Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

NGHIÊN cứu đặc điểm GIẢI PHẪU BỆNH và hóa mô MIỄN DỊCH u sắc bào TUYẾN THƯỢNG THẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.49 MB, 93 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
U sắc bào tủy thượng thận (Pheochromocytoma) là khối u xuất phát từ
tế bào ưa crom tại tủy thượng thận. Đa số u sắc bào lành tính và có khoảng
10% u sắc bào tủy thượng thận ác tính .
Trên thế giới tỷ lệ mắc mới khoảng 8/1.000.000 người mỗi năm . Đa số
các trường hợp bệnh khởi phát ngẫu nhiên, khoảng 10% số bệnh nhân có liên
quan đến một số hội chứng di truyền gia đình. Lứa tuổi có tỷ lệ mắc cao nhất
là 40-50 tuổi, với các bệnh nhân có hội chứng di truyền gia đình thường khởi
phát bệnh sớm hơn .
Tủy thượng thận là tuyến nội tiết có chức năng bài tiết catecholamine,
đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giao cảm . Vì vậy, khi khối u có hoạt
động chế tiết hormon sẽ gây ra nhiều triệu chứng cường giao cảm như tăng
huyết áp, nhịp tim nhanh…
Phần lớn các khối u sắc bào lành tính, điều trị khỏi với phương pháp
phẫu thuật đơn thuần . U sắc bào ác tính tuy chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 10%
nhưng có độ ác tính cao, di căn hạch, di căn xa, xâm lấn cơ quan kế cận khiến
tỷ lệ tái phát và tử vong cao ,.
Việc chẩn đoán u sắc bào ác tính đến nay vẫn rất khó khăn và chưa đạt
được sự đồng thuận. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các thang điểm xác định
tính chất ác tính của u sắc bào như Linnoila và cộng sự đã đưa ra 4 tiêu chuẩn
dùng đánh giá phân loại u tế bào ưa crom lành tính và ác tính năm 1990 . Đến
năm 2002, Thompson và cộng sự đề xuất sử dụng thang điểm phân độ u sắc
bào của tuyến thượng thận (Pheochromocytoma of the Adrenal gland Scaled
Score - PASS) với 12 tiêu chuẩn để chấm điểm phân độ u sắc bào lành tính
hay ác tính . Do kết hợp nhiều yếu tố trong đánh giá đặc điểm mô bệnh học sẽ
giúp làm tăng tính chính xác trong việc xác định tính chất ác tính của khối u.


2



Hiện nay, thang điểm PASS được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận và áp dụng
đánh giá tính chất ác tính cũng như tiên lượng u sắc bào của tủy thượng
thận ,,,.
Đa số các trường hợp u sắc bào chẩn đoán dựa trên đặc điểm hình thái
mô bệnh học với tiêu bản nhuộm Hematoxylin-Eosin (HE) thường quy, chỉ
một số trường hợp khó trong xác định nguồn gốc u sắc bào tại tủy thượng
thận hay u di căn, cũng như phân biệt khối u vùng vỏ hay vùng tủy thượng
thận có thể sử dụng các dấu ấn hóa mô miễn dịch hỗ trợ cho chẩn đoán xác
định ,. Nhiều nghiên cứu đã sử dụng dấu ấn Ki67 đánh giá tỷ lệ nhân chia của
khối u cho thấy có sự tương quan giữa tỷ lệ nhân chia và tính chất ác tính của
u sắc bào ,,.
Tại Việt Nam, cho đến nay chủ yếu các nghiên cứu tiến hành trên các
khối u tuyến thượng thận nói chung trên các phương diện lâm sàng, cận lâm
sàng, chẩn đoán hình ảnh và điều trị ,,,. Đối với giải phẫu bệnh hiện chưa có
nhiều nghiên cứu về u tuyến thượng thận nói chung và u sắc bào tủy thượng
thận nói riêng ,.
Góp phần tìm hiểu về đặc điểm mô bệnh học, cách tính thang điểm
PASS và một số dấu ấn hóa mô miễn dịch trong chẩn đoán, tiên lượng u sắc
bào tuyến thượng thận, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm
giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch u sắc bào tuyến thượng thận” với
mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm giải phẫu bệnh u sắc bào tuyến thượng thận có áp
dụng thang điểm PASS.
2. Xác định sự bộc lộ Ki67 và mối liên quan với mô bệnh học u sắc
bào tuyến thượng thận.

Chương 1



3

TỔNG QUAN
1.1. Phôi thai học, giải phẫu, mô học và sinh lý tuyến thượng thận
Tuyến thượng thận gồm hai tuyến nhỏ nằm ở phía trên hai thận. Tuyến
thượng thận được cấu tạo bởi hai phần riêng biệt là phần vỏ thượng thận và
phần tủy thượng thận. Hai phần này có nguồn gốc phôi thai học, đặc điểm mô
học và chức năng sinh lý khác nhau.
1.1.1. Phôi thai học tuyến thượng thận
Phần vỏ thượng thận có nguồn gốc từ trung bì, phần tủy thượng thận có
nguồn gốc từ ngoại bì thần kinh .
Ở giai đoạn phát triển phôi, trước khi hai bờ của máng thần kinh chập
lại thành ống thần kinh, từ hai bờ máng, dọc theo đường lưng xuất hiện những
đám mô thần kinh được gọi là mào hạch từ đó khởi sinh ra hệ tế bào ưa crom.
Mào hạch sản sinh ra những tế bào ưa crom của hạch giao cảm thuộc hệ thần
kinh thực vật, của cận hạch và những tế bào ưa crom ở tủy thượng thận. Một
số tế bào tiền giao cảm di cư ra khỏi mào hạch và hình thành hệ cận hạch
mang tính chất tuyến, mô cận hạch sau khi sinh chỉ còn tồn tại ở bốn vị trí
quan trọng:





Cận hạch thượng thận
Cận hạch bụng hay hạch Zuckerkandl
Cận hạch cùng hay tuyến Luschka
Cận hạch cảnh

Đối với tuyến thượng thận, cận hạch tập trung tạo nên phần tủy thượng

thận và được vỏ bao kín hoàn toàn vào tháng thứ năm của thời kỳ phôi thai.
Các tế bào ưa crom có chung nguồn gốc nên khi phát sinh u sẽ mang
các đặc điểm giống nhau dù cho vị trí khác nhau. Đối với u tế bào ưa crom


4

phát sinh tại vị trí tủy thượng thận được gọi với tên riêng là u sắc bào tủy
thượng thận hay Pheochromocytoma, còn các khối u tế bào ưa crom ở vị trí
ngoài thượng thận được gọi là u cận hạch hay Paraganglioma.
1.1.2. Giải phẫu tuyến thượng thận

Hình 1.1. Hình ảnh giải phẫu của tuyến thượng thận
Mỗi người có hai tuyến thượng thận, mỗi tuyến nằm ở cực trên một
thận và được bọc trong mạc thận. Tuyến thượng thận có hình tháp dẹt. Ở
người trưởng thành, mỗi tuyến cao 3 - 5 cm, rộng 2 - 3 cm và dày không quá
1 cm. Mỗi tuyến nặng khoảng 4 gam.
1.1.3. Mô học tuyến thượng thận
Tuyến thượng thận được bọc ngoài bởi một vỏ xơ, tuyến có hai phần:
phần vỏ ở ngoài và phần tủy ở trung tâm.
1.1.3.1. Vỏ thượng thận
Phần vỏ thượng thận nằm ở ngoại vi, ngay dưới vỏ xơ,
chiếm tới 80 - 90% khối lượng tuyến, có màu vàng nhạt ở phía ngoài và hơi
nâu ở phía trong. Từ ngoài vào trong, tuyến vỏ thượng thận gồm ba lớp xếp
đồng tâm với nhau: lớp cung, lớp bó và lớp lưới.


5

Hình 1.2. Mô học của tuyến thượng thận

1.1.3.2. Tủy thượng thận
Tủy thượng thận nằm ở trung tâm, chiếm 10 - 20% khối
lượng tuyến, có màu nâu sẫm. Phần lớn tủy thượng thận nằm ở phần đầu
tuyến thượng thận, còn ở phần đuôi tuyến thượng thận thường không chứa mô
tủy.
Tủy thượng thận được cấu tạo bởi những ổ tế bào hay dây tế bào tuyến
ngắn nối với nhau thành lưới tế bào xen kẽ với lưới mao mạch hay tĩnh mạch
nhỏ. Ngoài ra trong nhu mô tuyến còn có những sợi giao cảm trước hạch, sợi
trục của các tiền nơron giao cảm tới tạo synap với các tế bào tuyến và một số
nơron hạch.
Tế bào tủy thượng thận là những tế bào lớn hình đa diện, nhân
nằm ở trung tâm. Bào tương tế bào chứa những hạt chế tiết và bắt màu sáng
khi nhuộm bằng các thuốc nhuộm thông thường nhưng khi cố định bằng các


6

dung dịch có muối crom thì những hạt chế tiết bắt màu nâu bởi vậy những tế
bào này gọi là các tế bào ưa crom.
Có 2 loại tế bào ưa crom ở vùng tủy thượng thận gồm: tế bào tiết
noradrenalin và tế bào tiết adrenalin. Một số tế bào tủy thượng thận (đặc biệt
những tế bào ở vùng tiếp giáp với vỏ thượng thận) có kích thước lớn hơn với
nhân tăng sắc hơn, chế tiết các catecholamine (adrenalin, noradrenalin và
dopamine), số lượng các tế bào này tăng dần theo tuổi.
1.1.3.3. Vỏ ngoài
Vỏ ngoài của tuyến thượng thận là một vỏ mỏng, cấu tạo bởi các sợi
collagen và sợi tạo keo. Vỏ tuyến có thể hòa chung vào bao chung giữa thượng
thận và thận hay giữa thượng thận và gan. Vỏ tuyến được bao quanh bởi lớp mỡ
chứa các động mạch, tĩnh mạch, thần kinh và các hạch giao cảm.
1.1.4. Sinh lý tuyến thượng thận ,

1.1.4.1. Vỏ thượng thận
Lớp cung chế tiết các hormon chuyển hóa muối nước với đại diện là
aldosterol.
Lớp bó và lớp lưới bài tiết cortisol và các hormon khác thuộc nhóm
hormon vỏ chuyển hóa đường và hormon sinh dục (androgen).
1.1.4.2. Tủy thượng thận
Có thể coi hai tủy thượng thận như hai hạch giao cảm lớn trong đó các
neuron mất sợi trục và trở thành tế bào bài tiết. Tủy thượng thận chế tiết
catecholamine, trong đó chủ yếu là adrenalin, noradrenalin và dopamine. Bình
thường các hormone lưu hành trong máu khoảng 80% dưới dạng adrenalin và
20% noradrenalin. Các catecholamine trong máu được đưa đến các cơ quan
đích sẽ gây ra tác dụng hầu như giống tác dụng của hệ thần kinh giao cảm.

Tác dụng của adrenalin:

Trên cơ tim: làm tim đập nhanh, tăng lực co bóp cơ tim.


7


Trên mạch máu: làm co mạch dưới da, giãn mạch vành, mạch

não, mạch thận và mạch cơ vân do đó làm tăng huyết áp tối đa.

Trên cơ trơn khác: làm giãn đồng tử, giãn cơ trơn phế quản…

Làm tăng chuyển hóa của toàn bộ cơ thể: tăng tiêu thụ oxy và
tăng sinh nhiệt, làm tăng hoạt động và hưng phấn của cơ thể.


Tăng đường huyết do tăng phân giải glycogen thành glucose ở
gan


Tác dụng của noradrenalin: nhìn chung noradrenalin có tác dụng

giống adrenalin nhưng tác dụng trên mạch thì mạnh hơn, nó làm tăng cả huyết
áp tối đa và cả huyết áp tối thiểu do làm co mạch toàn thân. Các tác dụng lên
tim, lên cơ trơn đặc biệt là tác dụng lên chuyển hóa thì yếu hơn adrenalin.
Bình thường nồng độ adrenalin máu là 170-520 pmol/l còn nồng độ
noradrenalin là 0,3-28 nmol/l. Khi cơ thể trong tình trạng stress, lạnh, đường
huyết giảm hoặc kích thích hệ giao cảm thì tuyến tủy thượng thận tăng bài tiết
cả hai hormon này.
1.2. Bệnh học u sắc bào tuyến thượng thận
U sắc bào tủy thượng thận (pheochromocytoma) là khối u phát sinh từ
tế bào ưa crom ở tủy thượng thận. Các khối u xuất phát từ tế bào ưa crom vị
trí ngoài tủy thượng thận được gọi là u cận hạch (paraganglioma). U sắc bào
tủy thượng thận đa số lành tính và có khoảng 10% ác tính, bệnh có thể xuất
hiện ngẫu nhiên hoặc trong bệnh cảnh của một vài hội chứng di truyền gia
đình ,.
U sắc bào tuỷ thượng thận được mô tả lần đầu tiên bởi Frankel vào năm
1886 khi ông khám nghiệm tử thi một trường hợp bệnh nhân nữ 18 tuổi tử
vong do phì đại cơ tim và xơ hóa, nhận thấy u ở hai bên tuyến thượng thận.
Năm 1912, Ludwig. P đưa ra thuật ngữ Pheochromocytome để chỉ u sắc bào
tủy thượng thận (từ Pheochromocytome có nguồn gốc chữ Hy Lạp phaios và
chroma: có màu thẫm với muối crom) .
1.2.1. Một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng u sắc bào


8


1.2.1.1. Dịch tễ học
U sắc bào tủy thượng thận (pheochromocytoma) là khối u hiếm gặp.
Trong quá khứ, chủ yếu phát hiện u khi khám nghiệm tử thi, khoảng 76% các
trường hợp không được chẩn đoán. Hiện nay, tỷ lệ phát hiện mắc u sắc bào
giao động từ 0,4-9,5 trường hợp/1.000.000 người mỗi năm theo các báo cáo
nghiên cứu dịch tễ ,.
Với các khối u sắc bào tủy thượng thận, 90% các trường hợp xuất hiện
ngẫu nhiên và khoảng 10% bệnh phát sinh có liên quan yếu tố di truyền gia
đình. Một số hội chứng di truyền gia đình có liên quan đến u sắc bào tủy
thượng thận như hội chứng đa u nội tiết type 2A và type 2B (Multiple
Endocrine Neoplasia - MEN), bệnh von Recklinghausen, bệnh von HippelLindau, bệnh đa u xơ thần kinh type 1 .
Bệnh có thể khởi phát ở mọi lứa tuổi từ trẻ em đến người già, lứa tuổi
hay gặp nhất là 40-50, với những bệnh nhân có liên quan đến yếu tố di truyền
gia đình thường khởi phát bệnh sớm hơn (dưới 20 tuổi). Khoảng 10% khối u
gặp ở trẻ em.
1.2.1.2. Lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của u sắc bào do tình trạng dư thừa các
catecholamine được tế bào u giải phóng vào máu. Biểu hiện triệu chứng đa
dạng và thay đổi phụ thuộc vào tỷ lệ adrenaline và noradrenaline được mô u
tiết ra và phụ thuộc vào tính chất chế tiết hormon thường xuyên hay theo từng
giai đoạn.
Tăng huyết áp kéo dài và cơn tăng huyết áp kịch phát là những triệu
chứng thường gặp nhất, cũng có những bệnh nhân không có triệu chứng tăng
huyết áp. Một số triệu chứng khác như cơn đau đầu, cơn nhịp nhanh, toát mồ
hôi, đánh trống ngực, lo lắng, đau ngực và đau bụng, buồn nôn, táo bón…
Triệu chứng đặc hiệu là cơn tăng huyết áp kịch phát, gặp trong khoảng
48% số bệnh nhân . Cơn có thể xảy ra tự phát hoặc sau những yếu tố thuận lợi
như xúc động, gắng sức, sờ nắn vùng sườn lưng hoặc sau những bài tập gây



9

tăng áp lực ổ bụng. Cơn có thể kéo dài từ vài phút đến vài giờ hoặc lâu hơn,
có thể xảy ra lẻ tẻ hàng tuần hoặc hàng tháng. Trong cơn, bệnh nhân thường
thấy đau đầu, hồi hộp, đánh trống ngực, lo lắng, hoảng hốt và ra nhiều mồ
hôi. Sau cơn bệnh nhân mệt lử, huyết áp có thể tụt thậm chí trụy mạch.
Tăng huyết áp liên tục có đặc điểm huyết áp tăng từ từ hoặc từng đợt
sau đó dẫn tới tăng huyết áp thường xuyên. Nếu không phát hiện và điều trị
kịp thời, tăng huyết áp sẽ gây tổn thương cơ quan đích.
Biểu hiện tăng huyết áp phản ánh dạng catecholamine được bài tiết: với
khối u tiết noradrenaline gây tăng huyết áp kéo dài, khối u tiết cả adrenaline
và noradrenaline có biểu hiện tăng huyết áp không đều, khối u chỉ tiết
adrenaline đơn thuần gây giảm huyết áp và một số ít khối u tiết dopamine thì
có huyết áp bình thường.
Ở các bệnh nhân u sắc bào tủy thượng thận ác tính có di căn xa thường
biểu hiện của tăng tiết catecholamine và mức độ tăng huyết áp rõ ràng hơn,
đồng thời có thể có thêm các triệu chứng ảnh hưởng của khối u di căn và/hoặc
hội chứng cận u.
1.2.1.3. Cận lâm sàng

Xét nghiệm sinh hóa
 Định lượng metanephrine trong huyết tương.
 Định lượng metanephrine và catecholamine trong nước tiểu 24h.
Do catecholamine có thời gian bán hủy ngắn, quá trình giải phóng theo
từng giai đoạn vì thế rất khó đo nồng độ catecholamine đỉnh trong máu trừ khi
bắt đúng cơn tăng huyết áp kịch phát, vì thế xét nghiệm nước tiểu 24h cho kết
quả chính xác hơn . Tuy nhiên trên lâm sàng, thường sử dụng phương pháp
định lượng metanephrine huyết tương do thuận tiện hơn trong việc lấy mẫu
xét nghiệm.


Chẩn đoán hình ảnh
 Siêu âm: phát hiện khối u tại vị trí tuyến thượng thận, cấu trúc
đặc, có thể hoại tử hay tạo nang chứa dịch. Đây là phương tiện chẩn đoán rẻ


10

tiền, có thể áp dụng rộng rãi nhưng giá trị hình ảnh chưa cao nên chủ yếu
được dùng trong sàng lọc.
 Chụp cắt lớp vi tính: trước tiêm thuốc cản quang u có hình ảnh
khối tròn, ranh giới rõ, tỷ trọng tổ chức không đều, sau tiêm khối ngấm thuốc
mạnh, đôi khi có giảm tỷ trọng vùng trung tâm do hoại tử, tạo nang, chảy
máu. Tổn thương không đều gặp trong 68% trường hợp .
 Chụp cộng hưởng từ: tổn thương tăng tín hệu không đều trên T2
do bản chất tăng sinh mạch và hoại tử chảy máu kèm theo ở trung tâm khối.
Sau tiêm khối ngấm thuốc mạnh. Chụp cộng hưởng từ có giá trị tốt trong đánh
giá tính chất khối và tổn thương phần mềm xung quanh.
Chụp cắt lớp vi tính ổ bụng, chụp cộng hưởng từ là những phương pháp
chẩn đoán hình ảnh có giả trị cao trong u tuyến thượng thận. Tuy nhiên,
không có đặc điểm chẩn đoán hình ảnh nào đủ tin cậy để phân biệt u lành và u
ác trừ khi có bằng chứng trực tiếp của xâm lấn vào gan, thận, tụy hoặc di căn
xa tới xương, hạch lympho, gan và phổi. Hoại tử trong u, chảy máu, mật độ
không đồng nhất có thể gặp cả ở u lành tính và ác tính.
1.2.1.4. Chẩn đoán, tiên lượng và điều trị
Đa số các u sắc bào là lành tính, phương pháp điều trị chính là phẫu
thuật cắt bỏ u, có thể phẫu thuật theo phương pháp kinh điển (mổ mở) hoặc
phẫu thuật noi soi. Điều trị nội khoa chủ yếu nhằm mục đích kiểm soát huyết
áp và dự phòng cơn tăng huyết áp kịch phát.
Đối với điều trị u sắc bào tủy thượng thận ác tính phụ thuộc vào mức

độ lan rộng của khối u. Nếu cắt bỏ không hoàn toàn hoặc đã có di căn xa thì
sau phẫu thuật dùng hóa trị và xạ trị. U sắc bào ác tính có tiên lượng xấu với
tỷ lệ sống 5 năm khoảng 45-55%.
Theo dõi lượng catecholamine và các chất chuyển hóa của nó trong
nước tiểu kết hợp với chẩn đoán hình ảnh được khuyến cáo để theo dõi sau
phẫu thuật nhằm phát hiện tái phát và di căn.


11

Đối với trẻ em hoặc những bệnh nhân có tiền sử gia đình nên theo dõi
lượng catecholamine để đánh giá nhiều khối u tế bào ưa crom nguyên phát tại
các vị trí khác nhau.
1.2.2. Giải phẫu bệnh u sắc bào
1.2.2.1. Phân loại u sắc bào
Theo phân loại của Tổ chức y tế thế giới về các khối u nội tiết năm
2004 (WHO 2004), u sắc bào tủy thượng thận (pheochromocytoma) được
phân loại như sau :
U sắc bào ác tính

8700/3

U sắc bào lành tính

8700/0

U sắc bào/ U cận hạch phối hợp
1.2.2.2. U sắc bào lành tính
U sắc bào lành tính (Benign pheochromocytoma) là những khối u lành
tính xuất phát từ tế bào ưa crom tại tủy thượng thận.




Đại thể
U tự phát thường một bên, kích thước 3-5cm. Với các trường

hợp u ở cả hai bên tuyến thượng thận thường liên quan đến các hội chứng di
truyền gia đình hay kèm theo quá sản lan tỏa vùng tủy thượng thận.

Khối u có ranh giới rõ, các khối lớn thường có xu hướng chèn
ép mô vùng vỏ thượng thận. Diện cắt có màu xám hồng, nâu nhạt hoặc đỏ với
các vùng xung huyết, chảy máu. Đôi khi xơ hóa, thoái hóa nang hoặc hoại tử.

Phản ứng ưa crom là phương pháp dùng trên đại thể để phát
hiện catecholamine. Sau khi ngâm trong dung dịch cố định dichromate khối u
chuyển sang màu nâu đậm do oxy hóa các catecholamine, có thể được quan
sát trên đại thể nhưng tan hoàn toàn trong nước và mất đi trong chuyển đúc
thông thường .


12

Hình 1.3. Đại thể u sắc bào sau khi ngâm vào dung dịch dichromate



Mô bệnh học
Cấu trúc mô u có rất nhiều dạng khác nhau. Trong trường hợp

điển hình mô u sắp xếp dạng cấu trúc “zellballen” gồm những ổ tế bào u

(nest) được quây xung quanh bởi những tế bào nâng đỡ (những tế bào này
thấy trên nhuộm dấu ấn S100), các ổ ngăn cách nhau bởi các dải xơ mạch
mảnh. Ngoài cấu trúc ổ, mô u còn có dạng dải, dạng bè, dạng đám đặc hoặc
dạng lan tỏa ,. Đôi khi có thể gặp dạng giả nhú nhưng chủ yếu là do mạch
máu xung huyết hoặc chảy máu gây giãn cách mô u. Giữa các dải hoặc đám tế
bào u có nhiều lưới mạch máu thành mỏng.


13

Hình 1.4. U sắc bào với cấu trúc dạng ổ hay zellballen


Tế bào u hình đa diện, nhân tròn hoặc hình ovan, bào tương khá

rộng, dạng hạt mịn. Trên tiêu bản nhuộm HE thường quy, bào tương tế bào
thường ưa base hoặc trung tính (kỵ màu). Nhân tế bào khá đều, đôi khi có hạt
nhân, nhiều vùng tế bào chất nhiễm sắc phân bố dạng muối tiêu phù hợp với
nguồn gốc thần kinh nội tiết của u. Dạng tế bào u hình thoi cũng xuất hiện
trong một số khối u nhưng không chiếm ưu thế . Giả thể vùi trong nhân gặp
trong 1/3 số trường hợp. Các khối u sắc bào lành tính thường gặp thể cầu
hyaline hóa trong bào tương, đây là những thể hình cầu nhỏ kích thước không
đều bắt màu acid, dương tính trên tiêu bản nhuộm Periodic acid Schiff
(nhuộm PAS) , thể cầu hyaline giúp phân biệt u sắc bào với u vùng vỏ.

Một số ít khối u có bài tiết ACTH, thoái hóa mỡ gây chẩn đoán
nhầm là u vùng vỏ tuyến thượng thận. Mô mỡ nâu quanh thượng thận có thể
thấy trong một số khối u nhưng ý nghĩa không rõ.

Một số vùng mô u có thể thấy lắng đọng chất dạng tinh bột

(amyloid) hoặc tăng sinh xơ .

Hình 1.5. Tế bào u với bào tương dạng hạt mịn ưa base


14

Hình 1.6. Hình ảnh cầu hyaline trong bào tương tế bào u
1.2.2.3. U sắc bào tủy thượng thận ác tính
U sắc bào tủy thượng thận ác tính (malignant pheochromocytoma) là
khối u ác tính của tế bào ưa crom tủy thượng thận.
Trên lâm sàng, u sắc bào ác tính không thường gặp, chỉ chiếm tỷ lệ
khoảng 10% tổng số u sắc bào tuyến thượng thận. Theo phân loại của Tổ chức
Y tế thế giới về các khối u nội tiết năm 2004 (phân loại WHO 2004), chẩn
đoán u sắc bào ác tính dựa vào bằng chứng di căn của khối u tới những vị trí
bình thường không có tế bào ưa crom, không tính đến xâm nhập tại chỗ .
Tỷ lệ phân bố theo tuổi và giới của u sắc bào ác tính không có sự khác
biệt so với u sắc bào lành tính. Có sự khác biệt nhỏ giữa tần suất mắc u sắc
bào ác tính giữa nhóm có bệnh lý di truyền gia đình với nhóm xuất hiện ngẫu
nhiên. Tỷ lệ ác tính của u sắc bào giữa các hội chứng di truyền khác nhau
cũng khác nhau như với những bệnh nhân u xơ thần kinh type 1 có tỷ lệ ác
tính thấp hơn các bệnh nhân có các hội chứng đa u nội tiết.
Biểu hiện di căn của u có thể được phát hiện ngay tại thời điểm chẩn
đoán hoặc vài năm sau thời điểm phẫu thuật. Các vị trí di căn thường gặp gồm
có di căn hạch vùng, di căn cột sống và xương sọ, gan, thận…. U sắc bào ác
tính cũng có xâm nhập tại chỗ (xâm nhập vỏ, mô mỡ quanh thượng thận)


15


và/hoặc xâm nhập mạch nhưng những dấu hiệu này không phải luôn xuất hiện ở
những bệnh nhân có di căn xa và xâm lấn tại chỗ không được đưa vào tiêu chuẩn
chẩn đoán xác định u ác tính. Cần loại trừ các trường hợp xuất hiện u tế bào ưa
crom nguyên phát tại nhiều vị trí, do đó di căn chỉ được tính với các trường hợp
có mô u tại vị trí bình thường không có mặt tế bào ưa crom.

Đại thể
Đại thể u sắc bào ác tính về cơ bản không có nhiều khác biệt so với u
sắc bào lành tính. Tuy nhiên, cũng có thể gặp một số dấu hiệu đại thể gợi ý
tính chất ác tính của u như:

Kích thước khối u có xu hướng lớn hơn so với u lành.

Diện cắt qua mô u có thể thấy dạng nốt hay tạo thùy, mặt cắt
không thuần nhất, có các đốm chảy máu và hoại tử.

Khối u có thể dính với các cấu trúc xung quanh, đôi khi xâm
nhập vào mô vỏ thượng thận và mô mỡ quanh thượng thận.

Mô bệnh học
Đặc điểm hình thái và cấu trúc của u sắc bào ác tính về cơ bản không
có nhiều khác biệt so với u sắc bào lành tính. Năm 2004 trong phân loại của
Tổ chức y tế thế giới đã đưa ra một số đặc điểm vi thể có tính chất gợi ý u sắc
bào ác tính bao gồm :
1. Xâm nhập vỏ: Đôi khi đặc điểm này khó đánh giá với các trường
hợp u không rõ vỏ xơ mà chỉ phân ranh giới rõ.
2. Xâm nhập mạch: được định nghĩa bởi sự xâm lấn trực tiếp của mô u
vào trong lòng mạch máu vùng vỏ hoặc phía ngoài khối u, có cục tắc trong
lòng mạch cấu tạo bởi mô u và/hoặc ổ tế bào u phủ bởi nội mô trong vỏ hoặc
ngoài vỏ mạch. Không có sự khác biệt giữa mạch máu và mạch bạch huyết.

Biểu hiện mô u trong lòng mạch ở giữa khối u (bên trong vỏ) không có giá trị
chẩn đoán xâm nhập mạch.
3. Xâm nhập ra mô mỡ quanh thượng thận.
4. Mô u có dạng phát triển ổ lớn, các ổ có thể hợp nhất với nhau. Ổ lớn
được định nghĩa có kích thước lớn hơn ít nhất 3 lần kích thước zellballen


16

trong hạch phó giao cảm bình thường. Cấu trúc ổ lớn phải chiếm >10% thể
tích mô u mới có giá trị.
5. Phát triển lan tỏa. Mô u không còn cấu trúc chia ổ chia thùy ngăn
cách nhau bởi vách xơ mạch.
6. Hoại tử: gồm hoại tử trung tâm của các ổ lớn và/ hoặc các ổ hoại tử
hợp nhau, lan tỏa trên diện rộng. Biến đổi thoái hóa không phải hoại tử.
7. Tăng mật độ tế bào.
8. Tế bào u hình thoi.
9. Nhân tế bào đa hình.
10. Tế bào đơn dạng: các tế bào nhân nhỏ đều hơn mô u bình thường
nhưng tỷ lệ tỷ lệ nhân/ bào tương cao.
11. Nhân tăng sắc.
12. Hạt nhân lớn.
13. Tăng tỷ lệ nhân chia. Một số nghiên cứu sử dụng mốc>3 nhân
chia/10 vi trường độ phóng đại lớn (x 400 lần) để làm mốc cho đánh giá u
sắc bào ác tính.
14. Nhân chia không điển hình: được định nghĩa là sự chia cắt
chromosome bất thường, nhân chia ba cực, nhân chia bốn cực, nhân chia
dạng hình tròn hoặc nhân chia quái dị khổng lồ không rõ cực.
15. Vắng mặt thể cầu hyaline
Không một đặc điểm mô học nào được sử dụng đơn độc để khẳng định

u sắc bào ác tính. Theo định nghĩa, tình trạng di căn của khối u vẫn là tiêu
chuẩn vàng cho u sắc bào ác tính. Tuy nhiên, u sắc bào di căn không nhiều và
thường di căn muộn, tính chất ác tính cao do đó hầu hết các nghiên cứu u sắc
bào ác tính hiện nay tiến hành hồi cứu. Đôi khi có tình trạng khối u xâm lấn
tại chỗ hoặc tái phát, bệnh tiến triển nặng và dẫn đến tử vong kể cả khi chưa
biểu hiện di căn xa thực sự. Do đó, nhiều nghiên cứu đã được tiến hành nhằm
đánh giá sự kết hợp của những tiêu chuẩn hình thái trên mô bệnh học mục
đích đánh giá tiềm năng ác tính của khối u phục vụ cho tiên lượng và hỗ trợ
trong kế hoạch theo dõi và điều trị cho bệnh nhân.

Một số thang điểm đánh giá u sắc bào ác tính


17

Nhiều nghiên cứu đã được công bố bởi các nhà giải phẫu bệnh về mô
bệnh học, HMMD và các đặc điểm khác nhằm đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán
cho u sắc bào ác tính trước khi có tình trạng di căn nhưng cho đến nay vẫn
chưa đạt được sự thống nhất. Do không có yếu tố nào có thể sử dụng đơn độc
để chẩn đoán tính chất ác tính của khối u, vì thế xu hướng nghiên cứu hiện
nay phối hợp nhiều yếu tố lâm sàng, mô bệnh học, sinh hóa và đột biến gen để
tiếp cận chẩn đoán chính xác hơn . Một số thang điểm được công bố và sử
dụng trong u sắc bào như phân loại của Linnoila, thang điểm PASS, thang
điểm GAPP.


Năm 1990, Linnoila và cộng sự đã đưa ra 4 tiêu chuẩn chẩn

đoán u tế bào ưa crom ác tính gồm: vị trí u ngoài tuyến thượng thận, mô u cấu
trúc chia thùy, hoại tử u, không có giọt cầu hyaline. Nếu mô u không có hoặc

có 1 trong 4 tiêu chuẩn trên được xếp vào nhóm lành tính, nếu khối u có từ 2
đến 4 trên 4 tiêu chuẩn trên được xếp vào nhóm ác tính . Hệ thống phân loại
này còn sơ sài và ưu tiên cho u tế bào ưa crom ngoài tủy thượng thận nên
không được áp dụng rộng rãi.

Năm 2002, Lester Thompson đã đưa ra thang điểm phân độ u
sắc bào tủy thượng thận (Pheochromocytoma of the adrenal gland scaled
score) gọi tắt là thang điểm PASS gồm 12 tiêu chuẩn dựa trên hình thái mô
bệnh học đơn thuần .
Bảng 1.1. Thang điểm phân độ u sắc bào tuyến thượng thận (PASS)
Đặc điểm
Ổ lớn hoặc phát triển lan tỏa (> 10% mô u)
Hoại tử trung tâm của ổ tế bào hoặc hoại tử hợp nhau
(không tính biến đổi thoái hóa)
Mật độ tế bào cao
Tế bào u hình thoi
Nhân chia > 3/10 HPF
Tế bào đơn dạng
Nhân chia không điển hình
Xâm lấn mô mỡ quanh thượng thận

Điểm
2
2
2
2
2
2
2
2



18

Xâm nhập mạch
Xâm nhập vỏ
Nhân tế bào tăng sắc
Nhân tế bào đa hình
Tổng điểm

1
1
1
1
20

Với thang điểm PASS, tổng điểm < 4 điểm được xếp nhóm u lành tính
và tổng điểm ≥ 4 điểm được xếp nhóm u ác tính.

Năm 2005, Kimura và cộng sự bắt đầu nghiên cứu tiếp cận phân
độ u tế bào ưa crom ác tính cả vị trí tại tủy thượng thận (pheochromocytoma)
và vị trí ngoài thượng thận (paraganglioma) . Năm 2014, Kimura đã sửa đổi
và đưa ra hệ thống phân độ cho u tế bào ưa crom tại tủy thượng thận và ngoài
tủy thượng thận gọi tắt là hệ thống phân độ GAPP (Grading system for
adrenal phaechromocytoma and paraganglioma) .
Bảng 1.2. Hệ thống phân độ GAPP
Đặc điểm
Đặc điểm cấu trúc
Các ổ tế bào đơn dạng
Các ổ tế bào lớn và không đều

Có cấu trúc giả hoa hồng
Mật độ tế bào
Thấp (< 150 tế bào/mm2)
Trung bình (150-250 tế bào/mm2)
Cao (> 250 tế bào/mm2)
Hoại tử trứng cá
Không

Xâm nhập mạch hoặc xâm nhập vỏ
Không

Dấu ấn Ki-67 (%)
<1
1-3

Điểm
0
1
1
0
1
2
0
2
0
1
0
1



19

>3
Loại catecholamine
Loại epinephrine (E hoặc E+NE)
Loại norepinephrine (NE hoặc NE+DA)
Loại không hoạt động chức năng
Tổng điểm lớn nhất

2
0
1
0
10

(Trong đó: E là epinephrine, NE là norepinephrine, DA là dopamine)
Với thang phân độ GAPP, Kimura không xếp nhóm u sắc bào lành tính
và ác tính mà chia thành 3 nhóm biệt hóa: biệt hóa cao (0-2 điểm); biệt hóa
trung bình (3-6 điểm); kém biệt hóa: 7-10 điểm. Dựa trên các nhóm biêt hóa,
tác giả đưa ra mức nguy cơ di căn của khối u, tiên lượng sống thêm 5 năm.

Thang điểm PASS chỉ áp dụng cho u sắc bào tủy thượng thận
(pheochromocytoma), trong khi thang phân độ GAPP có thể dùng cả u tế bào
ưa crom tại thượng thận và ngoài thượng thận (Pheochromocytoma and
Paraganglioma). Việc sử dụng thang điểm PASS dựa trên hình thái học với
tiêu bản nhuộm HE thường quy, còn thang điểm GAPP cần sự kết hợp của cả
xét nghiệm sinh hóa, mô bệnh học thường quy và hóa mô miễn dịch.

Có một số đặc điểm về hình thái mô bệnh học được áp dụng cho
cả thang điểm PASS và thang điểm GAPP như hoại tử u (hình thái hoại tử

trung tâm các ổ lớn hay còn gọi là hoại tử trứng cá), mật độ tế bào cao, tình
trạng xâm nhập vỏ, xâm nhập mạch máu. Thang điểm GAPP đã lược bỏ đi
một số đặc điểm hình thái như: không đánh giá tính trạng xâm nhập mô mỡ
quanh thượng thận, tính chất đa hình của nhân tế bào, đặc điểm nhân chia
không điển hình, nhân tăng sắc, tế bào đơn dạng, tế bào hình thoi. Việc sử
dụng dấu ấn hóa mô miễn dịch Ki67 (trong thang GAPP) thay thế cho đếm số
lượng nhân chia/10 vi trường (thang điểm PASS) sẽ giúp xác định khách quan
hơn tỷ lệ phân chia của tế bào u.

Tổng điểm cuối cùng của thang điểm GAPP cần có sự kết hợp
của các tiêu chí thuộc chuyên ngành giải phẫu bệnh (mô bệnh học, hóa mô
miễn dịch) và xét nghiệm sinh hóa đôi khi sẽ gây khó khăn cho nhà giải phẫu


20

bệnh về phương diện thông tin lâm sàng. Bên cạnh đó, xét nghiệm định lượng
catecholamine vẫn còn nhiều tranh cãi như: sử dụng mẫu huyết tương hay
mẫu nước tiểu 24 giờ để định lượng chưa được thống nhất; việc phân định
nhóm khối u tiết epinephrine được mặc định biệt hóa cao (0 điểm trong thang
phân loại), trong khi đó khối u tiết noradrenaline cho 1 điểm, tình trạng không
tiết hormon cũng được cho vào nhóm biệt hóa cao chưa có lý giải rõ ràng; vấn
đề tiết catecholamine từ những tế bào ưa crom ngoài thượng thận do các
nguyên nhân không u cũng chưa được tính đến. Trong thang GAPP việc
không sử dụng phân nhóm lành tính và ác tính mà chia nhóm biệt hóa trong
đó có nhóm biệt hóa trung gian gây khó khăn trong nhận định tiến triển của u
cũng như tiên lượng bệnh nhân ,,,. Hiện nay, thang điểm GAPP vẫn đang tiếp
tục được đưa vào thử nghiệm trong các nghiên cứu và có một số tác giả đang
sử dụng kết hợp hai thang điểm PASS và GAPP nhằm tăng giá trị tiên lượng
trong tiếp cận u tế bào ưa crom ác tính .


Cho đến nay, thang điểm PASS được nhiều nghiên cứu đánh giá
có giá trị cao, dễ áp dụng cho các nhà giải phẫu bệnh trong đánh giá, tiên
lượng tính chất ác tính của khối u và được nhiều nhà giải phẫu bệnh cũng như
lâm sàng chấp nhận ,,.
1.2.2.4. Hóa mô miễn dịch
U sắc bào thuộc nhóm u thần kinh nội tiết, vì thế mô u dương
tính với các dấu ấn thần kinh nội tiết: Chromogranin A, Synaptophysin,
CD56. Trong các trường hợp cần phân biệt khối u sắc bào vùng tủy thượng
thận với các khối u vùng vỏ thượng thận hay ung thư biểu mô di căn đến
tuyến thượng thận cần sử dụng thêm hóa mô miễn dịch bổ sung cho chẩn
đoán xác định.
Các tế bào u sắc bào tủy thượng thận bộc lộ dương tính với các dấu ấn
hóa mô miễn dịch như chromogranin A, synaptophysin, CD56. Tế bào u âm
tính với CK, EMA. Tế bào nâng đỡ ở ngoại vi các ổ tế bào u dương tính với
S100 . U sắc bào tủy thượng thận có thể phân biệt với các u thần kinh nội tiết
khác di căn tới tuyến thượng thận bằng nhuộm tyrosine hydroxylase và có thể


21

phân biệt với ung thư biểu mô tế bào thận di căn đến tuyến thượng thận bằng
phản ứng âm tính của tế bào u với EMA.
Dấu ấn Ki67 có tương quan với độ ác tính của khối u và đã được nhiều
nghiên cứu kiểm chứng ,. Ki67 hỗ trợ đánh giá hoạt động phân bào của khối u
khách quan hơn so với đếm số lượng nhân chia trên tiêu bản HE thường quy.
Trong thang điểm GAPP sử dụng dấu ấn Ki67 là một trong những tiêu chí
phân độ u tế bào ưa crom và được chia ra ba mức độ (Ki67 dương tính < 1%
tế bào u; từ 1-3% và > 3% tế bào u) .


Ki67

Ki67 là protein nhân cần thiết cho quá trình tăng sinh tế bào,
hơn nữa nó còn kết hợp với ribosome RNA phiên mã, do đó bất hoạt kháng
nguyên Ki67 dẫn đến ức chế tổng hợp RNA ribosome.

Nhuộm hóa mô miễn dịch dấu ấn Ki67 giúp đánh giá sự tăng
sinh của tế bào.

Nhuộm HMMD dấu ấn Ki67 được thực hiện trên bệnh phẩm cố
định paraffin sử dụng kháng thể đơn dòng Mib-1.
 Chromogranin A

Là tiền thân của một số peptid chức năng bao gồm: vasostatin-1,
vasostatin-2, pancreastatin, catestatin và parastatin.

Nhuộm HMMD dấu ấn chromogranin A giúp xác định các tế
bào có nguồn gốc thần kinh nội tiết.

Dấu ấn Chromogranin A là dấu ấn đáng tin cậy nhất để phân
biệt u sắc bào vùng tủy thượng thận với các u tuyến vỏ thượng thận và các u
di căn không phải thần kinh nội tiết .
 Synaptophysin

Đây là một glycoprotein xuyên màng có trọng lượng 38kDa, nó
hiện diện trong các tế bào thần kinh nội tiết, nhuộm synaptophysin cho phép
xác định các tế bào có nguồn gốc thần kinh nội tiết.

Dấu ấn synaptophysin được ghi nhận có tỷ lệ dương tính thay
đổi trong các khối u thượng thận.

 Cytokeratin (CK)


22


Đây là protein tạo nên sợi khung trong bào tương (có tác dụng

định hình dạng tế bào) của tế bào biểu mô. Nhuộm CK giúp xác định tế bào u
thuộc dòng biểu mô hay mô liên kết.

U sắc bào phản ứng âm tính với dấu ấn CK. Nhuộm CK chủ yếu
trong phân biệt di căn ung thư biểu mô tới tuyến thượng thận.
 Các dấu ấn phân biệt u sắc bào và u tuyến vỏ thượng thận

Melan A: là một protein kháng nguyên được tìm thấy ở bề mặt
của các tế bào hắc tố. U vỏ thượng thận phản ứng dương tính với dấu ấn
Melan A. Nhuộm Melan A cho phép phân biệt u tuyến vỏ thượng thận và u
tuyến tủy thượng thận.

Inhibin-α: tế bào u vùng vỏ thượng thận cũng dương tính với
dấu ấn này.


Calretinin: là protein gắn canxi liên quan đến tín hiệu canxi, ở

người protein calretinin mã hóa cho gen CALB2. Nhuộm calretinin cũng giúp
chẩn đoán phân biệt u tuyến vỏ thượng thận và u tuyến tủy thượng thận.
1.2.3. Tình hình nghiên cứu u sắc bào
1.2.3.1. Nghiên cứu trên thế giới

Năm 1902, Köhn thông báo sự hiện diện của tế bào ưa crom ở vùng tủy
thượng thận. Năm 1886, Frankel mô tả biểu hiện lâm sàng của u sắc bào tủy
thượng thận. Năm 1912, Pick nhận định u sắc bào có phản ứng ưa crom.
Các đặc điểm về hình thái mô bệnh học được mô tả và bổ sung ngày
càng chi tiết hơn nhưng vấn đề chẩn đoán phân biệt u sắc bào lành tính và u
sắc bào ác tính vẫn còn nhiều khó khăn. Nhiều nghiên cứu được tiến hành
nhằm đưa ra các thang điểm đánh giá u sắc bào ác tính như nghiên cứu của
Linnoila và cộng sự năm 1990 , John và cộng sự năm 1999 , Thompson năm
2002 , Kimura và cộng sự năm 2005 và 2014 ,…


23

Năm 2002, Thompson và cộng sự đã đưa ra thang điểm PASS đánh giá
u sắc bào tuyến thượng thận. Sự kết hợp nhiều đặc điểm mô bệnh học trong
thang điểm giúp việc xác định tiềm năng ác tính của khối u chính xác hơn .
Năm 2006, Gao và cộng sự đã nghiên cứu trên 130 bệnh nhân u sắc bào tại
tủy thượng thận và đi đến kết luận thang điểm PASS có giá trị trong đánh giá
u sắc bào ác tính . Năm 2008, Strong và cộng sự nghiên cứu trên 48 bệnh
nhân áp dụng thang điểm PASS kết hợp với hóa mô miễn dịch với các dấu ấn
về chu kỳ tế bào/apoptosis (p53, Bcl-2, MDM-2, Cyclin D1, p21 và p27) thấy
rằng PASS < 4 điểm đều là u lành tính, với PASS ≥ 6 điểm đều là u ác tính, và
với các trường hợp PASS 4-5 điểm thì u có nguy cơ tái phát tại chỗ cao .
Ngoài ra nhiều nghiên cứu gần đây cũng ủng hộ sử dụng thang điểm PASS
như trong nghiên cứu của Wu và cộng sự năm 2009 , nghiên cứu của Agarwal
và cộng sự năm 2010 , cũng như trong nghiên cứu của Mlika và cộng sự năm
2013 .
Trong nghiên cứu của Kimura và cộng sự tiến hành trên 146 trường
hợp u tế bào ưa crom tủy thượng thận và ngoài thượng thận (với 38 trường
hợp ác tính) được đánh giá theo thang điểm GAPP có sử dụng dấu ấn hóa mô

Ki67 (với hai điểm giới hạn là 1% và 3%), ngoài việc dựa trên HE và HMMD
kết hợp thêm với biểu hiện trên sinh hóa (loại catecholamine được các tế bào
u chế tiết) ,. Thang phân độ GAPP sửa đổi năm 2014 đang trong quá trình thử
nghiệm trên các nghiên cứu.
Việc sử dụng dấu ấn hóa mô miễn dịch Ki67 nhằm đánh giá khách quan
hơn về hoạt động phân bào của mô u so với đếm nhân chia trên HE thường
quy đã được các nhà nghiên cứu sử dụng rộng rãi và đa số thống nhất tỷ lệ
Ki67 có tương quan với độ ác tính của khối u ,,,. Tuy nhiên, đến nay sự thống
nhất về điểm mốc của dấu ấn Ki67 vẫn chưa đạt được. Như trong nghiên cứu


24

năm 1999 của Martha và cộng sự sử dụng mốc tỷ lệ dương tính của Ki67 >
2% , năm 2000 Harst và cộng sự sử dụng mốc tỷ lệ Ki67 dương tính > 2,5% .
1.2.3.2. Nghiên cứu trong nước
Hiện tại đa số các nghiên cứu được tiến hành với u tuyến thượng thận
nói chung trên các khía cạnh lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị ,,,. Năm 2013,
tác giả Nguyễn Huy Hoàng nghiên cứu về cận lâm sàng, điều trị phẫu thuật
nội soi với u tủy thượng thận lành tính trên 57 bệnh nhân . Tác giả Hà Ngọc
Quân nghiên cứu 80 bệnh nhân u tuyến thượng thận không triệu chứng trong
12 năm có 2 trường hợp u sắc bào ác tính (có di căn tạng khác) .
V

ề giải phẫu bệnh, năm 2007 tác giả Tiền Thanh Liêm, Hứa Thị

Ngọc Hà và cộng sự nghiên cứu trên 87 bệnh nhân u tuyến thượng thận nói
chung tại bệnh viện Chợ Rẫy . Tác giả Phạm Minh Anh nghiên cứu về hình
thái học một số u tuyến thượng thận nguyên phát tại bệnh viện Việt Đức 2009
trên 56 trường hợp với 32,2% (18 trường hợp) u sắc bào, không ghi nhận

trường hợp nào u sắc bào tủy thượng thận ác tính, không tiến hành nhuộm
HMMD cho nhóm u sắc bào tủy thượng thận .


25

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 93 bệnh nhân được
chẩn đoán là sắc bào bào tủy thượng thận (Pheochromocytoma) tại Bệnh viện
hữu nghị Việt Đức trong thời gian từ tháng 1/2015 đến tháng 6/2017 trong đó
có 67 bệnh nhân hồi cứu (từ tháng 1/2015 đến tháng 9/2016) và 26 bệnh nhân
tiến cứu (từ tháng 10/2016 đến tháng 6/2017). Trong số 93 bệnh nhân có 2
bệnh nhân có u ở cả hai bên tuyến thượng thận, vì vậy tổng số khối u trong
nghiên cứu là 95 khối u.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Những bệnh nhân được chẩn đoán xác định là u sắc bào
tủy thượng thận và có đầy đủ các tiêu chuẩn sau:
Còn tiêu bản lưu trữ, đảm bảo chất lượng để chẩn đoán.
- Còn khối nến có đủ bệnh phẩm để chẩn đoán mô bệnh học trên
cắt nhuộm HE thường quy và nhuộm hóa mô miễn dịch nếu cần.
- Hồ sơ lưu trữ của bệnh nhân còn đầy đủ với các thông tin về đại
thể và vi thể.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Không đưa vào nghiên cứu các trường hợp:
- U tuyến thượng thận có nguồn gốc vỏ thượng thận.
- U sắc bào vị trí ngoài tuyến thượng thận (paraganglioma).
- Các trường hợp u di căn tới tuyến thượng thận.
- Còn tiêu bản và khối nến nhưng không đảm bảo đủ bệnh phẩm

cho chẩn đoán mô bệnh học và nhuộm hóa mô miễn dịch.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang có hồi cứu và tiến cứu.
2.2.2. Cỡ mẫu


×