Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

ĐÁNH GIÁ kết QUẢ THAY KHỚP HÁNG TOÀN PHẦN KHÔNG XI MĂNG SAU 5 năm tại BỆNH VIỆN VIỆT đức (2010 2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.56 KB, 52 trang )

1

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật thay thế những khớp háng đã thoái hóa, mất chức năng bằng
một khớp nhân tạo là một kỹ thuật chỉnh hình phổ biến hiện nay. Trong đó
thay khớp háng toàn phần là một kỹ thuật phổ biến Trong đó thì thay khớp
háng toàn phần là nội dung chủ yếu (có nơi chiếm đến 75%) của phẫu thuật
này.
Hơn thế nữa, trong các loại Phẫu thuật Thay khớp thì Khớp háng toàn
phần đạt được nhiều thành tựu hơn cả: đem lại phục hồi chức năng cho hàng
triệu bệnh nhân. Ở các nước tiên tiến, như Hoa Kỳ, hằng năm có khoảng hơn
150.000 ca, còn tại Pháp là khoảng 30000 ca ¼ số lượng này[13].
Cơ bản có hai loại khớp háng nhân tạo được sử dụng, đó là loại dùng xi
măng hoặc không cần xi măng để cố định khớp.. Đã có nhiều nghiên cứu
đánh giá về hiệu quả sử dụng của cả hai loại khớp này nhưng xu hướng hiện
nay là sử dụng loại khớp không xi măng phổ biến hơn.
Tại Việt Nam, khoảng 15 năm trở lại đây, phẫu thuật thay khớp đã trởở
thành thường quy tại Việt Nam. Thay thế khớp háng toàn phần không xi măng
cũng rất phổ biến. Càng ngày, trình độ của phẫu thuật viên chấn thương chỉnh
hình càng được nâng cao. Cùng với điều này, số lượng các ca phẫu thuật thay
khớp tăng dần theo từng năm mang đến sự hồi phục chức năng cho hàng triệu
bệnh nhân, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, đặc biệt đối với những
bệnh nhân thay khớp háng (chủ yếu là ở người lớn tuổi).
Tại Bệnh viện Việt Đức, 1 trong nhưng cơ sở đầu ngành về ngoại khoa
trong nước, hàng năm cũng thực hiện hàng nghìn ca thay khớp, rất nhiều
trong số đó là khớp háng toàn phần không xi măng.
Hiện đã có rất nhiều nghiên cứu đánh giá về kết quả điều trị của Thay
khớp háng toàn phần không xi măng, tuy nhiên các nghiên cứu đánh giá kết



2

2

quả điều trị xa vẫn còn rất ít. Riêng tTại Bệnh viện Việt Đức, , 1 trong nhưng
cơ sở đầu ngành về ngoại khoa trong nước, với hàng nghìn ca thay khớp háng
mỗi năm, hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá về kết quả xa của Thay
khớp háng toàn phần không xi măng. Chính vì vậy, chúng tôi xin thực hiện
nghiên cứu này với hai mục tiêu:
1-

Đánh giá kết quả phẫu thuật phục hồi chức năng và x-quang chụp

2-

ở thời điểm sau 5 năm TKHTPKXM
2- Rút ra một số nhận xét về các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả
TKHTPKXMNhận xét về một số các yếu tố có thể ảnh hưởng tới
kết quả của TKHTPKXM


3

3


4

4


Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. Sơ lược lịch sử thay khớp háng toàn phần không xi măng:
1.1.1. Trên thế giới
Thay khớp háng toàn phần là phẫu thuật cắt bỏ chỏm cổ xương đùi, sụn
và một phần xương dưới sụn của ổ chảo, thay vào đó bằng khớp nhân tạo,
nhằm phục hồi chức năng vốn có của khớp. Khớp háng toàn phần không chỉ
thay thế phần khớp hư hỏng mà còn tăng đúng mức chiều dài cánh tay đòn
cơơ dạng, chuyển hướng lực tác dụng, tái lập cân bằng sinh học để có một
khớp háng hoàn toàn mới nhàm đảm đương chức năng trong suốt phần đời
còn lại của bệnh nhân.
Phẫu thuật thay khớp háng toàn phần xuất hiện vào những năm cuối của
thế kỷ XIX, nhờ vào sự tiến bộ của cấu trúc vật liệu, kỹ thuật mổ. Ý tưởng
đầu tiên vận động khớp được đưa ra đầu tiên bởi John Rhea Barton, một bác
sỹ tại Pennsylvania. Năm 1826, ông tiến hành tạo ra một khớp giả vùng dưới
mấu chuyển cho một thủy thủ bị cứng khớp háng do lao bằng cách đục xương
ngay dưới mấu chuyển nhỏ. Ca mổ diễn ra trong 7 phút và không gây mê.
Khớp háng có thể vận động trong 6 năm trước khi tái cứng khớp. Sau này, để
tránh sự cứng khớp trở lại, một số tác giả đưa ra ý kiến chèn thêm các vật liệu
vào bề mặt xương hoặc thay thế đầu trên xương đùi bằng một vật liệu ngoại
lai. Có thể kể đến như: Verneuil nhét tổ chức mềm ( cơ, mỡ và cân) vào giữa 2
mặt khớp (1980); Gluck thay đầu xương đùi bằng ngà voi (1890), sau đó là
Delbet (1903), Hey-Groves (1922)… Sau giai đoạn chập chững này, người ta
coi Smith Petersen (1886 – 1953) là người phát minh ra thay khớp háng. Năm
1923, ông tái tạo lại mặt khớp háng bằng thủy tinh. Từ năm 1937, ông thay
thế thủy tinh bằng Vitallium với khoảng hơn 1000 trường hợp, trong đó 82%



5

5

đạt kết quả tốt. Kỹ thuật này sau đó được cải tiến bởi nhiều tác giả như
Capello, Head, Trentani, nhất là Townley với kỹ thuật TARA ( thay bề mặt
khớp háng toàn phần ) tuy nhiên tỷ lệ thất bại khá cao lên tới 34%. Khởi đầu
của thay khớp háng toàn phần được coi chính thức do Philip Wiles thực hiện
vào năm 1938 tại London với loại khớp làm từ thép không rỉ, cổ chỏm được
cố định bằng boulon và phần ổ cối có hình mỏ neo được cố định bằng nẹp vít,
tuy nhiên ông cũng thông báo kết quả không tốt do tình trạng tiêu xương.
Có thể nói, tất cả các kiểu khớp háng toàn phần thực hiện trước thời kỳ
của Sir John Charnley đều chỉ có giá trị lịch sử. Rút kinh nghiệm từ nhưng
người đi trước, vào những năm 60 của thế kỷ XX, ông cho ra đời kiểu khớp
háng toàn phần với những đặc tính riêng, với khái niệm ma sát thấp sử dụng
chuôi khớp kim loại và ổ cối bằng polyetrafluoethylene Teflon đồng thời sử
dụng kỹ thuật xi măng methylmethacrylate để cố định khớp đã tạo ra bước
ngoặt quan trọn cho khớp háng toàn phần [21], [32]. Năm 1995, trong một hội
nghị tổng kết tất cả các khớp háng toàn phần của Charley tại Lyon với hơn
750 000 ca còn đang sống, kết quả được đánh giá tốt và rất tốt lên đến 90%.
Cho đến nay, cơ bản có hai loại khớp háng nhân tạo sử dụng, đó là loại
cần xi măng hoặc không cần xi măng để cố định khớp. Nghiên cứu của chúng
tôi tập trung vào khớp háng toàn phần không xi măngĐã có nhiều nghiên cứu
đánh giá về hiệu quả sử dụng của cả hai loại khớp này nhưng xu háng hiện
nay là sử dụng loại khớp không xi măng phổ biến hơn.
1.1.2. Tại Việt Nam
Giáo sư Trần Ngọc Ninh có lẽ là người đầu tiên thay khớp háng toàn
phần tại Việt Nam. Năm 1973, ông và các bác sỹ chỉnh hình bệnh viện Bình
Dân đã thay khớp háng toàn phần cho một bệnh nhân nam 33 tuổi bị cứng



6

6

khớp háng hai bên do viêm cột sống dính khớp. Bệnh nhân phục hồi vận động
khớp háng tốt sau đó với thời gian theo dõi hơn 10 năm [13].
Trong thời gian từ năm 1978 – 1980, Ngô Bảo Khang tại bệnh viện Việt
Đức đã thay khớp háng toàn phần cho 8 bệnh nhân, sau phẫu thuật hết đau và
phục hồi chức năng tốt [44],[55].
Tháng 4/2000, Đỗ Hữu Thắng báo cáo 120 trường hợp với 133 khớp
háng được thay khớp háng toàn phần, kết quả tốt và rất tốt là 93,2%, khá là
0,8%, trung bình là 3,4% và xấu là 2,5% [66].
Năm 2001, Nguyễn Tiến Bình báo cáo 126 bệnh nhân thay khớp háng
toàn phần và bán phần, trong đó có 54 trường hợp thay khớp háng toàn phần
đạt kết quả tốt và rất tốt (86,6%) [77].
Năm 2003, Đoàn Việt Quân báo cáo kết quả phẫu thuật của 185 bệnh
nhân thay khớp háng toàn phần và bán phần với tỉ lệ tốt và rất tốt của thay
khớp háng toàn phần là 80%, thay khớp háng bán phần là 77,1% [88].
Nguyễn Đắc Nghĩa báo cáo 40 bệnh nhân thay khớp háng toàn phần , 4
bệnh nhân khoan giảm áp theo dõi sau 1 năm đều hết đau, đi lại sinh hoạt
bình thường [99].
Năm 2009, Trần Đình Chiến và Phạm Đăng Ninh báo cáo tổng kết 10
năm thay khớp háng tại bệnh viên 103 cho bệnh nhân với 506 khớp háng
trong đó có 340 trường hợp thay khớp háng toàn phần (161 khớp háng toàn
phần không xi măng) với kết quả 86,6% tốt và rất tốt, 11,6% đạt khá, chỉ có
1,6% kém [1010].
Trần Nguyên Phương đánh giá kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn
phần không xi măng sau 4 năm với thời gian theo dõi trung bình là 17 tháng
với 115 khớp của 98 bệnh nhân, kết quả tốt và rất tốt là 95,65%, khá là

3,48%, trung bình là 0,87%, không có kết quả xấu [1111].


7

7

Năm 2012, Đào Xuân Thành nghiên cứu 65 bệnh nhân với 83 khớp háng
toàn phần không xi măng với thời gian theo dõi sau phẫu thuật 24 tháng, có
kết quả rất tốt là 95,2%, tốt 1,2%, trung bình 3,6% và không có kết quả xấu.
Điểm trung bình Harris trước phẫu thuật là 43,18 tăng lên đến 98,61 sau phẫu
thuật [1212].
1.2. Cơ sinh học khớp háng liên quan đến khớp háng toàn phần không xi măng.
1.2.1. Nhắc lại giải phẫu:
Khớp háng là một khớp chỏm cầu đa trục, được cấu tạo vững nhờ sự kết
hợp giữa chỏm xương đùi và ổ cối. Cũng giống như khớp vai, khớp háng có
một viền xung quanh, giúp củng cố sự vững chắc của khớp. Khớp háng có thể
hoạt động tốt nhờ các cấu trúc bao khớp và các cơ khỏe.
Ổ cối được ghép thành bởi ba phần của ba xương: xương cánh chậu,
xương mu và xương ngồi. Ổ cối mở ra ngoài, ra trước và xuống dưới; Ổ cối
có dạng một nửa chỏm cầu lõm, trong khi chỏm xương đùi có dạng hai phần
ba chỏm cầu. Ngoài những cấu trúc xương, sự vững của khớp háng được củng
cố thêm bởi hệ thống dây chằng rất chắc gồm có: dây chằng chậu đùi, dây
chằng mu đùi và dây dây chằng ngồicùng đùi. Dây chằng chậu đùi (dây chằng
Y của Bigelow) được coi là dây chằng vững chắc nhất trong cơ thể [1313].


8

8


Hình 1.1. Giải phẫu khớp háng [2626]
Nó được cấu tạo nhằm chống lại các lực duỗi mạnh và đóng vài trò quan
trọng trong việc giữ tư thế của khớp háng. Dây chằng ngồi đùi là được coi là
yếu nhất trong ba dây chằng này, di chuyển ít nhất khi duỗi đùi, giúp củng cố
sự vững của khớp háng trong động tác này. Dây chằng mu đùi chống lại các


9

9

lực gấp mạnh của đùi và hạn chế động tác duỗi. Cả ba dây chằng cũng hạn
chế vận động quay của chỏm xương đùi.
Khi chịu tải thấp, bề mặt khớp không tiếp xúc hoàn toàn; khi chịu tải
cao, nó đạt điện tích tiếp xúc bề mặt lớn nhất. Sự tiếp xúc này cho phép giảm
áp lực trên mỗi đơn vị diện tích xuống mức cho phép. Tùy vào từng hoạt động
mà áp lực lên khớp háng thay đổi khác nhau.
1.2.2. Cơ sinh học:
1.2.2.1. Cơ sinh học khớp háng
Thể trọng tạo một lực tải trên đầu xương đùi, biểu thị bằng cánh tay đòn
thể trọng. Người ta tính được rằng, bình thường cánh tay đòn này gấp 2,5 lần
cánh tay đòn cơ dạng, cho nên khi đứng trên một chân, nhóm cơ dạng phải tạo
ra 1 lực 2,5 lần thể trọng mới giữ được xương chậu không bị xệ xuống. Khi đi
trong pha chống chân, đầu xương đùi phải chịu một lực tải bằng tổng lực cơ
dạng và thể trọng có thể lên tới hơn 3 lần trọng lượng cơ thể. Chuyển tư thế từ
ngồi sang đứng, lên xuông cầu thang hay chạy nhảy, lực tải này có thể lên đên
10 – 12 lần.
Khi đứng, trọng tâm cơ thể định vị tại bờ trước đốt sống S2, phía sau và
cao hơn khớp háng.

Trong quá trình đi lại vận động, vị trí trọng tâm thay đổi, tất yếu các lực
tác động lên khớp háng thay đổi, vì vậy lực tải trên chỏm xương đùi cũng thay
đổi theo v. Và ứng lực lên khớp háng không chỉ trong mặt phẳng trán mà còn
trong mặt phẳng đứng dọc, cổ chỏm xương đùi bị bẻ về phía sau, đặc biệt khi
háng gấp, lực bẻ này tăng gấp nhiều lần.
Thêm vào đó, các lực này tác dụng lên khớp háng không liên tục, có khi
mạnh đột ngột, có khi thư giãn. Và trong một năm có tới 1 triệu bước đi với
các lực có cường độ, hướng thay đổi, các hợp lực đa dạng khiến chuôi của
khớp háng toàn phần thường bị gãy ở phía trước ngoài. Chuôi lỏng dẫn đến


10

10

chảo bị lỏng. Đây là nguyên nhân quan trọng góp phần làm xuống cấp khớp
háng toàn phần [13].
1.2.2.2. Một số đặc điểm của chuôi không xi măng:
a.

Các loại thiết kế chuôi khớp không xi măng:
Hiện còn nhiều ý kiến khá nhau về ảnh hưởng do kiểu dáng chuôi khớp
đối với hình thể của xương đùi và mật độ xương xung quanh chuôi sau
TKHTP không xi măng. Tuy nhiên tất cả đều thống nhất rằng mội kiểu thiết
kế trước hết đều phải đạt sự ổn định về cơ học, sự phát triển xương bề mặt và
thời gian tồn tại lâu dài. Dù có nhiều kiểu dáng khác nhau có thể tháo rời từng
phần của chuôi khớp hoặc không, các loại chuôi vẫn được thiết kế theo các
hình thể chính dưới đây [1514]:

-


Kiểu chuôi thằng hình trụ: là kiểu dáng đầu tiên, hiện vẫn mang lại kết quả tốt. Sự
ổn định của khớp có được nhờ nguyên tắc phải doa ống tủy thân xương đùi cho

-

vừa chặt với chuôi hình trụ dài, đảm bảo chuôi khớp được giữ chặt.
Kiểu chuôi giải phẫu: là kiểu dáng được thiết kế theo hình dáng tương đối
phù hợp với ống tủy ở đầu trên xương đùi. Chuôi có dạng hơi cong, bất
đối xứng cho bên trái và bên phải nhằm mục đích đặt được bề mặt tiếp
xúc phù hợp tối đa. Hình dáng cong theo đúng ống tủy để tạo sự cố định
cơ học tốt nhất tại vùng đầu trên xương đùi. Chuôi khớp này được mong
đợi sẽ chịu được các lực tác dụng dọc theo trục, lực bẻ, lực xoay một cách tối

-

ưu [1615],[1716].
Kiểu chuôi hình nêm được thiết kế cố định đầu gần, đạt được cố định cơ học
nhờ cấu trúc hình nêm chặt ở đầu trên xương đùi. Loại này nếu có viền cổ có

-

thể cản trở sự lún và nêm xuống tiếp tục của chuôi.
Kiểu chuôi ép: dựa vào nguyên lý tạo lực tỳ ép bề mặt lên xương để cố định

b.

và nhờ sự giãn nở tương đối của xương
Ngoài ra còn một số loại chuôi kết hợp đặc điểm của các loại chuôi kể trên.
Độ vững cơ học của chuôi khớp



11

11

Độ bền của khớp nhân tạo phụ thuộc và sự cố định và ổn định của các
thành phần cấu thành. Để đạt được điều này cần bảo đảm được tính cố định
vững chắc cơ học ngay từ đầu và tính ổn định sinh học sau đó. Mức độ ổn
định sinh học phục thuộc vào sự phát triển của xương liền kề vào bề mặt khớp
nhân tạo và phụ thuộc chất liệu, cấu trúc bề mặt.Mức độ tiếp xúc với bề mặt
xương tạo nên độ vững chắc cơ học. Độ vững chắc này phụ thuộc vào kỹ
thuật của phẫu thuật viên, thiết kế khớp phù hợp với hình thể giải phẫu riêng
của từng khớp háng và xương đùi cho từng bệnh nhân [1212].
Nếu độ vững chắc cơ học không đảm bảo, sự phát triển của xương lên bề
mặt khớp nhân tạo có thể bị thay thế bằng sự phát triển của tổ chắc xơ, tạo
nên lớp màng xơ giữa xương và khớp nhân tạo gây lỏng khớp sớm.
1.2.2.3. Một số đặc điểm của ổ cối không xi măng:
Các ổ cối nhân tạo không xi măng với khả năng cố định sinh học có tỷ lệ
lỏng vô khuẩn sau 10 năm thấp hơn các loại ổ cối nhân tạo được cố định bằng
xi măng. Tiêu xương vô khuẩn là trở ngại lớn cho sự tồn tại lâu dài của các ổ
cối nhân tạo không xi măng.
Loại ổ cối nhân tạo không xi măng có ren kèm theo lớp phủ hạt hoặc
hydroxyapatite bề mặt làm tăng sự phát triển của xương lên bề mặt khớp nhân
tạo làm tăng tuổi thọ của KHTPKXM, chủ yếu được áp dụng ở một vài trung
tâm của châu Âu, không phổ biến tại Bắc Mỹ [1212].
Loại ổ cối press-fit thường có bề mặt tiếp xúc chặt với xương liền kề và
có thể cố định thêm cho đạt được độ vứng chắc ngay từ đầu bằng vít, chốt hay
đầu đinh nhọn. Tuy nhiên vít và lỗ vít của ổ cối nhân tạo có thể liên quan tới
tiêu xương quanh ổ cối. Các vít và lỗ vít bắt qua ổ cối nhân tạo vào xương

chậu có thể là con đường xâm nhập của các mảnh vỡ polyethylene, kích thích
quá trình tiêu xương quanh ổ cối, gây lỏng khớp và phải thay lại ổ cối.
1.3. Các phương pháp đánh giá khớp háng toàn phần :
1.3.1. Đánh giá trên XQ:


12

12

Trong phẫu thuật thay khớp háng toàn phần, phim XQ đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc đánh giá trước và sau phẫu thuật. Phim chụp
khung chậu trước sau là bắt buộc trong theo dõi sau mổ. Chụp XQ sau phẫu
thuật là vô cùng cần thiết có vai trò quan trọng trong chẩn đoán liệu khớp
háng nhân tạo có bị xoay, ngửa… Phim XQ lấy trung tâm là khớp mu giúp
cho việc đánh giá toàn diện khớp háng: Chiều dài chi, đường ngang của tâm
xoay, độ nghiêng của ổ cối, vị trí chuôi, sự ổn định của chuôi và chảo.


13

13

Hình 1.2. Giải phẫu XQ khớp háng
a.

Chiều dài chi: Sự khác nhau về chiều dài chi sau khớp háng toàn phần là một
vấn đề thường gặp, lên tới khoảng 50% số bệnh nhân có sự sai khác về chiều
dài 2 chi khoảng hơn 1cm. Sự thiểu hụt khoảng dưới 1cm chiều dài chi được



14

14

cho là chấp nhận được và thích nghi tốt ở bệnh nhân. Đo chiều dài chi được
thực hiện trên phim khung chậu thẳng nhờ vào 2 đường tham chiếu đùi và
khung chậu. Đường tham chiếu của khung chậu là đường nối giữa hai điểm
hình “ giọt nước “ trên phim khung chậu ( điểm này được hình thành bởi lớp
sụn tiếp khớp giữa xương ngồi và xươn mu. Còn đường tham chiếu xương đùi
thường được sử dụng là đường nối giữa 2 mấu chuyển bé. Đường đo chiều dài
xương đùi là đường nối giữa 2 đường tham chiều này ở cả 2 đùi. Một khớp
háng được đặt cao gây ra hậu quả là ngắn chi tuy nhiên ít chịu ảnh hưởng của
sự co kéo cơ, mặt khác khớp háng được đặt thấp làm dài chi và chịu nhiều lực
co kéo hơn nên làm tăng nguy cơ hỏng [1817].

Hình 1.3. Đo chiều dài chi
b.

Đường ngang của tâm xoay: Đường ngang của tâm xoay được tính bằng cách
đo khoảng cách từ tâm của chỏm đến điểm “ giọt nước”. Như vậy ta có 2
đường ngang tâm xoay 2 bên. Mặt khác, hệ thống gân và dây chằng giúp giữ
chỏm xương đùi nằm trong ổ cối đi từ phía bên vào trung tâm của chỏm. Nếu
phẫu thuật viên không thể đặt ổ cối nhân tạo vào đúng vị trí thì những dây
chằng này sẽ đi ngang qua tâm quay của chỏm xương đùi. Sự co kéo cơ sẽ có


15

15


xu hướng kéo chỏm ra khỏi khổi ổ, tăng nguy cơ hỏng khớp, hoặc thậm chí
khiến bệnh nhân đi khập khiễng [1817].

Hình 1.43. Đường ngang tâm xoay
c.

Độ nghiêng của ổ cối: Độ nghiêng của ổ cối được tính là góc tạo bởi mặt
phẳng chảo và đường ngang. Người ta đo góc này bằng cách kẻ 2 đường
thẳng, đường thứ nhất đi qua 2 mấu chuyển bé, đường thứ hai đi qua 2 góc
ngoài của ổ cối. Góc nghiêng này nằm trong khoảng từ 30 – 50 độ. Góc nhỏ
hơn 30 độ làm cho KHTP vững chắc hơn nhưng lại hạn chế gấp, ngược lại,
góc lớn hơn 50 độ làm tăng nguy cơ di lệch [1817].

Hình 1.54. Độ nghiêng của ổ cối
d.

Vị trí của chuôi:Mục tiêu đặt vị trí chuôi trong KHTP là sao cho chuôi ở vị trí
trung gian với trục chi. Trên phim khung chậu thẳng, chuôi cần thẳng hàng
với trục dọc và đầu chuôi phải ở giữa. Chuôi được coi là valgus khi đầu trên
chuôi hướng ra nội cốt mạc ngoài và đầu dưới hướng vào nội cốt mạc trong.


16

16

Chuôi varus thì ngược lại. Chuôi Valgus nhìn chung không có vấn đề đáng kể,
e.


tuy nhiên quá varus sẽ làm tăng nguy cơ gãy lỏng khớp [1817].
Sự ổn định của chuôi và chảo:
Engh CA và cộng sự dựa trên nghiên cứu XQ của 1005 trường hợp
thay khớp háng toàn phần không xi măng sau 2 năm, với các kiểu chuôi
không xi măng khác nhau đã đưa ra các dấu hiệu về sự thay đổi cấu trúc
xương xung quanh chuôi khớp không xi măng và rút ra kết luận về khả
năng ổn định chuôi khớp. Dựa vào các dấu hiệu thay đổi cấu trúc xương tại
calcar, lún hay di chuyển chuôi khớp, ông đã đưa ra bảng xác định khả
năng ổn định chuôi khớp [1918].

Hình 1.65. Đánh giá sự ổn định chuôi khớp trên XQ [1212]

Hình 1.76. Lún chuôi khớp không vững, bề mặt quanh chuôi xấu [1212]


17

17

Hình 1.87. Bệ xương [1212]

Hình 1.98. Tiêu xương quanh chuôi
[1212]

Hình 1.109. Phì đại và hao mòn Hình 1.110. Các hạt kim loại tách ra khỏi
calcar [1212]
bề mặt chuôi [1212]
Đánh giá khả năng cố định chuôi khớp theo Engh CA
Xuất hiện đường thấu xạ
canh vùng bề mặt nhám

của chuôi

Có, trên 50%
-5,0

Không xác định
0

Không có
Không xác định
-2,5
0
Đánh giá khả năng ổn định chuôi khớp theo Engh CA
Xuất hiện đường thấu xạ
Có, trên 50% Không xác định
cạnh vùng bề mặt chuôi
-3,5
0
nhẵn
Mối hàn xương

Không có
+5,0

+5,0
Không có
+5,0


18


18

Có bệ xương khi đầu mút
chuôi khớp không cố
định khít chặt
Calcar
Bề mặt xương quanh
chuôi xấu
Di lệch chuôi
Hạt kim loại bị tách ra
khỏi bề mặt chuôi


-3,5

Không xác định
0

Không có
+2,5

Phì đại
-4,0

-2,5

-5,0

-5,0


Không xác định
0
Không xác định
0
Không xác định
0
Không xác định
0

Hao mòn
+3,0
Không có
+2,5
Không có
+3,0
Không
+1,0

Theo Engh CA:
-

Dưới -10 điểm là không vững, không ổn định
-10 đến 0 là không đạt, nhưng ổn định.
0 đến +10 là vững.
Trên +10 là có xương phát triển trên bề mặt chuôi.
Các dấu hiệu của sự phát triển xương lên trên bề mặt ổ cối không xi
măng được Moore MS miêu tả với 5 dấu hiệu:

-


Không có đường thấu xạ
Xuất hiện trụ xương bên ngoài
Xuất hiện stress chắc phía trong
Xuất hiện các bè xương nan hoa
Xuất hiện trụ xương dưới trong


19

19

Hình 1.1211. Đường thấu xạ: A- Ngay sau phẫu thuật, B- không có đường
thấu xạ nhiều năm sau mổ [201912]

Hình 1.1312. Trụ xương: A – ngay sau phẫu thuật, B – xuất hiện trụ trên
ngoài [201912]


20

20

Hình 1.1413. Stress shielding: A- Xơ hóa dưới sụn (mũi tên đen), B- stress
chắn (mũi tên trắng) [201912]

Hình 1.1514. Bè xương: A - Ngay sau phẫu thuật, B – Bè xương nan hoa
[201912]
Mỗi dấu hiện có giá trị đánh giá sự phát triển của xương lên bề mặt ổ cối
( dao động từ 92,2% đến 96,3%). Nếu có từ 3 đến 5 dấu hiệu cùng xuất hiện

thì khả năng phát triển của xương lên bề mặt khớp là 96,9%, độ nhạy là
89,6%, độ đặc hiệu 76,9%. Năm dấu hiệu này có độ tin cậy để đánh giá sự
phát triển của xương lên bề mặt ổ cối, đặc biệt khi phối hợp với nhau [2019].
1.3.2. Đánh giá kết quả phẫu thuậtphục hồi chức năng:
Vận động của khớp háng cần thiết cho rất nhiều hoạt động chứ không chỉ
riêng hoạt động đi lại. Trên thực tế, tầm vận động của khớp háng đối với hoạt
động đi lại ít hơn so với các hoạt động thương ngày khác như là: đi giày, ngồi,


21

21

đứng lên từ ghế, và bê vác các vật nặng từ dưới đất. Một khớp háng lý tưởng
có thể gấp 1200, khép 200 và xoay 200.[1313].
Hoạt động

Tầm vận động cần thiết
Đi giày
Gấp 120o
Ngồi (với ghế có chiều cao trung Gấp 112o
bình)
Cúi
Gấp 1250
Ngồi xổm
Gấp 1150, khép 200, xoay trong 200
Lên cầu thang
Gấp 670
Xuống cầu thang
Gấp 360

Đặt bàn chân lên đùi đối diện
Gấp 1150, khép 200, xoay ngoài 200
Mặc quần
Gấp 900
Có nhiều phương pháp đánh giá kết quả phục hồi chức năng sau phẫu
thuật thay khớp háng toàn phần nói chung, trong đó có khớp háng toàn phần
không xi măng như: Bảng điểm của Merle D'Aubigné; Bảng điểm của Harris;
WOMAC; UCL; Bảng điểm khớp háng của Oxford; Bộ câu hỏi khớp háng và
gối của hội chấn thương chỉnh hình Mỹ…. Những phương pháp này có thể do
bác sỹ đánh giá hoặc đánh giá chủ quan của người bệnh. Có thể áp dụng song
song 2 – 3 thang điểm giúp đánh giá một cách khách quan hiệu quả điểm trị
của KHTPKXM. Trong nghiên cứu của chúng tôi sử dụng bảng điểm Harris
để đánh giá chức năng khớp háng và bảng điểm Oxford để người bệnh tự
lượng giá.
1.3.2.1. Bảng điểm Harris ( Harris hip score – HHS):
Bảng điểm Harris được xây dựng nhằm mục tiêu đánh giá kết quả của
phẫu thuật thay khớp háng, lượng giá chức năng khớp háng và hiệu quả của
các phương pháp điều trị. Nó lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1969 [2120].


22

22

Nội dung của bảng điểm này bao gồm các đánh giá về đau, chức năng,
tầm vận động và không có sự biến dạng chi:
-

Đau được lượng giá dựa trên các câu hỏi về mức độ, ảnh hưởng của nó lên
các hoạt động thương ngày, và bệnh nhân có phải sử dụng các loại thuốc giảm


-

đau hay không.
Các hoạt động chức năng được đánh giá bao gồm các hoạt động thương ngày
(sử dụng cầu thang, sử dụng các phương tiên giao thông công cộng, ngồi, đi
giầy, đi tất) và dáng đi (đi khập khiễng, cần những phương tiện hỗ trợ và

-

-

quãng đường đi bộ).
Tầm vận động được đo trong các động tác gấp, khép dạng, xoay trong và
xoay ngoài
Biến dạng chi đánh giá khi khớp háng bị gấp, khép, xoay và ngắn chi.
Bảng điểm bao gồm 10 mục với số điểm tối đa là 100: Đau (1 mục, 0- 44
điểm), chức năng (7 mục, 0 – 47 điểm), không biến dạng chi (1 mục, 4 điểm)
và tầm vận động (2 mục, 5 điểm) [2120].


23

23

1.3.2.2. Bảng điểm Oxford (Oxford hip score – OHS)
Bảng điểm Oxford được xây dựng nhằm đánh giá kết quả của thay khớp
háng toàn phần thông qua những câu hỏi dành cho những bệnh nhân được
thực hiện phẫu thuật này. Bảng điểm này lần đầu tiên được đưa ra vào năm
1996 [2221] và được cải tiến lại vào năm 2007 [2322].

Bảng điểm Oxford gồm có 6 câu hỏi về đau và 6 câu hỏi về chức ăng
liên quan đến các hoạt động hàng ngày như (đi bộ, mặc quần áo, giấc ngủ …)
Phiên bản năm 1996 đánh giá mức độ từ 1 – 5 điểm (tốt đến kém) với số
điểm từ 12 – 60 (12 điểm là tốt nhất) [2221]. Phiên bản cải tiến vào năm 2007
được đưa ra và nhận được sự ủng hộ từ tác giả với cách tính điểm từ 0 – 4
-

(kém đến tốt) cho mỗi câu hỏi, và số điểm tối đa là 48 [2322]. Trong đó:
>41 điểm: Rất tốt
34 – 41 điểm: Tốt
27 – 33 điểm: Khá
< 27: Kém
Theo nghiên cứu của Kalairajah và cs, đánh giá thang điểm Oxford sau 6
tháng có giá trị trong tiên lượng sớm bệnh nhân phải thay lại khớp háng.
Những bệnh nhân có số điểm kém sẽ tăng nguy cơ phải thay lại khớp háng
trong vòng 2 năm lên 7,6% so với nguy cơ chỉ 0,7% ở những bệnh nhân có
kết quả rất tốt [2423].
Thang điểm này đã được phát triển và cải tiến nhiều phiên bản tại Hà
Lan, Nhật, Đức và Pháp, và được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Sau này, khi
thay khớp gối và khớp vai phát triển, thang điểm này cũng được cải tiến để
đánh giá chức năng các khớp trên sau phẫu thuật [2524].


24

24

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là … bệnh nhân với … khớp háng toàn phần
không xi măng đã được chỉ định và tiến hành phẫu thuật thay khớp háng toàn
phần không xi măgn lần đầu tại Bệnh viện Việt Đức từ tháng 1 năm 2010 đến
đến tháng 6 năm 2011.
Lựa chọn bệnh nhân:
-

Lựa chọn tất cả các bệnh nhân thay khớp háng toàn phần không xi măng trong
khoảng thời gian trên không tính đến sự khác loại chuôi khớp, loại ổ cối khác

-

nhau.
Các bệnh nhân được chỉ định mổ thay khớp háng toàn phần vào khớp phía sau

-

bên hoặc phía bên trực tiếp theo Harding.
Bệnh nhân thực hiện đúng phác đồ điều trị, tái khám đầy đủ theo hẹn.
Tiêu chuẩn loại trừ:

-

Các bệnh nhân không thay khớp háng toàn phần.
Bệnh nhân thay lại khớp.
Bệnh nhân không tái khám.
Bệnh nhân không liên lạc được, hoặc không chụp được phim XQ đánh giá lại
sau 5 năm

2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Qui trình nghiên cứu được tiến hành theo các bước sau đây:

-

Lựa chọn bệnh nhân đã được phẫu thuật thay khớp háng toàn phần không xi
măng đáp ứng đủ các yêu cầu kể trên.


25

25

-

Đánh giá kết quả phục hồi chức năng theo bảng điểm Harris ( Harris hip

-

score).
Người bệnh tự đánh giá chức năng khớp háng của mình theo thang điểm

-

Oxford ( Oxford hip score)
Bệnh nhân được chụp phim XQ khung chậu thẳng, XQ đùi với kích thước
thật và đánh giá XQ so sánh với phim XQ ngay sau mổ.
2.2.1. Đánh giá kết quả phục hồi chức năng:
- Đánh giá đặc điểm bệnh nhân: Tuổi, giới, nguyên nhân phẫu thuật thay

khớp háng toàn phần không xi măng, bệnh mạn tính kèm theo, thời gian mắc
bệnh, thời gian mổ, thời gian tập đi sau mổ, thời gian điều trị tại bệnh viện.
- Đánh giá chức năng khớp háng sau phẫu thuật 5 năm theo bảng điểm
Harris [1313].
Thang điểm chức năng khớp háng theo Harris
Đau: ( 44 điểm ):
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Không đau
Đau nhẹ, đau khi có cơ hội , không ảnh hưởng đến hoạt động
Đau không ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường, đau sau các vận
động không thường xuyên, hoặc phải dùng aspirin
Đau mức độ trung bình, có thể chịu đựng được, đôi khi phải dùng
codein
Đau nhiều, hạn chế vận động nhiều
Tàn tật

44
40
30
20
10
0



×