hộ được lấy vào ngày người nhờ mang
thai hộ chọc hút noãn.
- Thụ tinh trong ống nghiệm noãn người nhờ mang thai hộ với tinh trùng
chồng người nhờ mang thai hộ.
- Chuyển phôi vào buồng tử cung người mang thai hộ. Hỗ trợ giai đoạn hoàng thể.
- Thử thai và hỗ trợ nội tiết thai kỳ nếu có thai.


17

1.3.4. Các thuốc sử dụng trong TTTON - mang thai hộ
1.3.4.1. FSH (follicule stimulating hormone)
a. Tác dụng FSH:FSH có tác dụng kích thích trực tiếp nang noãn buồng

trứng phát triển thành nang noãn trưởng thành.
b. Các chế phẩm FSH
-

hMG: nguồn gốc từ nước tiểu, chứa 75đv FSH và 75đv LH, do vậy ngoài tác
dụng của FSH thì còn có tác dụng của LH, ngoài ra hMG còn chứa các

protein lạ trong nước tiểu dễ gây phản ứng dị ứng.
- FSH tinh chế cao: được chiết xuất từ nước tiểu của phụ nữ mạn kinh nhưng
qua quá trình tinh chế cao tách chiết LH ra nên tác dụng của LH trong các chế
phẩm này rất thấp, các chế phẩm là Fostimol,Menogon
- FSH tái tổ hợp: Công nghệ tổng hợp FSH bằng phương pháp tái tổ hợp ADN
đã tạo ra FSH tinh khiết, loại trừ LH ngoại sinh, giảm được sự xuất hiện đỉnh

LH sớm do vậy tránh được hiện tượng hoàng thể hóa sớm, cải thiện chất
lượng noãn, các chế phẩm: Puregon (alphatrophin); Gonal - F (betatrophin).
c. Chống chỉ định
-

U buồng trứng, u vú, u tử cung, u tuyến yên, u vùng dưới đồi.
Phụ nữ có thai, cho con bú.
Xuất huyết âm đạo không rõ nguyên nhân.
Dị ứng thành phần của thuốc.
Suy buồng trứng nguyên phát.
Nang buồng trứng hoặc buồng trứng to bất thường không phải do buồng trứng
đa nang.
d. Tác dụng không mong muốn

-

Hội chứng quá kích buồng trứng.
Phản ứng tại chỗ tiêm: thâm tím, đau, đỏ, sưng, ngứa. [19]
1.3.4.2. hCG (Human chorionic gonadotropin)
a. Cấu tạo


18

hCG là một lycoprotein có trọng lượng phân tử là 38kDa. Phân tử gồm 2
chuỗi protein không cân nhau, chuỗi alpha không đặc hiệu có 92 acid amin và
chuỗi beta đặc hiệu có 145 acid amin.
Chuỗi alpha giống chuỗi alpha của FSH, LH, TSH, chuỗi beta đặc hiệu
cho LH và hCG. Đoạn cuối của chuỗi beta có gắn một chuỗi carbonhydrat
làm cho quá trình giáng hóa phân tử này bị chậm lại, do đó thời gian bán hủy

của hCG là 36 giờ dài hơn so với LH chỉ là 4 giờ
b. Chế phẩm
-

hCG có nguồn gốc nước tiểu: được chiết xuất từ nước tiểu của phụ nữcó thai:

Prenyl 5000 IU
- hCG tái tổ hợp: được sản xuất từ công nghệ tái tổ hợp, không chứa các tạp
chất và protein lạ do đó hoạt tính sinh học ổn định hơn. biệt dược: Ovitrelle
250µg, tương ứng với 6500 IU hCG
c. Dược động học của hCG
Sau khi tiêm bắp hCG có nguồn gốc nước tiểu, hàm lượng huyết thanh
tăng trong vòng 2 giờ, hàm lượng đỉnh đạt được trong vòng 6 giờ và kéo dài
36 giờ. Hàm lượng hCG giảm lúc 48 giờ và tiếp cận mức cơ sở sau 72 giờ.
Sau khi tiêm bắp hCG khoảng 10 - 12% liều bài tiết vào nước tiểu trong 24
giờ, thuốc có thể phát hiện trong nước tiểu tới 3 - 4 ngày.
d. Vai trò của hCG đối với trưởng thành noãn

hCG là một gonadotropin do rau thai tiết ra, do cấu trúc hoá học có chứa
chuỗi β hoàn toàn tương tự như LH, nên có thể gây đáp ứng tương tự LH lên
nang noãn và noãn. Mặt khác, hCG dễ chiết xuất, tác dụng sinh học mạnh hơn
và thời gian tác dụng kéo dài hơn, nên thường được sử dụng thay thế LH để
kích thích sự phát triển của noãn và gây phóng noãn. HCG thường được cho vào
thời điểm nang noãn đã phát triển tốt và chuẩn bị phóng noãn.


19

1.3.4.3. GnRH và các đồng vận của GnRH
a. Cấu tạo


GnRH bao gồm 10 acid amin, khi thay đổi các acid amin ở vị trí thứ 6 và
thứ 10 sẽ thu được các đồng vận của GnRH
b. Cơ chế tác động:

Ở giai đoạn đầu khi sử dụng GnRH đồng vận, thuốc sẽ gắn kết lên thụ thể
của GnRH tại tuyến yên, kích thích tuyến yên tăng tiết FSH và LH (tác dụng
flare - up). Sau khi sử dụng GnRH đồng vận một thời gian khoảng 10 - 14 ngày,
các thụ thể GnRH tại tuyến yên sẽ bị trơ hóa không còn đáp ứng với GnRH đồng
vận (tác dụng điều hòa giảm). FSH và LH tại tuyến yên sẽ cạn kiệt. Sự gia tăng
nồng độ estrogen vào giữa chu kỳ không thể tác động lên tuyến yên. Nhờ vậy
đỉnh LH sẽ bị ức chế. Thuốc có tác động kéo dài 6 tuần sau ngưng thuốc.
c. Tác dụng không mong muốn

Nóng bừng, khô âm đạo, nguy cơ loãng xương khi dùng kéo dài.
1.3.4.4. GnRH đối vận
a. Cấu tạo

GnRH đối vận được cấu tạo bằng cách thay đổi phần lớn các acid amin
trong số 10 acid amin của GnRH. Hiện tại GnRH đối vận thế hệ thứ 3 được dùng
phổ biến hơn do tính an toàn hơn so với các chế phẩm ở thế hệ thứ nhất và thứ hai.
b. Chế phẩm

Ganirelix (Orgalutran 0,25mg); Cetrorelix acetate (Cetrotide 0,25mg)
c. Cơ chế tác động

GnRH đối vận gắn kết cạnh tranh với thụ thể của GnRH tại tuyến yên,
khiến cho GnRH do vùng dưới đồi tiết ra không thể tác dụng được lên tuyến yên
để gây tiết FSH và LH. Vì vậy, sự gia tăng của nồng độ estrogen trong máu



20

không thể tác động được để gây đỉnh LH. So với GnRH đồng vận, GnRH đối
vận có tác động tức thì, khoảng 4 - 6 giờ sau tiêm và phục hồi nhanh sau ngưng
thuốc[19].
1.3.5. Các phác đồ kích thích buồng trứng trong TTTON - mang thai hộ
1.3.5.1. Mục đích kích thích buồng trứng
-

Đủ số lượng nang noãn cần thiết (hiệu quả)
Lượng thuốc sử dụng mức tối thiểu (tiết kiệm)
Không bị quá kích buồng trứng (an toàn)

1.3.5.2. Nguyên lý kích thích buồng trứng
Ngưỡng FSH: FSH đóng vai trò quan trọng trong quá trình tuyển mộ,
chọn lọc và vượt trội của nang noãn. Một lượng nhất định FSH được bài tiết
cần thiết để tạo nên sự phát triển của nang noãn gọi là “giá trị ngưỡng FSH”.
Duy trì hàm lượng FSH ở trên ngưỡng của các nang vượt trội cho đến giai
đoạn nang noãn trưởng thành là yếu tố quan trọng của kích thích buồng trứng
có kiểm soát.
Trần LH: Các thụ thể LH có mặt ở trên các tế bào vỏ và xuất hiện trên tế
bào hạt khi tế bào hạt được kích thích FSH đầy đủ. Kích thích buồng trứng
với hàm lượng LH quá mức sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển bình
thường của nang noãn[20].
1.3.5.3. Các phác đồ kích thích buồng trứng trong TTTON - mang thai hộ
a. Phác đồ dài:
-

GnRH đồng vận 0,1 mg tiêm dưới da trong 14 ngày liên tục bắt đầu từ ngày

21 hoặc từ ngày đầu của chu kỳ kinh, định lượng nội tiết nếu nồng độ E2 <
50pg/ml và LH < 5 IU/l thì dùng FSH, liều FSH thay đổi tùy từng bệnh nhân
đồng thời giảm liều GnRH đồng vận còn 0,05mg. Thời gian phối hợp này
thường kéo dài 10 đến 12 ngày.


21

-

Tiêu chuẩn để tiêm hCG đối với phác đồ dài tại bệnh viện phụ sản Trung
ương là có ít nhất 1 nang ≥ 18mm và ít nhất hai nang ≥ 17mm vào khoảng
ngày thứ 10 - 12 sau khi kích thích buồng trứng[21].
N1/N21 của chu kỳ

LH <5 IU/l

Kinh nguyệt

hCG

E2 <50 pg/ml
GnRH
FSH

1 tháng
Hình 1.4. Sơ đồ phác đồ dài
b. Phác đồ ngắn:
-


Bắt đầu từ ngày 2 chu kỳ kinh dùng GnRHa. Từ ngày 3 chu kỳ liều GnRHa
giảm đi 1/2 kết hợp FSH. Liều FSH ban đầu được cho dựa vào tuổi, xét
nghiệm nội tiết, số nang cơ sở 2 buồng trứng, tiền sử đáp ứng với kích thích
buồng trứng…Thông thường liều khởi đầu của phác đồ ngắn là từ 150 - 200

IU/ngày
- Theo dõi sự phát triển nang noãn, hút noãn và chuyển phôi giống như trong
phác đồ dài.
- Phác đồ này thường chỉ định cho bệnh nhân có đáp ứng kém với kích thích
buồng trứng.
N2 CKKN

N6 Siêu âm

hCG

GnRH
FSH

8-10 ngày
Chọc hútnoãn

Hình 1.5. Sơ đồ phác đồ ngắn.

Chuyển phôi


22

c. Phác đồ sử dụng GnRH đối vận (antagonist)

-

Bắt đầu từ ngày 2 hoặc ngày 3 chu kỳ dùng FSH. Liều FSH ban đầu được cho
dựa vào tuổi, xét nghiệm nội tiết, số nang cơ sở 2 buồng trứng, tiền sử đáp

ứng với kích thích buồng trứng…
- GnRH antagonist được cho từ ngày 5- 6 dùng FSH hoặc khi có ít nhất một
nang kích thước ≥ 14mm. Liều GnRH antagonist thông thường 0,25 mg/ngày
- Khi có ít nhất 1 nang kích thước ≥ 18mm hoặc 2 nang kích thước từ 17 mm thì
tiêm hCG để trưởng thành noãn. Liều hCG thường 5.000 - 10.000 IU[20].

N2 CKKN

Nang ≥14mm

hCG (GnRHa)

FSH
GnRHanta

8-10 ngày

3-5 ngày
Chọc hút Chuyển phôi
noãn

Hình 1.6. Phác đồ antagonist linh hoạt
1.3.5.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kích thích buồng trứng
a. Tuổi


Tuổi là một trong những yếu tốđầu tiên và rất quan trọng để đánh giá và
tiên lượng đáp ứng của buồng trứng. Tuổi càng cao thì dự trữ của buồng trứng
càng giảm do đó đáp ứng với các thuốc KTBT giảm, liều FSH tăng, số nang
noãn và số noãn thu được giảm.
b. Chỉ số khối lượng cơ thể (BMI)

BMI là một trong những yếu tố quan trọng đểđánh giá đáp ứng buồng
trứng khi kích thích buồng trứng, được tính theo công thức: BMI = Cân nặng
(kg)/chiều caox chiều cao (m2). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng BMI tăng sẽ
làm tăng liều FSH, tăng số ngày kích thích buồng trứng, thu được ít nang noãn
lớn và trung bình.


23

c. Tiền sử phẫu thuật ở tiểu khung

Tiền sử phẫu thuật tiểu khung với những can thiệp vào vùng tiểu khung
có thể gây dính vùng tiểu khung, đặc biệt là phẫu thuật trên buồng trứng làm
mất phần tổ chức lành của buồng trứng do đó làm dự trữ của buồng trứng bị
giảm chức năng, đáp ứng kém với kích thích buồng trứng do vậy sẽ thu được
ít noãn
d. Các thăm dò về dự trữ buồng trứng

Các thăm dò về dự trữ buồng trứng bao gồm: xét nghiệm nội tiết ngày
thứ 3 của chu kỳ kinh nguyệt (FSH, LH, E2, Inhibin B), xét nghiệm AMH
(Anti Mullerian Hormone), đếm số nang thứ cấp 2 buồng trứng ngày 3 chu
kỳ, đo thể tích buồng trứng,… là các thăm dò có thể đánh giá được dự trữ của
buồng trứng từ đó có khả năng dự đoán được đáp ứng buồng trứng và liều
FSH phù hợp để đạt được kết quả khi kích thích buồng trứng.

e. Liều FSH ban đầu

Liều FSH ban đầu là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
kết quả của kích thích buồng trứng. Với liều FSH phù hợp sẽ có được kết quả
tối ưu của đáp ứng buồng trứng: thu được nhiều noãn mà không bịquá kích
buồng trứng. Đã có nhiều nghiên cứu để xác định liều FSH ban đầu, liều FSH
trung bình thông thường được cho từ 150 - 250 IU/ngày tuỳ theo từng phác đồ
và tất cả các nghiên cứu đều có chỉ định cho liều FSH dựa vào tuổi, cân nặng,
xét nghiệm nội tiết và tiền sử đáp ứng của buồng trứng đối với lần kích thích
buồng trứng trước[22].
1.3.5.5. Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng
Đáp ứng kém với kích thích buồng trứngđược xác định khi có ít hơn 5
nang noãn trưởng thành, nồng độ E2 trong máu thấp hay giảm rõ rệt sau khi
tiêm hCG. Đáp ứng kém xảy ra ở 15 - 20% các chu kỳ kích thích buồng


24

trứng. Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng thường xảy ra ở những phụ
nữ lớn tuổi, những người có tiền sử phẫu thuật vùng bụng có dính, phẫu thuật
trên buồng trứng làm giảm thể tích mô lành còn lại của buồng trứng, lạc nội
mạc tử cung, suy buồng trứng sớm và trong một số trường hợp không rõ
nguyên nhân.
1.3.5.6. Quá kích buồng trứng
Hội chứng quá kích buồng trứng là biến chứng nghiêm trọng nhất của
kích thích buồng trứng trong điều trị vô sinh. Hội chứng quá kích buồng trứng
thường xảy ra vài ngày sau khi tiêm thuốc kích thích rụng trứng (hCG) trong
các chu kỳ có kích thích buồng trứng bằng clomiphene citrate
haygonadotropin, có hay không có phối hợp với GnRH đồng vận hay đối vận.
Hội chứng quá kích buồng trứng gặp nặng trong 0,5 - 5 % chu kỳ thụ tinh

trong ống nghiệm và có thể dẫn tới tử vong (Delvigne A và Rozenberg S, 2002).
a. Cơ chế bệnh sinh

Sự hiện diện của buồng trứng và hCG là 2 yếu tố bắt buộc vì sẽ không có
hội chứng quá kích buồng trứng khi cắt bỏ 2 buồng trứng hay khi không có sự
hiện diện của hCG. Human chorionic gonadotropin thường được sử dụng để
kích thích rụng trứng thay cho LH trong điều trị vô sinh. So với LH nội sinh,
hCG có thời gian bán hủy dài hơn (>24 giờ so với 60 phút của LH). Thời gian
có tác dụng của hCG có thể kéo dài đến 6 ngày. Liều hCG sử dụng cho kích
thích rụng trứng có thể gây ra hội chứng quá kích buồng trứng sớm và hCG từ
một thai kỳ tiến triển có thể gây ra hội chứng quá kích buồng trứng muộn hay
làm kéo dài và nặng hơn ở những bệnh nhân đa thai so với đơn thai.
Cơ chế sinh lý bệnh của hội chứng này là sự chế tiết quá mức của các
chất trung gian gây viêm, làm tăng tính thấm thành mạch. Tràn dịch vào các
khoang cơ thể,nếu không được điều trị kịp thời dẫn đến giảm tưới máu thận,
làm thiểu niệu, mất cân bằng điện giải, toan máu, nặng hơn là tình trạng cô


25

đặc máu. Mặt khác giảm thể tích lòng mạch làm tụt huyết áp, giảm áp lực tĩnh
mạch trung tâm dẫn đến tắc mạch.
b. Phân loại

Bảng 1.1. Phân loại hội chứng quá kích buồng trứng theo Golan và cộng
sự (1989)
Phân
loại
Nhẹ
Vừa


Phân
độ
1
2
3
4

Nặng
5

Kích thước BT
Triệu chứng
trên siêu âm
5 - 10 cm
Căng bụng, đau, khó chịu
Độ 1 + buồn nôn, nôn, ỉa chảy
> 10 cm
Độ 2 + cổ chướng trên siêu âm
Độ 3 + cổ chướng trên lâm sàng, tràn
> 12 cm
dịch màng phổi và khó thở nhiều
Độ 4 + cô đặc máu, giảm thể tích,
thiểu niệu.

c. Dự phòng hội chứng quá kích buồng trứng:
• Dự phòng hội chứng quá kích buồng trứng tiên phát:

Bước 1:Xác định các yếu tố nguy cơcủa hội chứng quá kích buồng trứng
Bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang, bệnh nhân có BMI thấp,bệnh

nhân trẻ tuổi (< 35 tuổi), nồng độ estradiol vào ngày cho tiêm rụng trứng cao
(>3000 pg/ml), có nhiều nang noãn (>20 nang noãn).
Bước 2: Lựa chọn phác đồ kích thích buồng trứng phù hợp cho từng bệnh
nhân

-

Dự phòng hội chứng quá kích buồng trứng thứ phát
Hủy chu kỳ điều trị
Ngưng sử dụng gonadotropin trước khi cho kích thích rụng trứng -

Coasting
- Sử dụng Albumin truyền tĩnh mạch vào ngày chọc hút trứng
- Trữ phôi toàn bộ: Dự phòng hội chứng quá kích buồng trứng muộn


×