Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử việt nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT là

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 81 trang )

Lời Cảm Ơn
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên, Th.S. Dương
Vũ Thái người đã tận tâm, tận tình hướng dẫn, động viên, giúp
đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Quý thầy
cô giáo Khoa Khoa học xã hội, Quý thầy cô giáo Trường Đại học
Quảng Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em bồi dưỡng tri
thức và hoàn thành khóa học của mình.
Thiết tha bày tỏ lòng tri ơn sâu nặng tới gia đình, là suối
nguồn niềm tin và khát vọng của em. Cảm ơn bạn bè đã chia sẻ,
động viên và giúp đỡ em trong suốt thời gian vừa qua.
Chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Trần Thị Thuận


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận tốt nghiệp Phát huy tính tích cực của học sinh trong
dạy học lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp
11 - THPT là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, các tài liệu và kết quả nghiên cứu trong

khóa luận là trung thực, được các độc giả cho phép và chưa từng công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác .
Tác giả

Trần Thị Thuận


BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT


CHỮ CÁI VIẾT TẮT

NGHĨA LÀ

CMTS

Cách mạng tư sản

CM XHCN

Cách mạng xã hội chủ nghĩa

DHLS

Dạy học lịch sử

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

NXB

Nhà xuất bản

PP


Phương pháp

PPDH

Phương pháp dạy học

SGK

Sách giáo khoa

SK

Sự kiện

SKLS

Sự kiện lịch sử

THPT

Trung học phổ thông

TTC

Tính tích cực

VD

Ví dụ


1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 3
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................ 7
7. Cấu trúc đề tài ................................................................................................ 8
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................ 9
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................... 9
1.1.1. Quan niệm về tính tích cực ....................................................................... 9
1.1.2. Ý nghĩa của việc phát huy tính tích cực của HS trong DHLS Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 – THPT
......................................................................................................................... 11
1.2. Thực tiễn phát huy tính tích cực HS ở trường THPT Ninh Châu ............... 11
1.2.1. Đối với giáo viên .................................................................................... 12
1.2.2. Đối với học sinh ..................................................................................... 13
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX ĐẾN
HẾT CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT (1918) Ở LỚP 11 THPT
......................................................................................................................... 16
2.1. Cơ sở để xác định PP dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS
Việt Nam đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11
THPT ............................................................................................................... 16
2.1.1. Vị trí, ý nghĩa của phần lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh

thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT...................................................... 16
2


2.1.2. Mục tiêu của phần lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh
thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT...................................................... 17
2.1.3. Nội dung lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT .................................................................. 18
2.1.4. Đặc điểm tâm lý và trình độ nhận thức của học sinh THPT .................... 18
2.1.5. Nguyên tắc khi sử dụng các PP nhằm pháp huy tính tích cực của học sinh
......................................................................................................................... 20
2.2. Phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT 22
2.2.1. Dạy học nêu vấn đề nhằm phát huy tính tích cực học sinh ...................... 22
2.2.2. Sử dụng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực học sinh ........................... 25
2.2.3. Sử dụng bài tập nhận thức nhằm phát huy tính tích cực học sinh ............ 26
2.2.4. Sử dụng đồ dùng trực quan nhằm phát huy tính tích cực học sinh .......... 29
2.2.5. Sử dụng SGK nhằm phát huy tính tích cực học sinh ............................... 31
2.2.6. Sử dụng tài liệu tham khảo nhằm phát huy tính tích cực HS ................... 35
2.3. Thực nghiệm sư phạm ............................................................................... 38
2.3.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm .............................................................. 38
2.3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm sư phạm ........................................... 38
2.3.3. Nội dung và PP thực nghiệm sư phạm .................................................... 39
2.3.4. Kết quả thực nghiệm............................................................................... 39
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 45
PHẦN PHỤ LỤC............................................................................................ 47
PHỤ LỤC 1..................................................................................................... 47
PHỤ LỤC 2..................................................................................................... 52


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử là quá khứ, là nơi chứa đựng giá trị văn hóa, là nguồn dữ liệu để tham
chiếu những kinh nghiệm cha ông ta vào sự phát triển hôm nay. Đó là hồn cốt,
truyền tải những giá trị truyền thống, mà nếu không có lịch sử không thể hiểu
được vị trí của hiện tại và định hướng cho tương lai, với ý nghĩa đó thì nếu lịch
sử còn thì văn hóa còn, và văn hóa còn thì dân tộc còn.
Mặc dù chứa đựng nhiều sự kiện bi tráng nhưng bản thân Lịch sử không có
lỗi, bởi đó là sự vận hành khách quan, có những sự kiện oai hùng nhưng cũng có
những bi thương vì đó là sự thật không thể thay đổi. Lịch sử là sự trung thực của
những sự thực khách quan và không ai có thể chọn lịch sử, mà nhờ lịch sử con
người và thời đại được định hình.
Dân tộc Việt Nam có lịch sử lâu đời, từ xưa nhân dân ta đã coi trọng việc
lấy lịch sử để giáo dục thế hệ trẻ. Lịch sử là cô giáo của cuộc sống, dạy lịch sử là
dạy làm người, dạy cho thế hệ trẻ giữ gìn phẩm giá, nhân cách con người, đồng
thời góp phần quan trọng vào việc nâng cao văn hóa cho học sinh. Trong cuốn
Lịch sử nước ta của chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta phải biết sử ta. Cho
tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Người dạy chúng ta phải học, phải hiểu, phải
biết cho tường tận, cụ thể gốc tích lịch sử nước nhà Việt Nam. Đây không chỉ là
lời kêu gọi mà còn là yêu cầu của Bác với toàn thể nhân dân Việt Nam, đặc biệt
là thế hệ học sinh phải hiểu rõ được lịch sử của dân tộc.
Điều đó đã cho chúng ta thấy, môn Lịch sử có vai trò hết sức quan trọng,
tuy nhiên hiện nay theo xu thế phát triển của thời đại thế hệ trẻ tiếp thu một cách
máy móc, thụ động kiến thức lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới. Học sinh
luôn coi bộ môn Lịch sử là môn học thuộc lòng, là môn phụ ít gây hứng thú. Chính
vì vậy mà các em học theo cách đối phó, kiến thức nắm được rất mờ nhạt. Đây là
một trong những nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút chất lượng dạy học bộ môn

Lịch sử.
Xuất phát từ thực trạng trên để giúp các em có hứng thú trong học tập lịch
sử. Sau mỗi bài giảng của giáo viên, học sinh có thể hiểu rõ bản chất và giải thích
3


được các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử, quy luật phát triển lịch sử dân tộc gắn liền
với lịch sử thế giới. Qua đó HS biết liên hệ với thực tế và nhận thức đúng đắn hơn
về bộ môn lịch sử. Đồng thời để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của việc đổi mới PP
dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay là phát huy tính tích cực, độc lập,
sáng tạo của học sinh. Với PP lấy người học làm trung tâm, giáo viên là người
hướng dẫn, chỉ đạo, tạo cơ hội cho các em thể hiện khả năng của bản thân trước
tập thể và tự tin hơn trong cuộc sống. Và để đạt được kết quả như trên trước hết
người giáo viên phải biết tạo cho học sinh có hứng thú với bộ môn lịch sử từ đó
phát huy tính tích cực của bản thân trong học tập để hiểu, ghi nhớ và vận dụng
kiến thức vào thực tiễn.
Như vậy, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung
và trong dạy học lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1918) nói riêng có ý nghĩa rất lớn với việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay.
Trên cơ sở đó, tôi quyết định chọn vấn đề “Phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế
giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Lịch sử vấn đề
Liên quan tới đề tài đã có một số công trình đề cập tới vấn đề phát huy tính
tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam.
GS. Phan Ngọc Liên trong tác phẩm “PP dạy học Lịch sử” đã nêu lên tầm
quan trọng của việc phát huy tính tích cực của học sinh thông qua việc phát triển
khả năng nhận thức và hành động cho học sinh học tập lịch sử ở trường phổ thông

trung học. Đã hệ thống được các PP dạy học nhằm nâng cao chất lượng học tập
môn lịch sử ở trường phổ thông.
Trong giáo trình “Nhập môn sử học”, các tác giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình
Tùng, Đặng Văn Hồ, Trần Quốc Tuấn đã dẫn dắt người học, người nghiên cứu
lịch sử đi từ những hiểu biết cơ bản về khoa học lịch sử đến PP học tập nghiên
cứu lịch sử. Đặc biệt ở chương IV trong phần thứ ba - PP học tập và nghiên cứu
4


lịch sử, tác giả cũng đã chỉ rõ một số vấn đề cơ bản trong học tập và nghiên cứu
lịch sử như tài liệu, sự kiện lịch sử, khái quát lí luận trên cơ sở tài liệu - sự kiện
nhằm tìm hiểu sâu sắc toàn diện lịch sử. Các tác giả xem việc phát huy tính tích
cực chủ động của HS yếu tố cần thiết nhất để tiếp cận những tri thức khoa học.
Tác giả Thái Duy Tuyên trong quyển “PP dạy học - truyền thống và đổi mới”,
khi nói về tính tích cực nhận thức của HS đã nhấn mạnh cần nhận thức những
điểm khác biệt giữa cách “dạy học truyền thống” và “dạy học tích cực”. Điều phân
biệt đầu tiên, quan trọng nhất các cách dạy học truyền thống chỉ hướng vào việc
“cung cấp sự kiện, nhớ tốt, đọc thuộc”, còn cách dạy học tích cực là “cung cấp
kiến thức cơ bản có chọn lọc”, cổ vũ HS tìm tòi, bổ sung kiến thức đã có.
Trong cuốn “Hệ thống thao tác sư phạm trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông trung học” của Kiều Thế Hưng đã nhấn mạnh hệ thống thao tác sư phạm
chính là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho cơ chế khoa học về phát
huy tính tích cực của học sinh được thực hiện. Đặc trưng cơ bản của thao tác sư
phạm “buộc” người giáo viên phải thường xuyên chú ý tới thao tác của trò, thường
xuyên khai thác tiềm năng sáng tạo của học sinh, thường xuyên kích thích tính
chủ động của học sinh.
GS. Nguyễn Thị Côi khi đề xuất “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu
quả DHLS ở trường phổ thông”, đã xây dựng hệ thống các con đường, biện pháp
nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường phổ thông, trong đó luôn nhấn mạnh
tới việc phát huy tính tích cực học sinh bằng việc sử dụng một cách đa dạng và

hợp lý các PP dạy học với nhau.
Công trình Luận văn Thạc sĩ của tác giả Mai Thị Hà “Thiết kế và sử dụng bài
tập nhằm phát huy tính tích cực của HS trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1919
đến 1945 (lớp 12 – THPT – chương trình chuẩn)” đã đề cập khá đầy đủ về những
vấn đề lý luận và một số nguyên tắc, PP sử dụng câu hỏi, bài tập nhằm phát huy
tính tích cực của HS.
Nhìn chung các tác phẩm nêu trên đã giải quyết được những vấn đề quan
trọng sau đây:
5


Thứ nhất, khẳng định tầm quan trọng của đổi mới PP dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh trong giảng dạy lịch sử.
Thứ hai, xây dựng các cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu vấn đề phát huy tính
tích cực của học sinh trong DHLS ở trường THPT.
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trên chủ yếu đặt ra những vấn đề mang
tính định hướng, chưa chỉ rõ các biện pháp sư phạm cụ thể cho việc phát huy tính
tích cực với từng đối tượng học sinh cụ thể hay với một khóa trình lịch sử cụ thể
trong chương trình hoặc từng bài học của SGK Lịch sử trường THPT.
Những kết quả nghiên cứu trên được tôi kế thừa, làm cơ sở lí luận và thực
tiễn cho việc nghiên cứu và giải quyết các nhiệm vụ do đề tài của mình đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khẳng định sự đúng đắn và cần thiết của việc phát huy tính tích cực của học
sinh trong DHLS ở trường THPT và đề xuất được các biện pháp sư phạm có tính
khoa học và khả thi cho việc phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11
THPT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sưu tầm, tập hợp tư liệu lý luận và tư liệu các PP phát huy tính tích cực của

học sinh trong DHLS.
- Xác định cơ sở lý luận, cơ cở thực tiễn về việc phát huy tính tích cực của
học sinh trong DHLS.
- Nghiên cứu nội dung chương trình SGK Lịch sử lớp 11 THPT (chương
trình Chuẩn).
- Điều tra nhằm tìm hiểu thực trạng việc phát huy tính tích cực của học sinh
trong DHLS.
- Đề xuất những nguyên tắc, biện pháp sư phạm để phát huy tính tích cực của
HS trong DHLS.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình “phát huy tính tích cực của học
sinh trong DHLS Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ
nhất (1918) ở lớp 11 THPT”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn vào việc tìm hiểu những vấn đề liên quan đến việc phát huy
tính tích cực của học sinh trong DHLS Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT đối với hình thức dạy học nội
khóa.
Để chứng minh tính khả thi của những biện pháp đưa ra, tôi tiếp tục tiến hành
điều tra, thực nghiệm sư phạm qua một số PP dạy cụ thể tại lớp 11 THPT, kết hợp
với tìm hiểu, quan sát, tham khảo ý kiến, thu thập thông tin trong quá trình thực
tập sư phạm ở trường THPT Ninh Châu, tỉnh Quảng Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác

– Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về giáo dục và giáo dục lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp toán học thống kê.
6. Đóng góp của đề tài
Những đóng góp chính của đề tài:

7


- Khẳng định lại một lần nữa vai trò, ý nghĩa của việc phát huy tính tích cực
của học sinh trong DHLS Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT.
- Làm rõ thực trạng việc phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11
THPT.
- Đề xuất được một số biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh trong DHLS Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần
thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT.
- Góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy học lịch sử.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài các mục Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, thì nội dung
chính của đề tài được trình bày trong 2 chương:
+ Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
+ Chương 2: Phương Pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS
Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp

11 THPT

8


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về tính tích cực
- Khái niệm tính tích cực:
Theo nghĩa từ điển: Tính tích cực là một trạng thái tinh thần có tác dụng
khẳng định và thúc đẩy.
Theo nghĩa thông thường: Tính tích cực được hiểu là một thái độ, tính tích
cực là: “Tỏ ra năng động hăng hái nhiệt tình đối với công việc”.
Khi nói đến khái niệm tính tích cực đã có rất nhiều tác giả đã nghiên cứu và
đưa ra nhiều quan điểm khác nhau như sau:
Theo các nhà tâm lý học: Okon cho rằng “Tính tích cực là lòng mong muốn
hành động được nảy sinh một cách không chủ định và gây nên những biểu hiện
bên ngoài hoặc bên trong của hoạt động”.
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan niệm về tính tích cực.
PGS.TS Vũ Hồng Tiến quan niệm: Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của
con người, bởi vì để tồn tại và phát triển con người chủ động tích cực cải biến lại
môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển thành một
trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục [35; 25 - 28].
GS. Trần Bá Hoành đã viết: “Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con
người trong đời sống xã hội. Khác với động vật, con người không chỉ tiêu thụ
những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn chủ động sản xuất ra những của cải vật
chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, sáng tạo nên nền văn hóa ở
mỗi thời đại, chủ động cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội” [14;40].

Như vậy, để tồn tại và phát triển thì con người không ngừng lao động, không
những nghiên cứu về sự vật hiện tượng xung quanh mình. Từ đó con người đã
phát hiện ra được nhiều điều mới lạ. Và để có thể phát triển xã hội thì mỗi người
phải rèn luyện để trở thành những người công dân có kiến thức, kỹ năng nghề
nhiệp, có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với bản thân, đối với xã hội. Để đạt được
9


điều đó, mỗi người phải tích cực, chủ động, sáng tạo. Tính tích cực được xem là
phẩm chất vốn có của con người, là năng lực tác động qua lại của con người với
môi trường xung quanh [2; 18].
- Tính tích cực học tập:
Hoạt động nhận thức của con người nói chung và hoạt động học tập của học
sinh nói riêng đều có những nét tương đồng, đều nhận thức hiện thực khách quan,
cách nhận thức mang tính chủ quan. Hoạt động nhận thức của học sinh cũng giống
như với nhà khoa học ở sự nghiên cứu tìm tòi khám phá. Song ở quá trình học tập
của học sinh luôn có sự hướng dẫn của giáo viên. Chính vì vậy, chúng ta có thể
khẳng định rằng bản chất của hoạt động học là quá trình nhận thức của học sinh
dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Theo GS. Trần Bá Hoành: Tính tích cực của con người biểu hiện trong hành
động, đặc biệt trong những hoạt động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo
ở lứa tuổi học sinh.
Tính tích cực học tập - về thực chất là TTC nhận thức, đặc trưng ở khát vọng
hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức.
Như vậy, khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình
nhận thức trong học tập không nhằm phát hiện ra những điều loài người chưa biết
mà nhằm lĩnh hội những tri thức loài người đã tích lũy được trước đó. Tuy nhiên,
trong học tập học sinh cũng phải khám phá ra những hiểu biết mối đối với bản
thân. Học sinh sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã nắm được qua hoạt động chủ
động, tự giác, nỗ lực của chính mình. Sự học tập tích cực sẽ giúp học sinh cũng

có thể làm ra những tri thức mới cho khoa học.
Tóm lại, TTC học tập là thái độ cải tạo của chủ thể với đối tượng nhận thức
thông qua sự huy động tới mức tối đa các chức năng tâm lý, trong đó có tính độc
lập, tư duy sáng tạo và toàn bộ nhân cách của chủ thể được phát triển. Bên cạnh
đó, tính tích cực còn vừa là mục đích, vừa là kết quả của hành động. Do đó chỉ có
thể hình thành và phát triển tính tích cực nhận thức cho học sinh thông qua quá
trình tổ chức các hoạt động nói chung và hoạt động học tập nói riêng dựa trên
những kiến thức kĩ năng, kĩ xảo của bản thân. Đây cũng là một phẩm chất, nhân
10


cách của người học, được thể hiện ở tình cảm, ý chí quyết tâm giải quyết các vấn
đề mà tình huống học tập đề ra để có tri thức mới, kĩ năng mới [8; 47].
1.1.2. Ý nghĩa của việc phát huy tính tích cực của HS trong DHLS Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11
– THPT
Tính tích cực của học sinh phù hợp với nguyên tắc “tính tự giác, tích cực”,
vì nó thúc đẩy được hoạt động học tập đã được hướng đích, gợi động cơ trong quá
trình phát hiện và giải quyết vấn đề. Dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh là biểu hiện sự thống nhất giữa giáo dưỡng và giáo dục. Tác
dụng của giáo dục kiểu dạy học này là ở chỗ dạy cho học sinh khám phá, tức là
rèn luyện cho học sinh cách phát hiện, tiếp cận và giải quyết vấn đề một cách khoa
học. Đồng thời góp phần bồi dưỡng cho học sinh những đức tính cần thiết của
người lao động sáng tạo như tính chủ động, tự giác, tích cực, tính kiên trì vượt
khó, thói quen tự kiểm tra.
Tính tích cực học tập thể hiện ở cả hai mặt: tính chuyên cần trong hành động
và tính sâu sắc trong hoạt động các hoạt động trí tuệ. Cách học tích cực thể hiện
trong việc tìm kiếm, xử lý thông tin và vận dụng chúng vào giải quyết các nhiệm
vụ học tập và thực tiễn cuộc sống, thể hiện sự tìm tòi, khám phá vấn đề mới bằng
PP mới, không phải là sao chép, mà là sự sáng tạo của mỗi cá nhân.

Theo Sukina, tính tích cực học tập có thể chia thành những cấp độ từ thấp lên
cao như sau:
+ Tích cực bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của
bạn.
+ Tích cực tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết
khác nhau về một vấn đề.
+ Tích cực sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Như vậy việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa to lớn trong quá
trình dạy học lịch sử. Tạo được hứng thú trong quá trình học tập và tìm hiểu, nâng
cao trình độ nhận thức của HS thông qua học lịch sử [2; 28].
1.2. Thực tiễn phát huy tính tích cực HS ở trường THPT Ninh Châu
11


Trong thực tiễn giảng dạy môn lịch sử ta thấy vẫn còn nhiều khó khăn trong
việc phát huy tính tích cực của học sinh.
1.2.1. Đối với giáo viên
Liên quan đến đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu thực trạng của việc đổi mới PP
giảng dạy nhằm pháp huy tính tích cực của học sinh trong DHLS lớp 11 ở trường
THPT của GV thông qua phiếu điều tra số 1, với 03 GV chuyên môn lịch sử ở
trường THPT Ninh Châu (Xem phụ lục 1).
Bảng 1.1. Nhận thức về tầm quan trọng của việc đổi mới PP nhằm phát huy
tính tích cực của HS trong DHLS lớp 11 THPT của GV.
Theo quý thầy (cô) trong DHLS lớp 11 THPT có
Câu hỏi

cần thiết phải đổi mới PP nhằm phát huy tính tích
cực của HS không?

Mức độ


Số GV (Số người)

Tỷ lệ (%)

Rất cần thiết

01

33.3

Cần thiết

02

66.7

Không cần thiết

0

0.00

Bảng 1.2. Mức độ phát huy tính tích cực của HS trong DHLS lớp 11 THPT
của GV.
Nếu việc đổi mới PPDH nhằm phát huy tính tích
Câu hỏi
Mức độ

cực của HS trong DHLS lớp 11 THPT là cần thiết

thì theo quý thầy (cô) nên tiến hành ở mức độ nào?
Số GV (Số người)

Tỷ lệ

Rất thường xuyên

01

33.3

Thường xuyên

02

66.7

Thỉnh thoảng

0

0.00

Bảng 1.3. Ý kiến của GV về nguyên nhân chính dẫn đến việc phát huy tính
tích cực của HS trong DHLS lớp 11 THPT còn hạn chế.

12


Theo quý thầy (cô) nguyên nhân khiến

Câu hỏi

GV ngại phát huy tính tích cực của
HS trong DHLS lớp 11 THPTlà gì?
Số GV (Số người)

Tỷ lệ (%)

2

66.7

Chưa có cách phù hợp

1

33.3

Dễ cháy giáo án

0

0.00

Nguyên nhân
Việc lựa chọn PP mất nhiều thời
gian và công sức

Qua kết quả thu được đều cho thấy, về cơ bản đa số các GV đều nhận thức
được sự cần thiết của việc pháp huy tính tích cực của HS trong DHLS lớp 11

THPT. Đa số các GV đều hiểu được ý nghĩa của việc phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy về mặt kiến thức, thái độ tư tưởng và cả kĩ năng. Trên cơ sở
đó, các GV đã thực hiện việc phát huy tính tích cực của HS trong DHLS Việt Nam
ở lớp 11 THPT ở những mức độ khác nhau. Khá nhiều GV có tiến hành rất thường
xuyên, nhưng cũng còn một số GV thỉnh thoảng mới sử dụng và không sử dụng.
Nguyên nhân là do nhiều GV cho rằng việc lựa chọn PP mất nhiều thời gian, công
sức và chưa có cách phù hợp.
Điều này chứng tỏ trong DHLS các GV đã có quan tâm đến việc pháp huy
tính tích cực của HS ở các mức độ khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn tập trung để tạo
biểu tượng, và vẫn chưa phát huy đầy đủ tính tích cực trong học tập lịch sử của
HS. Các tiết học GV có sử dụng các PP mới tạo được biểu tượng lịch sử. Tuy
nhiên việc sử dụng các PP để phát huy tính tích cực của HS vẫn chưa được đa số
GV tiến hành nghiêm túc. Ngoài ra, nhiều GV vẫn còn dạy học theo PP truyền
thống, nặng về thuyết trình, chỉ sử dụng những kiến thức trong SGK, ít quan tâm
đến việc sưu tầm, chọn lọc đổi mới PP.
1.2.2. Đối với học sinh
Để khảo sát thực tiễn việc phát huy tính tích cực trong DHLS đối với HS lớp
11 THPT, Chúng tôi sử dụng hệ thống câu hỏi thông qua phiếu điều tra số 2 (Xem
phụ lục 2) sử dụng đối với tổng số 405 HS trên chín lớp 11 của trường THPT Ninh
Châu, sau khi thu thập phiếu điều tra, chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau:
13


Bảng 1.4. Thái độ học tập của HS khi GV sử dụng các PP phát huy tính tích
cực của HS trong DHLS
Thái độ

Số HS

Tỷ lệ


các lớp 11 THPT Ninh Châu

(%)

Rất hứng thú

97

24.0

Hứng thú

195

48.1

Bình thường

80

19.8

Không hứng thú

33

8.1

Đa số HS có được hứng thú trong học tập lịch sử khi GV đổi mới PP dạy học

cho các em là khá đông. Tuy vậy, vẫn còn tỷ lệ HS chưa có được hứng thú khi
GV đổi mới PP giảng dạy. Nghĩa là vẫn còn nhiều giờ học lịch sử GV chưa gây
được hứng thú và chưa phát huy được tính tích cực trong học tập cho HS.
Khi được thăm dò ý kiến về ý nghĩa của việc GV đổi mới PP trong DHLS
lớp 11 THPT, bằng câu hỏi: Theo em, nếu thầy (cô) sử dụng các PP dạy học mới
nhằm phát huy tính tích cực sẽ giúp ích gì trong học tập lịch sử? Qua kết quả thu
được ở bảng 1.6. chúng tôi nhận thấy, có một số lượng khá đông các em nhận thức
được khi GV đổi mới PP sẽ giúp HS tạo biểu tượng lịch sử. Tỷ lệ HS cho rằng
GV đổi mới PP giúp HS tích cực, hứng thú hơn trong học tập LS và ghi nhớ kiến
thức nhanh, lâu hơn và rèn luyện các thao tác tư duy cũng khá cao. Trong khi đó,
vẫn còn một số HS chưa hiểu được ý nghĩa của việc GV đổi mới PP cho rằng
không giúp ích gì cho các em.

14


Bảng 1.5. Quan niệm của HS về ý nghĩa của việc phát huy tính tích cực
trong DHLS lớp 11 THPT
Số HS

Tỷ lệ

các lớp 11 THPT Ninh Châu

(%)

Yêu thích môn lịch sử

168


41.5

Ghi nhớ kiến thức nhanh và lâu hơn

125

30.9

Rèn luyện tính tự giác, tư duy so

98

24.2

14

3.4

Quan niệm

sánh, phân tích, khái quát, tổng hợp
Không giúp ích gì

Bảng 1.6. Mức độ GV sử dụng PP phát huy tính tích cực HS trong DHLS
Việt Nam lớp 11 THPT theo ý kiến, nhận xét của HS
Số HS

Tỷ lệ

các lớp 11 THPT Phan Bội Châu


(%)

Rất thường xuyên

90

22.2

Thường xuyên

170

42.0

Thỉnh thoảng

130

32.1

Không sử dụng

15

3.7

Mức độ

Qua kết quả thu được cho thấy, số HS được GV thường xuyên đổi mới PP

nhằm phát huy tính tích cực của HS chỉ chiếm trong khoảng một nửa số HS. Số
còn lại, tức khoảng gần một nửa số HS còn lại cho rằng, GV chỉ thỉnh thoảng đổi
mới PP nhằm phát huy tính tích cực của HS, hoặc không đổi mới cho các em khi
DHLS lớp 11 THPT.
Từ những điều trên nên việc phát huy tính tích cực của HS trong DHLS là
rất quan trọng để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.

15


CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX ĐẾN
HẾT CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT (1918) Ở LỚP 11
THPT
2.1. Cơ sở để xác định PP dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
trong DHLS Việt Nam đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ
nhất (1918) ở lớp 11 THPT
2.1.1. Vị trí, ý nghĩa của phần lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX đến hết
chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT
Ở cấp THCS HS đã được học về “lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
năm 1918” trong “Bài 29: Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và
những chuyển biến về kinh tế xã hội ở Việt Nam”, và “Bài 30: Phong trào yêu
nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918” trong chương trình lớp 8. Lên
cấp THPT HS được học kỹ hơn về “lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm
1918” trong chương trình lớp 11 được phân phối trong bài 22, 23, 24 SGK. Khóa
trình “lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918” được đưa vào giảng dạy
ở lớp 11 với yêu cầu cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về xã hội Việt Nam
trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp; Phong trào yêu nước và cách
mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914); Việt

Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918).
Phần “lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918” giúp HS nắm được
những kiến thức về xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực
dân Pháp; về phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX
đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914); Việt Nam trong những năm chiến tranh
thế giới thứ nhất (1914 – 1918).
Bổ sung, nâng cao một cách có hệ thống, sâu sắc hơn những kiến thức mà
các em đã tiếp thu được ở cấp THCS nhằm giúp các em tiếp tục củng cố vững
chắc những kiến thức đó.
16


Giúp HS hiểu rõ hơn về tác động của những chính sách của thực dân Pháp
đối với tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam ở những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế
kỉ XX. Hiểu được nguyên nhân diễn biến và vai trò quần chúng nhân dân cũng
như các cá nhân trong phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỉ
XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1918.
2.1.2. Mục tiêu của phần lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT
- Về kiến thức
Nội dung phần lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế
giới thứ nhất 1918 (lớp 11 THPT) nhằm:
Giúp HS nắm được mục đích của các chính sách cai trị về chính trị, văn hóa,
giáo dục của thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam ngay sau khi chúng hoàn thành
công cuộc bình định bằng quân sự. Hiểu được những tác động của những chính
sách đó đối với kinh tế - xã hội của Việt Nam ở những năm cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX. Và nhận biết được những nét mới, sự tiến bộ của phong trào yêu nước
đầu thế kỉ XX so với phong trào cuối thế kỉ XIX. Hiểu được đặc điểm của bối
cảnh Việt Nam trong chiến tranh và phong trào giải phóng dân tộc trong thời kì
này.

Bổ sung, nâng cao một cách có hệ thống, sâu sắc hơn những kiến thức mà
các em đã tiếp thu được ở cấp THCS nhằm giúp các em tiếp tục củng cố vững
chắc những kiến thức đó.
- Về thái độ
Thông qua việc tìm hiểu những chính sách cai trị hà khắc của thực dân Pháp
đã thực hiện trên đất nước ta, đã giúp HS hiểu rõ bản chất của đế quốc, thực dân
phong kiến tàn bạo đã bóc lột dã man và đàn áp về chính trị một cách tàn bạo đối
với nhân dân ta. Qua các phong trào yêu nước, kháng chiến chống Pháp của nhân
dân ta, cho HS thấy được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và vai trò
của các cá nhân xuất sắc đối với lịch sử dân tộc. Từ đó bồi dưỡng tình cảm giai
cấp, lòng yêu mến kính trọng giai cấp nông dân, công nhân và các tầng lớp lao
động khác, biết trân trọng truyền thống yêu nước của nhân dân ta.
17


- Về kĩ năng
Tiếp tục hoàn thiện những kĩ năng cần thiết cho HS trong học tập lịch sử đã
được hình thành và rèn luyện ở THCS như khi xem xét các sự kiện, nhân vật, làm
việc với SGK và các nguồn tư liệu, đặc biệt biết phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng
hợp, khái quát hóa và trừu tượng hóa trong quá trình nhận thức các sự kiện lịch
sử cơ bản, điển hình. Khả năng sử dụng tài liệu tham khảo trong quá trình dạy học, biết đổi mới các PP vào quá trình dạy học nhằm phát huy tính tích cực của
HS.
2.1.3. Nội dung lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế
giới lần thứ nhất (1918) ở lớp 11 THPT
Phần này gồm có một chương: Chương II – Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
hết Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918) gồm các bài:
Bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp.
Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
chiến tranh thế giới thứ nhất (1914).
Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 –

1918).
2.1.4. Đặc điểm tâm lý và trình độ nhận thức của học sinh THPT
- Đặc điểm tâm lý
Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ
lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được tính từ
15 đến 25 tuổi, được chia làm 2 thời kì:
+ Thời kì từ 15-18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên.
+ Thời kì từ 18-25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên sinh
viên).
Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự
phát triển thể chất đã bước vào thời kì phát triển bình thường, hài hòa, cân đối.
Cơ thể của các em đã đạt tới mức phát triển của người trưởng thành, nhưng sự
phát triển của các em còn kém so với người lớn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm
chất ý chí có điều kiện phát triển mạnh. Ở tuổi này, các em dễ bị kích thích và sự
18


biểu hiện của nó cũng giống như ở tuổi thiếu niên. Tuy nhiên tính dễ bị kích thích
này không phải chỉ do nguyên nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà nó còn do
cách sống của cá nhân (như hút thuốc lá, không giữ điều độ trong học tập, lao
động, vui chơi…).
- Trình độ nhận thức
Ở lứa tuổi HS THPT tính chủ động được phát triển mạnh mẽ ở tất cả quá
trình nhận thức.
Quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan
sát đã chịu sự điều khiển của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách
khỏi tư duy ngôn ngữ. Tuy vậy, quan sát của các em cũng khó có hiệu quả nếu
thiếu sự chỉ đạo, định hướng quan sát của các em và một nhiệm vụ nhất định,
không vội vàng kết luận khi chưa tích lũy đầy đủ các sự kiện.
Ở tuổi này, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ,

đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ
rệt (các em sử dụng tốt hơn các PP ghi nhớ, tóm tắt ý chính, so sánh, đối chiếu...).
Đặc biệt, các em tạo được tâm thế phân hóa trong ghi nhớ…. Bên cạnh đó, một
số em còn ghi nhớ kiểu đại khái, chung chung, hoặc chủ quan vào trí nhớ của
mình mà đánh giá thấp việc ôn tập tài liệu.
Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển, do sự phát
triển của các quá trình nhận thức nói chung, do ảnh hưởng của hoạt động học tập
mà hoạt động tư duy của học sinh THPT có thay đổi quan trọng. Đó là sự phát
triển mạnh của tư duy hình thức. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu
tượng một cách độc lập sáng tạo trong những đối tượng quen thuộc hoặc chưa
quen thuộc. Tư duy của các em nhất quán hơn, chặt chẽ hơn và có căn cứ hơn, có
thể sử dụng vật liệu là những khái niệm khoa học, trí thức dưới dạng thuật ngữ,
mệnh đề... để tư duy thoát ly với vật chất.
Sự phát triển mạnh của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ đến tư duy sáng tạo.
Nhờ khả năng khái quát, các em có thể tự mình phát hiện ra những cái mới. Với
các em, điều quan trọng là cách thức giải quyết các vấn đề được đặt ra chứ không
phải là loại vấn đề nào được giải quyết. Học sinh cấp THPT đánh giá các bạn
19


thông minh trong lớp không dựa vào điểm số mà dựa vào cách thức giải quyết các
vấn đề học tập, giải bài tập, PP tư duy.… Các em có xu hướng đánh giá cao các
bạn thông minh và các thầy cô có PP giảng dạy tích cực, tôn trọng những suy nghĩ
độc lập của HS, phê phán sự gò ép, máy móc trong PP sư phạm. Đồng thời tính
phê phán của tư duy cũng phát triển. Các em có khả năng đánh giá và tự đánh giá
nhiều mối quan hệ, những sự vật, hiện tượng xung quanh theo những thang giá trị
đã được xác lập. Những đặc điểm đó tạo điều kiện cho các em thực hiện được các
thao tác tư duy toán học phức tạp, phân tích nội dung cơ bản của các khái niệm
trừu tượng, nắm bắt mối quan hệ nhân – quả trong tự nhiên và xã hội. Đó là những
cơ sở hình thành nên thế giới quan và nhiều thang giá trị mới.

Tuy vậy, hiện nay số học sinh THPT đạt tới mức tư duy đặc trưng cho lứa
tuổi như trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát huy hết năng lực
độc lập suy nghĩ của bản thân, kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy, việc giúp
các em phát triển nhận thức là một nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên [15;
74].
Như vậy, ở lứa tuổi học sinh THPT những đặc điểm của con người về mặt trí
tuệ thông thường đã được hình thành và chúng vẫn còn được tiếp tục hoàn thiện.
2.1.5. Nguyên tắc khi sử dụng các PP nhằm pháp huy tính tích cực của
học sinh
Trong giảng dạy đối với từng bộ môn đều dựa vào một số nguyên tắc nhất
định. Riêng đối với môn lịch sử nhằm phát huy năng lực tư duy, tính chủ động,
sáng tạo của HS, nên cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo mục tiêu, nội dung cơ bản của bài học
Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử, căn cứ vào mục tiêu
đào tạo, mục tiêu bài học bao gồm ba mặt: giáo dưỡng (bồi dưỡng về kiến thức),
giáo dục (thái độ, tình cảm, đạo đức, tư tưởng), và phát triển (năng lực nhận thức,
trong đó quan trọng là năng lực tư duy và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo…) cho HS.
Triệt để khai thác nội dung chương trình SGK để thấy được những kiến thức
cơ bản của bài học. Đối với phần lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến
20


tranh thế giới thứ nhất (1918), SGK đã trình bày các sự kiện lịch sử cơ bản, các
nhân vật lịch sử điển hình giúp HS phát huy tính tích cực.
- Sử dụng đa dạng hệ thống PP dạy học theo tinh thần đổi mới lấy học sinh
làm trung tâm
Khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới
thứ hai (1918), giáo viên cần phải biết kết hợp sử dụng nhuần nhuyễn các PP như:
PP trình bày miệng, PP sử dụng đồ dùng trực quan, PP sử dụng tài liệu, PP kiểm
tra thực hành.

- Đảm bảo tính vừa sức cho HS
Tính vừa sức khi dạy các bài trong phần lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX
đến hết chiến tranh thế giới thứ hai (1918), gắn chặt với tính cơ bản của nội dung
bài học. Tính vừa sức giúp học sinh độc lập và hứng thú tự mình lĩnh hội kiến
thức. Vì vậy, cần chú ý không nêu lên các vấn đề quá khó hoặc quá đơn giản đối
với HS.
- Đảm bảo tính khoa học và tính Đảng
Trong nghiên cứu và học tập lịch sử cũng như các ngành khoa học khác phải
đảm bảo tính khoa học và tính Đảng. Tính khoa học thể hiện ở sự chính xác về tài
liệu, sự kiện, quan điểm PP luận. Tính khoa học luôn gắn với tính Đảng vô sản.
Tính Đảng và tính khoa học có sự thống nhất biện chứng với nhau.
- Đảm bảo yêu cầu về giáo dục tư tưởng, tình cảm và phát triển nhân cách
học sinh trong quá trình phát huy tính tích cực của học sinh
Trong đời sống xã hội, lịch sử có tác dụng quan trọng không chỉ về trí tuệ mà
về cả tình cảm, tư tưởng. Những con người, những việc thực của quá khứ có sức
thuyết phục, có sức rung cảm mạnh mẽ với thế hệ trẻ. Từ đó kích thích lòng ham
học hỏi, tìm tòi, tư duy phát triển.
- Nắm vững cấu trúc mô hình tiết dạy theo hướng phát huy năng lực, trí tuệ
của học sinh
Một nội dung cơ bản của tiết dạy theo hướng phát huy năng lực trí tuệ của
học sinh là thiết kế bài học nhận thức để đưa HS vào tình huống có vấn đề, bắt
buộc HS phải vận dụng tất cả những kiến thức đã học để giải quyết.
21


Khi thiết kế bài tập nhận thức và tổ chức để HS lĩnh hội cần tuân theo quy
trình 4 bước sau:
Bước 1: Định hướng mục đích
Bước 2: Cung cấp thông tin để tạo ra hình ảnh cụ thể, sinh động về những sự
kiện đã diễn ra trong quá khứ.

Bước 3: Tổ chức cho HS làm việc, tự giải quyết các vấn đề để tiếp nhận thông
tin.
Bước 4: Rút ra kết luận của bài học.
2.2. Phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1918) ở lớp
11 THPT
2.2.1. Dạy học nêu vấn đề nhằm phát huy tính tích cực học sinh
Thử nghĩ trong một tiết học mà giáo viên chỉ đứng giảng một mình, học sinh
chỉ ngồi yên ghi chép một cách máy móc, học vẹt. Với cách học như vậy thì học
sinh sẽ nắm bắt và hiểu những kiến thức bằng cách nào và không khí lớp học sẽ
ra sao?
Nguyên tắc dạy học là phải có sự trao đổi qua lại giữa học sinh và giáo viên
thông qua những câu hỏi hay những hoạt động khác. Thông qua những câu hỏi
HS mới chịu tư duy, suy nghĩ để giải quyết vấn đề từ đó phát triển được tính tích
cực học tập của các em.
GV dẫn dắt HS vào tình huống có vấn đề. Theo M.I.Macmutop, không biết
đặt tình huống có vấn đề “là trở ngại về trí tuệ của con người, nó xuất hiện khi
anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng, SK, quá trình của thực tế, khi chưa thể
đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích
con người tìm cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy
luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả... ”.
- Nêu vấn đề một cách rõ ràng, thường là một câu hỏi có tính chất bài tập
nhận thức.
- Tổ chức, hướng dẫn và tạo điều kiện gợi mở cung cấp tài liệu... nhằm giúp
HS tự giác, tích cực giải quyết từng bước từng phần.
22


×