Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THỰC HÀNH của cán bộ y tế TRONG xử lý CHẤT THẢI rắn y tế và một số yếu tố LIÊN QUAN tại BỆNH VIỆN tâm THẦN TỈNH VĨNH PHÚC năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.58 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

LÊ GIANG LINH

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CỦA
CÁN BỘ Y TẾ TRONG XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN
TÂM THẦN TỈNH VĨNH PHÚC NĂM 2018
Chuyên ngành : Quản lý bệnh viện
Mã số
: 60720701
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS VŨ KHẮC LƯƠNG

HÀ NỘI - 2018


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CT

: Chất thải

CTR

: Chất thải rắn


CTRYT

: Chất thải rắn y tế

CTYT

: Chất thải y tế

CTYTNH

: Chất thải y tế nguy hại

CBYT

: Cán bộ y tế


MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN.................................................................................3
1.1. Một số khái niệm về chất thải y tế..........................................................3
1.2. Phân loại chất thải y tế............................................................................4
1.2.1. Phân loại chất thải y tế.....................................................................4
1.2.2. Phân loại chất thải y tế tại Việt Nam................................................5
1.3. Thực trạng kiến thức, thực hành về xử lý chất thải rắn y tế....................8
1.3.1. Kiến thức, thực hành trong xử lý chất thải y tế trên thế giới............8
1.3.2. Kiến thức, thực hành trong xử lý chất thải y tế tại Việt Nam.........10
1.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành trong xử lý chất thải
y tế:......................................................................................................13

1.5. Đặc điểm của Bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc..............................17
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...................18
2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu..................................................................18
2.3. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................19
2.4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................19
2.4.1.Thiết kế nghiên cứu.........................................................................19
2.4.2. Cỡ mẫu nghiên cứu........................................................................20
2.5. Biến số và chỉ số nghiên cứu................................................................20
2.6. Một số tiêu chuẩn đánh giá, phân loại trong nghiên cứu......................25
2.6.1. Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức, thực hành của cán bộ y tế.............25
2.6.2. Tiêu chuẩn phân loại theo thời gian công tác.................................26
2.7. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu.............................................26
2.7.1. Đánh giá kiến thức của cán bộ y tế................................................27
2.7.2. Đánh giá thực hành của cán bộ y tế................................................27
2.8. Xử lý và phân tích số liệu.....................................................................28
2.9. Sai số và cách khắc phục sai số.............................................................29


2.10. Khía cạnh đạo đức của nghiên cứu.....................................................29
2.11. Hạn chế của nghiên cứu......................................................................30
Chương 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..........................................31
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu............................................31
3.2. Kiến thức quản lý về phân loại, thu gom chất thải rắn y tế...................32
3.3. Quan sát thực hành về phân loại chất thải rắn y tế................................33
3.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phân loại và thu gom
chất thải rắn y tế tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018.......36
3.4.1. Kiến thức về phân loại, thu gom CTRYT tại Bệnh viện Tâm thần
tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018............................................................36
3.4.2. Thực hành về phân loại, thu gom CTRYT tại bệnh viện tâm thần
tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018............................................................38

Chương 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN.................................................................40
4.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu...............................................40
4.2. Kiến thức về quản lý chất thải rắn y tế của cán bộ y tế tại bệnh viện
Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018....................................................40
4.3. Thực hành về quản lý chất thải rắn y tế của cán bộ y tế tại bệnh viện
Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018....................................................40
4.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành trong quản lý chất
thải rắn y tế của cán bộ y tế bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc năm
2018.....................................................................................................40
DỰ KIẾN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Hiện trạng thu gom, phân loại chất thải y tế tại các bệnh viện trên
địa bàn Thành phố Hà Nội năm 2010...........................................11
Bảng 2.1: Các biến số và chỉ số nghiên cứu..................................................20
Bảng 3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu.........................................31
Bảng 3.2. Kiến thức cơ bản về chất thải y tế................................................32
Bảng 3.3. Kiến thức về mã màu, dán nhãn túi, thùng đựng CTRYT............33
Bảng 3.4. Kiến thức về tiêu chuẩn, yêu cầu của dụng cụ đựng CTYT.........33
Bảng 3.5. Kiến thức về quy trình phân loại, thu gom CTY T tại các khoa, phòng......34
Bảng 3.6. Quan sát thực hành về phân loại CTRYT khi thực hiện quy trình
tiêm truyền....................................................................................35
Bảng 3.7. Tuân thủ thực hành chung thu gom CTRYT...............................35
Bảng 3.8. Mối liên quan giữa trình độ chuyên môn với kiến thứcvề quản lý CTYT. .36
Bảng 3.9. Mối liên quan giữa nhóm tuổi với kiến thức về quản lý CTYT...36
Bảng 3.10. Mối liên quan giữa giới tínhvới kiến thức về quản lý CTYT.......36
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa bộ phận công tác với kiến thức về quản lý

CTRYT.........................................................................................37
Bảng 3.12. Mối liên quan giữa thâm niên công tác với kiến thức về quản lý CTYT. .37
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa tham gia các khóa đào tạo với kiến thức về
quản lý CTYT...............................................................................37
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa trình độ chuyên môn với thực hành về phân
loại CTRYT..................................................................................38
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa nhóm tuổi với thực hành về phân loại CTRYT....38
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa giới tính với thực hành về phân loại CTRYT.....38
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa bộ phận công tác với thực hành về phân loại CTY 39
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa thâm niên công tác với thực hành về phân loại CTYT. 39
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa tham gia các khóa đào tạo với thực hành về
phân loại CTYT...........................................................................39
Bảng 3.20. Liên quan giữa kiến thức với thực hành về phân loại CTRYT.. .39


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Khung lý thuyết của nghiên cứu....................................................18


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày nay, kinh tế xã hội phát triển thì nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của
người dân càng ngày càng được nâng cao. Để đáp ứng nhu cầu đó, các cơ sở y
tế cũng gia tăng một cách nhanh chóng cả về số lượng lẫn quy mô. Tính đến
2012, trên cả nước có 35 226 cơ sở y tế (trong đó có 1065 bệnh viện, 1081
trung tâm y tế, 998 phòng khám đa khoa và ngoài ra còn có các trạm y tế) [1].
Từ các hoạt động chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế, lượng rác thải y tế
phát sinh tại đây cũng ngày càng tăng theo thời gian. Theo thống kê, mức tăng

chất thải y tế hiện nay là 7,6%/năm. Ước tính đến năm 2020 lượng chất thải
rắn y tế (CTRYT) phát sinh sẽ là 800 tấn/ngày. Trong đó có từ 10 - 25% là
chất thải nguy hại [2], nó chứa các tác nhân vi sinh, chất phóng xạ, hóa chất,
các kim loại nặng và các chất độc gây đột biến tế bào là dạng chất thải có thể
gây những tác động tiềm tàng tới môi trường và sức khỏe cộng đồng, đặc biệt
là cán bộ y tế, nhưng người phải tiếp xúc trực tiếp hàng ngày[1].
Tại Việt Nam, nhận thức của cộng đồng nói chung và cán bộ y tế nói
riêng về những nguy cơ tiềm ẩn trong chất thải bệnh viện còn kém. Phương
tiện thu gom, vận chuyển chất thải còn thiếu, chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt
tiêu chuẩn, chỉ có 53% số bệnh viện sử dụng xe có nắp đậy khi vận chuyển
chất thải y tế nguy hại [3].
Bệnh viện tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập và đi vào hoạt động
từ năm 2006. Năm 2017, bệnh viện đã khám, điều trị cho 12000 lượt bệnh
nhân, trong đó có 11000 bệnh nhân nằm nội trú. Đồng thời bệnh viện thường
xuyên tổ chức các chương trình y tế cộng đồng tới 137 xã, phường, thị trấn,
trên 5000 bệnh nhân. Hiện nay, bệnh viện đang tập trung phát triển chuyên
môn, nâng cấp cơ sở hạ tầng của các khu điều trị, nên. nên trang bị và cơ sở


2
vật chất, hạ tầng phục vụ quản lý CTRYT còn nhiều hạn chế như: Kho lưu giữ
chất thải chưa được đảm bảo; các thùng đựng chất thải còn thiếu về màu sắc.
Vẫn còn tồn tại tình trạng CBYT chưa thực hiện đúng quy định về quản lý
chất thải như: Phân loại sai; xử lý ban đầu chưa đúng; thu gom, vận chuyển
chưa đảm bảo. Trong khi đó, các khoa lâm sàng là nơi trực tiếp khám và điều
trị cho bệnh nhân, môi trường khám chữa bệnh cần phải đảm bảo sạch sẽ, vệ
sinh, không lan truyền. Xử lý chất thải y tế tốt sẽ góp phần giảm thiểu được
sự lãng phí về kinh tế cho bệnh viện và đồng thời giảm được nguy cơ rủi do
cho CBYT liên quan. Để xử lý chất thải y tế tốt thì CBYT cần có kiến thức,
thực hành tốt về vấn đề đó. Vậy câu hỏi đặt ra là thực trạng kiến thức, thực

hành của CBYT trong bệnh viện về xử lý CTYT ra sao? Có những y tế tố nào
tác động đến kiến thức, thực hành của CBYT về vấn để đó. Để trả lời cho câu
hỏi đó, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng kiến thức, thực hành
của cán bộ y tế trong xử lý chất thải rắn y tế và một số yếu tố liên quan tại
Bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018”.Với 2 mục tiêu:
1.

Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành của CBYT trong xử lý chất
thải rắn tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018.

2.

Phân tích một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thực hành của
CBYT trong xử lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện Tâm thần tỉnh
Vĩnh Phúc năm 2018.


3


4

Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. Một số khái niệm về chất thải y tế
Chất thải (CT): Là những vật chất được thải bỏ sinh ra trong quá trình
hoạt động sản xuất, ăn uống, sinh hoạt của con người.
Chất thải rắn (CTR): Là tất cả chất thải không phải nước thải và khí thải.
Chất thải y tế (CTYT): Là tất cả vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải

ra từ các cơ sở y tế, bao gồm chất thải thông thường và chất thải nguy hại
Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa chất thải y tế là tất cả các loại chất thải
phát sinh trong các cơ sở y tế, bao gồm cả các trung tâm nghiên cứu, phòng
thí nghiệm và các hoạt động y tế tại nhà.
Chất thải rắn y tế (CTRYT): Là chất thải ở thể rắn phát sinh từ các
hoạt động chẩn đoán, xét nghiệm, khám chữa điều trị, các nghiên cứu liên
quan…bao gồm chất thải thông thường và chất thải nguy hại.
Chất thải y tế nguy hại (CTYTNH): Là chất thải chứa yếu tố nguy hại
cho sức khỏe con người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng
xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất
thải này không được tiêu hủy hoàn toàn. Chất thải y tế nguy hại chiếm 10-25%
tổng lượng chất thải y tế [4].
Chất thải y tế thông thường: Là chất thải không gây ra những vấn đề
nguy hiểm đặc biệt cho sức khỏe con người và môi trường. Chất thải thông
thường được coi là tương đương với chất thải sinh hoạt và thường phát sinh ở
các khu hành chính từ các hoạt động lau dọn, vệ sinh hàng ngày của các bệnh


5
viện. Chất thải y tế thông thường chiếm từ 75-90% tổng lượng chất thải y tế
[5], [6].
1.2. Phân loại chất thải y tế
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều cách phân loại với các quan điểm
khác nhau của các nhà quản lý.Tuy nhiên tất cả các cách phân loại đều dựa
vào tính chất vật lý, hóa học, sinh học nguy hại của chất thải gây ảnh hưởng
tới sức khỏe và môi trường sống.
1.2.1. Phân loại chất thải y tế
Chất thải y tế được phân làm 7 loại
- Chất thải nhiễm trùng: Là chất thải có chứa mầm bệnh như vi khuẩn, vi
rút, ký sinh trùng với số lượng đủ để gây bệnh cho những người dễ bị cảm nhiễm.

+ Môi trường nuối cấy từ phòng thí nghiệm.
+ Rác từ phòng mổ nhất là phòng mổ tử thi và bệnh nhân bị nhiễm trùng.
+ Rác từ phòng cách ly bệnh nhân bị nhiễm trùng.
+ Súc vật được tiêm truyền trong phòng thí nghiệm
+ Dụng cụ hoặc vật tiếp xúc với bệnh nhân bị truyền nhiễm.
+ Chất thải sắc nhọn có thể rách hoặc làm tổn thương da như: dao mổ,
kim tiêm…
- Thuốc thải loại: Gồm thuốc quá hạn, vắcxin huyết thanh kể cả chai lọ
đựng chúng…
- Chất thải có độc tính với tế bào: Có thể làm biến đổi gen, gây quái
thai như các thuốc chống ung thư
- Hóa chất có thể dưới dạng rắn, lỏng, khí.
- Rác chứa kim loại nặng, độc như chì, thủy ngân
- Các bình chứa khí nén: Bình Oxy…
- Chất phóng xạ: như tia Xquang…[7],[8]


6
1.2.2. Phân loại chất thải y tế tại Việt Nam
* Phân loại theo dạng tồn tại của chất thải
Tùy theo dạng tồn tại, CTYT được chia thành 3 loại:
Chất thải rắn y tế.
Nước thải y tế
Chất thải khí y tế
- Chất thải rắn y tế:
Chất thải rắn y tế (CTRYT) là chất thải ở thể rắn phát sinh từ các hoạt
động chẩn đoán, xét nghiệm, khám chữa điều trị, các nghiên cứu liên quan…
bao gồm chất thải thông thường và chất thải nguy hại.
Chất thải rắn y tế sau khi phát sinh tại các nguồn được phân loại, thu
gom, sau đó được vận chuyển nội bộ đến nơi lưu giữ tại các cơ sở y tế. Tiếp

theo tùy vào tính độc hại, chất thải sẽ được xử lý tại chỗ hoặc vận chuyển đến
các cơ sở có khả năng xử lý an toàn và cuối cùng sẽ được tiêu hủy.
- Nước thải y tế : Nước thải y tế là nước thải phát sinh từ các hoạt động
chăm sóc và sinh hoạt tại các cơ sở y tế.
- Chất thải khí y tế: Chất thải khí y tế là khí phát sinh từ các phòng xét
nghiệm, kho hóa chất, dược phẩm, các thiết bị sử dụng khí hóa chất độc hại
tại các cơ sở y tế và lò đốt chất thải rắn y tế.
* Phân loại theo thành phần và tính chất nguy hại
Căn cứ vào đặc điểm lý học, hóa học, sinh học và tính chất nguy hại,
chất thải trong các cơ sở y tế được phân thành 5 nhóm sau:
Chất thải lây nhiễm;
Chất thải hóa học nguy hại;


7
Chất thải phóng xạ;
Bình chứa áp suất;
Chất thải thông thường.
- Chất thải lây nhiễm
Chất thải lây nhiễm là loại chất thải chứa các mầm bệnh (vi khuẩn,
virus, kí sinh trùng hoặc nấm) có khả năng gây bệnh cho con người.
Chất thải lây nhiễm được phân thành 4 loại, bao gồm:
+ Chất thải sắc nhọn (loại A): Là chất thải chọc thủng hoặc gây ra các
vết cắt, có thể nhiễm khuẩn, gồm: Bơm kim tiêm, lưỡi dao mổ, các ống
tiêm… và các vật sắc nhọn khác sử dụng trong các hoạt động y tế.
+ Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (loại B): Là chất thải thấm máu,
thấm dịch sinh học của cơ thể và các chất phát sinh từ buồng bệnh cách li: dây
truyền máu, dịch cơ thể và chất bài tiết của người bệnh, băng gạc… găng tay
cao su đã qua sử dụng.
+ Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao (loại C): Là chất thải phát sinh

trong các phòng xét nghiệm như bệnh phẩm và dụng cụ đựng, dính bệnh
phẩm, túi đựng máu, hống cầu, huyết tương.
Chất thải phát sinh từ buồng bệnh nhân truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm:
Mọi chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách li (bệnh nhân SARS, cúm A…).
+ Chất thải giải phẫu (loại D): Bao gồm các mô bệnh phẩm của cơ thể
(dù nhiễm khuẩn hay không nhiễm khuẩn); Các cơ quan, bộ phận cơ thể
người; Rau thai, bào thai.
- Chất thải hóa học nguy hại


8
+ Chất thải dược phẩm bao gồm: Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất
không còn khả năng sử dụng, dược phẩm bị nhiễm khuẩn, các loại huyết
thanh, vắc xin sống giảm độc lực cần thải bỏ…
+ Chất hóa học nguy hại sử dụng trong y tế như: Các hóa chất khử
khuẩn sử dụng để làm sạch và khử trùng thiết bị… Các chất quang hóa học,
hóa chất vô cơ.
+ Chất thải chứa chất gây độc tế bào: Thuốc gây độc tế bào được sử
dụng trong quá trình điều trị ung thư và ghép tạng. Các chất gây độc tế bào có
thể tồn tại trong nước tiểu, phân, nôn từ các bệnh nhân được xét nghiệm hoặc
điều trị ít nhất 48h cho đến 1 tuần sau khi tiêm thuốc. Các chất gây độc tế bào
rất nguy hiểm có thể gây đột biến gen, quái thai và ung thư.
+ Chất thải chứa kim loại nặng: Là những hóa chất nguy hiểm, có độc
tính cao như thủy ngân, chì hay một số thuốc có chứa thạch tín.
- Chất thải phóng xạ
Chất thải phóng xạ: Gồm các chất thải phóng xạ rắn, lỏng và khí phát
sinh từ các hoạt động liên quan đến bệnh nhân trong quá trình sử dụng hạt
nhân, phóng xạ để chẩn đoán và điều trị như các chất bài tiết, nước rửa tay;
các đồ dùng cá nhân như cốc, quần áo…
- Bình chứa áp suất

Bao gồm bình đựng Oxy, bình ga, bình khí dung. Đặc điểm chung của
các bình chứa áp suất là tính trơ, ở điều kiện thường không gây nguy hiểm,
nhưng dễ gây cháy, nổ khi thiêu đốt hay bị thủng.
- Chất thải y tế thông thường
Chất thải y tế thông thường phát sinh từ các khu hành chính với các
hoạt động lau dọn, vệ sinh hàng ngày của cơ sở y tế. Chất thải y tế thông
thường gồm:


9
+Chất thải sinh hoạt phát sinh từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh
cách ly).
+ Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai lọ
thủy tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gãy xương
kín. Những chất thải này không dính máu, dịch sinh học và các chất hóa học
nguy hại.
+ Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: Giấy, báo, tài liệu,
vật liệu đóng gói, thùng cát tông, túi ni lông, túi đựng phim…
+ Chất thải ngoại cảnh: Lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh.
1.3. Thực trạng kiến thức, thực hành về xử lý chất thải rắn y tế
1.3.1. Kiến thức, thực hành trong xử lý chất thải y tế trên thế giới
Trên thế giới, công tác quản lý, xử lý CTYT được nhiều quốc gia quan
tâm và tiến hành một cách triệt. Về quản lý, xử lý CTYT họ có một loạt
những chính sách quy định, đã được ban hành nhằm kiểm soát chặt chẽ loại
chất thải này. Các hiệp ước quốc tế, các nguyên tắc, pháp luật và quy định về
loại chất thải nguy hại, trong đó có cả chất thải y tế cũng đã được công nhận
và thực hiện hầu hết các quốc gia trên thế giới bởi CTYT có nguy cơ tiềm ẩn
có thể gây hại tới môi trường và con người.
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về
lĩnh vực chất thải y tế như quản lý nguồn phát sinh, phân loại, thu gom, vận

chuyển và xử lý chất thải y tế, hay các biện pháp làm giảm thiểu, tái sử dụng
chất thải y tế [9].
Tại một cơ sở giảng dạy nha khoa ở Ấn Độ, khi đánh giá kiến thức và
nhận thức việc quản lý chất thải y tế của nhân viên y tế (NVYT) và sinh viên
y khoa cho thấy không có nhiều người chú ý đến việc quản lý chất thải nhưng
hầu hết các đối tượng đồng ý với thực tế rằng việc tiếp xúc với chất thải y tế


10
nguy hại có thể gây bệnh hoặc nhiễm trùng. Các kết quả kiểm tra cho thấy
kiến thức và trình độ nhận thức của các đối tượng là không đầy đủ và có sự
thay đổi đáng kể trong thực tế quản lý liên quan đến chất thải y sinh khi được
hỗ trợ về kiến thức. Vì vậy việc cung cấp kiến thức quản lý chất thải y sinh là
một nhu cầu rất lớn để tiếp tục giáo dục và đào tạo trong các chương trình tại
các cơ sở giảng dạy y khoa.
Theo Sarma RK, Shyama S Nagarajan và cộng sự khi nghiên cứu khác
về thái độ và hành vi xử lý chất thải y tế viện khoa học y tế Ấn Độ cho thấy:
Kiến thức đạt của nhà khoa học 86%, y tá 80%, nhân viên vệ sinh 71%. Thái
độ đúng của nhà khoa học 95%, y tá 100%, nhân viên vệ sinh 76%. Thực
hành tốt của nhà khoa học 82%, y tá 100%, nhân viên vệ sinh 48% [10].
Nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành của phân loại chất thải y
sinh học trong cán bộ y tế của bệnh viện cấp đại học ở Ấn Độ do Sanni và
cộng sự năm 2005 cho thấy: Kiến thức đúng của bác sỹ là 61%, điều dưỡng là
57%, thái độ đúng của bác sỹ là 70%, điều dưỡng là 98%, thực hành đúng của
bác sỹ là 77%, điều dưỡng là 100% [11] .
Kết quả nghiên cứu của Viện chăm sóc sức khỏe Johannesburg về Kiến
thức, thực hành của các bác sỹ và y tá do Basu Debashis, Ramokate Tuduetso
[12] cho thấy: Kiến thức đạt 98,5%, thực hành tốt đạt 95%.
Một nghiên cứu khác của Kishose J và cộng sự năm 2014 với đối tượng
là cán bộ y tế tại 116 viện dưỡng lão ở hai vùng phía Nam và phía Đông Ấn

Độ đã cho thaasy41,7% CBYT có kiến thức đúng về thu gom RTYT để đảm
bảo sức khoẻ, ngăn ngừa lây nhiễm cho cộng đồng. Nghiên cứu phân tích sâu
về kiến thức, thái độ, thực hành của cán bộ y tế đối với thu gom rác thải [13].
Một nghiên cứu kiến thức, nhận thức và thực hành tiêm an toàn và quản lý,
xử lý chất thải y tế trong giảng dạy nhân viên bệnh viện ở phía Đông nam Nigeria


11
do Enwere, Diwe [14] cho thấy: Chỉ có 45% vẫn đậy nắp kim tiêm sau sử dụng
nhưng không phân loại, 54% đã nghe hoặc nhìn thấy mầu hoặc mã thùng. Chỉ có
25% với chấn thương châm kim có điều trị dự phòng sau phơi nhiễm.
Với một nghiên cứu về kiến thức và thái độ, thực hành của nhân viên y
tế hướng tới quản lý chất thải tại Bệnh viện Đại học Cairo do tác giả Hakin,
Mohsen, Bakr [15] kết quả cho thấy: Y tá có điểm thực hành đạt 84%, bác sỹ
63%. Nghiên cứu nhận thức và thực hành về quản lý chất thải chăm sóc sức
khỏe giữa các nhân viên bệnh viện tại một bệnh viện Đại học y tế Bangalore
do Suwarna, Madhukumar, Ramesh và cộng sự [16] kết quả cho thấy: Nhận
thức đạt của bác sỹ 76,8%, của y tá 81,9%, nhận thức chung đạt là 95,8%.
Nghiên cứu phát triển một giao thức quản lý chất thải dựa trên đánh giá
về kiến thức và thực hành của nhân viên y tế tại các khoa phẫu thuật do
Mostafa, Shaly, Sharief [17] kết quả cho thấy: Chỉ có 27,4% y tá, 32,1% quản
gia và 36,8% các bác sỹ có kiến thức thỏa đáng. Liên quan đến thực hành
18,9% của các y tá, 7,1% của các quản gia và không ai trong các bác sỹ đã
thực hành đầy đủ.
Các kết quả của việc xem xét hiện tại cho thấy kiến thức và trình độ
nhận thức của các đối tượng là không đầy đủ và có sự thay đổi đáng kể trong
thực tế và quản lý, xử lý chất thải giữa các nghiên cứu khác nhau. Quản lý an
toàn và hiệu quả chất thải không chỉ là một điều cần thiết hợp pháp mà là một
trách nhiệm xã hội. Tiếp tục chương trình giáo dục và đào tạo các khóa học
ngắn hạn về lây nhiễm chéo và quả lý chất thải y sinh học là phương tiện

thích hợp của việc nâng cao kiến thức. Quản lý chất thải y sinh học phải được
thực hiện nghiêm túc và giám sát có hệ thống.


12
1.3.2. Kiến thức, thực hành trong xử lý chất thải y tế tại Việt Nam
Việc quản lý chất thải y tế ngày càng được xã hội quan tâm đặc biệt là
các chất thải có chứa mầm bệnh.Chất thải y tế nếu khôngđược quản lý, xử lý
tốt sẽ là nguồn lây nhiễmnguy hiểm cho con người. Để quản lý hiệu quản chất
thải y tế, cần thực hiện đồng bộ nhiều khâu từ khi chất thải phát sinh cần được
phân loại, thu gom, vận chuyển đến xử lý ban đầu và xử lý triệt để chất thải y
tế. Việc thu gom, phân loại ngay tại nguồn phát sinh chất thải và xử lý ban
đầu, đặc biệt là chất thải y tế nguy hại sẽ giảm thiểu được nguy cơ lây bệnh
cho NVYT và tiết kiệm rất lớn chi phí cho các cơ sở y tế. Để thực hiện được
điều này, giải pháp hiệu quả là tăng cường nhận thức và thực hành của nhân
viên y tế trong quản lý và xử lý chất thải y tế.
Thời gian gần đây qua thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà
nước về môi trường đã phát hiện một số bệnh viện chưa làm tốt công tác quản
lý, xử lý đã để một số nhân viên lợi dụng sơ hở đưa một số vật tư y tế đã qua
sử dụng bán ra bên ngoài để tái sử dụng dẫn đến không đảm bảo chất lượng,
vệ sinh gây ra những hậu quả khôn lường cho người tiêu dùng… Để xảy ra
điều này là do nhân viên y tế một phần do lợi ích cá nhân trước mắt, công tác
quản lý CTYT chưa được chặt chẽ, vấn đề tuyên truyền phổ biến chính sách
pháp luật về quản lý chất thải y tế cho cán bộ công nhân viên bệnh viện chưa
được thường xuyên. Để tăng cường công tác quản lý chất thải y tế trong bệnh
viện Bộ Y tế đã ra chỉ thị số 05/CT-BYT ngày 6/7/2015 về việc tăng cường
quản lý chất thải y tế trong bệnh viện.
Một nghiên cứu gần đây của Sở y tế Hà Nội tiến hành từ năm 2009 đến
2010 với 74 bệnh viện tại Hà Nội về thu gom, phân loại chất thải y tế cho thấy,
nhìn chung phần lớn các bệnh viện đều đã triển khai theo yêu cầu của quy chế



13
quản lý chất thải y tế về việc sử dụng bao bì, túi, thùng đựng theo mã màu quy
định, một số bệnh viện chưa thực hiện với lý do: nguồn kinh phí hạn chế…
Bảng 1.1. Hiện trạng thu gom, phân loại chất thải y tế tại các bệnh viện
trên địa bàn Thành phố Hà Nội năm 2010
Các yêu cầu theo quy chế quản lý chất thải y tế

Tỷ lệ tuân thủ

(%)
Túi đựng chất thải đúng quy cách về bề dày và dung tích
66,67
Túi đựng chất thải đúng quy cách về màu sắc
30,67
Túi đựng chất thải đúng quy cách về buộc đóng gói
81,33
Hộp đựng sắc nhọn đúng quy cách
93,9
Thùng đựng có nắp đậy
58,33
Thùng đựng có ghi nhãn
66,67
Hộp đựng vật sắc nhọn đúng quy cách
93,9
Nguồn: Số liệu thống kê trung bình của Sở y tế từ kết quả khảo sát 74
bệnh viện Hà Nội năm 2009- 2010.
Một nghiên cứu khác về kiến thức, thái độ hành vi của NVYT trong
thực hiện quy chế quản lý chất thải tại Bệnh viện Nhi đồng 2 năm 2008 do

Khúc Thị Kim Nguyệt và cộng sự [18] cho thấy: Kiến thức chung đạt 79,5%.
Thái độ đúng 83,1%. Hành vi tốt là 82,9%.
Kết quả nghiên cứu về thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và kiến
thức, thực hành của NVYT Bệnh viện đa khoa Đông Anh năm 2011 do Hoàng
Thị Thúy và cộng sự [19] cho thấy: Kiến thức chung đạt về quản lý chất thải
86.6%. Thực hành tốt phân loại chất thải 82.4%.Những người có kiến thức tốt
hơn thì thực hành tốt hơn.
Nghiên cứu thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành của NVYT trong
quản lý và xử lý chất thải y tế tại 10 bệnh viện khu vực phía Bắc do Nguyễn
Văn Chuyên và cộng sự năm 2012 cho thấy: Kiến thức đạt chiếm 79,4%, tỷ lệ
này ở bác sỹ là 82,4%, ở điều dưỡng là 76,8%. Thái độ đúng chiếm 75,6%, tỷ
lệ này ở bác sỹ là 79,2%, ở điều dưỡng 72,4%. Thực hành đạt là 71,9%, trong
đó ở bác sỹ là 76,8%, điều dưỡng là 67,8% [20].


14
Theo nghiên cứu của Trần Thị Kiệm năm 2012 về đánh giá thực trạng
thu gom và phân loại CTRYT tại bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, Hải Phòng
cho thấy 91,7% CBYT thực hành phân loại CTRYT, 91,6% thực hành đúng
về thu gom rác thải [21].
Một nghiên cứu khác về kiến thức, thái độ và thực hành của điều
dưỡng, hộ lý trong công tác phân loại và thu gom CTRYT tại bệnh viện II
Lâm Đồng của tác giả Hoàng Trung Lập và cộng sự năm 2013 cho thấy: Kiến
thức đạt của điều dưỡng là 99,4%, hộ lý là 97,4% [22].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hồng Điệp năm 2013 về
thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và một số yếu tố liên quan đến kiến thức,
thực hành của nhân viên y tế Bệnh viện đa khoa Thành phố Vinh cho thấy:
98,3% các khoa, phòng phân loại chất thải theo đúng quy định của Bộ Y tế,
96,7% thực hiện thu gom chất thải y tế đạt. Toàn viện chỉ có 13,3% sử dụng
dụng cụ bao bì đạt, 61% nhân viên hiểu được các khâu phân loại, 76,4% thực

hành phân loại đạt [23].
Qua kết quả nghiên cứu kiến thức, thực hành về phân loại, thu gom chất
thải rắn y tế của cán bộ điều dưỡng Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa năm
2014 của tác giả Hoàng Thị Định cho thấy 84% và 78,3% cán bộ điều dưỡng
có kiến thức và thực hành đạt về phân loại, thu gom chất thải rắn y tế [24].
Theo nghiên cứu của Chu Thị Luyến tại bệnh viện Tim Hà Nội cho
thấy có 89,5% CBYT có kiến thức đạt về quản lý chất thải nhưng chỉ có
81,5% thực hành đúng về phân loại rác thải khi tiêm, thay băng, có 6,9% thực
hành đúng khi phân loại chai, lọ đựng thuốc và chỉ có 75% CBYT thực hành
đúng thu gom chất thải [25].
Theo thông tin từ Cục quản lý môi trường - Bộ Y tế đưa ra tại Hội nghị
tập huấn công tác Quản lý chất thải y tế (tháng 4/2015). Theo đó tại 35 bệnh
viện tuyến Trung ương thì có 22 bệnh viện có hợp đồng với Công ty xử lý
chất thải rắn, còn 13 bệnh viện (37%) tự xử lý, có 6 bệnh viên chưa có hệ
thống xử lý nước thải mà xả trực tiếp ra môi trường đặc biệt số bệnh viện này


15
đều nằm trong nội thành và ở nơi đông dân cư ẩn họa trong đó là rất nhiều
mầm bệnh ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân.
Việc xử lý chất thải y tế đòi hỏi người đứng đầu cơ sở y tế phải có trách
nhiệm lớn trong việc ra quyết định xây dựng bể xử lý nước thải hay hợp đồng
với các công ty xử lý chất thải y tế. Việc tập huấn, nâng cao kiến thức, thực
hành trong công tác xử lý ban đầu cũng rất cần thiết.
1.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành trong xử lý chất
thải y tế:
Hầu hết các bệnh viện 90,9% chất thải rắn được thu gom hàng ngày, một
số bệnh viện có diện tích chật hẹp nên gây khó khăn trong việc thiết kế lối đi
riêng để vận chuyển chất thải. Chỉ có 53% số bệnh viện chất thải được vận
chuyển trong xe có nắp đậy. Có 53,4% bệnh viện có nơi lưu giữ chất thải có

mái che, trong đó có 45,3% đạt yêu cầu theo quy chế quản lý chất thải.
* Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo
Quá trình phân loại, thu gom, xử lý CTYT ở các bệnh viện chị ảnh
hưởng rất nhiều từ sự quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo bệnh viện. Khi có sự
quan tâm, ủng hộ của lãnh đạo bệnh viện thì việc đề xuất các khóa học, tập
huấn, việc trang bị những phương tiện làm việc cùng với trang bị bảo hộ lao
động được đầu tư hơn. Từ đó đảm bảo đầy đủ về nhân lực, vật lực và chi phí
để đảm bảo công tác xử lý đó sẽ đảm bảo đạt kết quả cao.
Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh
viện xây dựng đường lối, chính sách phát triển và vận hành hệ thống xử lý rác
thải tại bệnh viện. Mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn với các thành viên phần
lớn là cán bộ điều dưỡng trưởng các khoa, phòng có nhiệm vụ giám sát, đề
xuất các biện pháp quản lý chất thải y tế….
* Công tác kiểm tra, giám sát


16
Công tác kiểm tra giám sát có vai trò quan trọng trong công tác xử lý
rác thải tại bệnh viện. Việc giám sát phải diễn ra liên tục và thường xuyên, từ
nơi phát sinh, phân loại, thu gom và xử lý. Bộ phận được giao giám sát làm
tốt sẽ đảm bảo quá trình xử lý đó được diễn ra thuận lợi và hiện quả. Khoa
Kiểm soát nhiễm khuẩn của bệnh viện có nhiệm vụ chính trong công tác kiểm
tra, giám sát. Khoa có trách nhiệm phối hợp với điều dưỡng trưởng các khoa
kiểm tra, giám sát công tác quản lý và xử lý chất thải y tế… định kỳ báo cáo
lên Sở Y tế theo quy định.
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát không chỉ làm quá trình thực
hiện tốt hơn mà từ đó còn rút ra được những mặt thuận lợi và hạn chế trong
công tác xử lý rác thải để xây dựng kế hoạch tập huấn, bổ sung kiến thức,
thực hành nhằm đạt kết quả tốt hơn.


* Công tác tổ chức đào tạo, tập huấn
Do đặc thù ngành y tế, việc học tập, cập nhật kiến thức mới trong công
tác luôn được chú trọng và khích lệ. Nếu việc đào tạo, tập huấn không hoặc
chưa được triển khai sẽ có thể dẫn đến thiếu hụt kiến thức cho nhân viên y tế,
cũng như ảnh hưởng đến kết quả điều trị chăm sóc cho bệnh nhân.
Bên cạnh đó việc tập huấn kiến thức về phân loại, thu gom và xử lý rác
thải cho CBYT mới và các đối tượng học sinh, sinh viên đang học tập và công
tác tại viện cũng rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả công việc xử lý CTYT.
* Trình độ học vấn
Trình độ học vấn liên quan đến thời gian học tập và chương trình học
tập tại các cơ sở đào tạo về y tế. Theo đó, mỗi cấp học, mỗi trình độ học được
tiếp cận với mức độ kiến thức về y học nói chung và kiến thức xử lý CTYT


17
nói riêng. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành của CBYT trong việc
xử lý rác thải.
Theo nghiên cứu của Trần Thị Kiệm năm 2012 về đánh giá thực trạng
thu gom và phân loại CTRYT tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, Hải Phòng
trước đây cho thấy, tỷ lệ người trong nhóm có trình độ học vấn từ cao đẳng
trở lên có kiến thức và thực hành đúng trong phân loại, thu gom cao hơn
nhóm có trình độ học vấn là trung cấp [21].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Định năm 2015 về kiến thức,
thực hành về phân loại, thu gom CTRYT của cán bộ điều dưỡng Bệnh viện đa
khoa tỉnh Thanh Hóa và một số yếu tố liên quan năm 2014 cho thấy có sự liên
quan rõ rệt giữa trình độ học vấn và kiến thức, thực hành trong xử lý CYYT
[24].
* Giới tính
Do đặc thù, tính chất công việc của nghề điều dưỡng đòi hỏi người cán
bộ y tế phải nhẹ nhàng, tỷ mỉ, chu đáo nên công việc này thường thích hợp

với nữ giới hơn là nam giới
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Chuyên và cộng sự năm 2012,
nghiên cứu cho thấy nữ giới có tỷ lệ kiến thức đạt cao gấp 1,4 lần nam giới [23].
* Bộ phận công tác
Mỗi một bộ phận khác nhau sẽ liên quan khác nhâu đến sự phát sinh
CTYT. Từ đó thái độ với CBYT với xử lý rác thải cũng khác nhau.
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tĩnh năm 2012 về
kiến thức, thái độ, thực hành về xử lý chất thải y tế của nhân viên bệnh viện
huyện, tỉnh Kiên Giang và một số yếu tố liên quan cho thấy nhân viên y tế
thực hành đúng ở khối lâm sàng và cận lâm sàng chiếm tỷ lệ tương đối cao
tương ứng 76,8% và 89,5% so với khối hành chính là 66% [26].


18
* Thâm niên công tác
Thâm niên công tác trong ngành y tế cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến
kiến thức, thực hành của cán bộ y tế trong công tác phân loại, thu gom CTYT.
Theo nghiên cứu về thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và kiến thức
thực hành của nhân viên Bệnh viện đa khoa Đông Anh năm 2011 do Hoàng
Thị Thúy và cộng sự cho thấy: cán bộ y tế có thâm niên công tác trên 10 năm
thì có kiến thức không đạt cao gấp 2,08 lần so với cán bộ y tế có thâm niên
công tác từ 10 năm trở xuống [19].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Lại Thu Trang về thực trạng và một số
yếu tố liên quan đến công tác quản lý chất thải y tế tại Bệnh viện Hữu Nghị
Việt Tiệp, Hải Phòng năm 2012 cho thấy kiến thức về phân loại, thu gom chất
thải có mối liên quan chặt chẽ tới thời gian công tác tại bệnh viện. Người có
thời gian công tác càng lâu thì có kiến thức cao hơn so với những người có
thời gian công tác ít hơn [27].
* Tham gia các khóa đào tạo chuyên môn
Sự tham gia vào các khóa đào tạo, tập huấn về quản lý CTYT dẫn đến

những thay đổi về nhận thức, thực hành của cán bộ y tế trong công tác phân
loại, thu gom rác thải. Các nghiên cứu trước đây đều cho một phát hiện giống
nhau, đó là các nhân viên y tế tham gia các khóa đào tạo thì có kiến thức và
thực hành đạt cao hơn.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Chuyên và cộng sự năm
2011 tại 10 bệnh viện khu vực phía bắc trên đối tượng là bác sỹ, dược sỹ, y sỹ
và y tá, hộ lý cho thấy nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thiếu kiến thức,
thực hành quản lý và xử lý chất thải y tế sai của nhân viên y tế là trình độ học
vấn, thâm niên công tác, tập huấn, số lần tập huấn và thời gian tập huấn.
Những đối tượng có thâm niên công tác lâu năm, trình độ học vấn cao, được


19
tập huấn thường xuyên thì có kiến thức và thực hành về quản lý và xử lý chất
thải tốt hơn [23].
Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Văn Tĩnh năm 2012 tại ba
bệnh viện đa khoa: huyện Hòn Đất, huyện Châu Thành, huyện An Biên của
tỉnh Kiên Giang cho thấy có mối liên quan giữa tập huấn về CTYT với kiến
thức. Những NVYT chưa tập huấn quản lý CTYT có kiến thứckhông đạt cao
gấp 2,09 lần so với NVYT tham gia tập huấn [26].
1.5. Đặc điểm của Bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc
Bệnh viện tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập theo quyết định số:
5058/QĐ-UBND ngày 30 tháng 12 năm 2003 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc.
Trải qua nhiều năm khó khăn và chính thức thu dung điều trị người bệnh từng
bước đi vào hoạt động từ năm 2006 . Năm 2017, bệnh viện đã khám, điều trị
cho 12000 lượt bệnh nhân, trong đó có 11000 bệnh nhân nằm nội trú. Đồng
thời bệnh viện thường xuyên tổ chức các chương trình y tế cộng đồng tới 137
xã, phường, thị trấn, trên 5000 bệnh nhân.



×