Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Các giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phần tìm hiểu bài trong phân môn tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.41 KB, 18 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN ĐỊNH

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN YÊN ĐỊNH
TRƯỜNG
HỌCĐỊNH
ĐỊNH
LONG
TRƯỜNGTIỂU
TIỂU HỌC
BÌNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHẦN TÌM HIỂU BÀI
TRONG PHÂN MÔN TẬP ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 4.

CÁC GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 HỌC TỐT
PHẦN TÌM HIỂU BÀI TRONG PHÂN MÔN TẬP ĐỌC

Người thực hiện: Nguyễn Thị Bình
Chức vụ: Giáo viên

Người thực hiện: Vũ Huy Long

Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Định Long
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt

Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Định Long


SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt

YÊN ĐỊNH, NĂM 2018
MỤC LỤC
YÊN ĐỊNH, NĂM HỌC: 2018 - 2019


MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của việc dạy học tập đọc:
2.2. Thực trạng của việc dạy học tập đọc ở lớp 4 trước khi áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận:
3.2. Kiến nghị:

Trang
2
2
3
3

3
4
4
5
7
14
16
16

2


1/ MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Xã hội ngày càng phát triển do đó ngành giáo dục không thể không thay
đổi, không thể không đổi mới. Vì vậy, năm 2013, Hội nghị Trung ương khóa 8
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Nghị quyết Số 29 “Về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế”. Nghị quyết định hướng: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là
đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội. Thực hiện theo nghị quyết số 29, Bộ Giáo dục đã có nhiều
giải pháp lớn trong nền giáo dục để đổi mới phương pháp dạy học. Phương pháp
dạy học rất quan trọng, nó là con đường để cung cấp kiến thức cho học sinh. Dù ở
cấp nào, trình độ lứa tuổi nào cũng rất cần một phương pháp truyền thụ dễ hiểu
nhất. Đặc biệt là ở bậc Tiểu học bởi vì ở lứa tuổi các em nhận thức còn thấp, để
nắm bắt và tiếp nhận được các kiến thức khó, trừu tượng thì đòi hỏi ở người giáo
viên phải có một phương pháp phù hợp để giúp các em tiếp nhận nội dung một
cách dễ dàng hơn.

Xuất phát từ mục đích đó mà trong từng môn học, tiết học, từng hoạt động
dạy học, từng câu hỏi giáo viên cần phải biết vận dụng, kết hợp đưa vào những
phương pháp dạy học sao cho phù hợp. Đấy là vấn đề thiết thực để hưởng ứng
cuộc vận động sâu rộng trong toàn ngành về đổi mới phương pháp dạy học ở
tiểu học. Hiện nay, Bộ Giáo dục & Đào tạo triển khai đổi mới toàn diện và đồng
bộ giáo dục đào tạo nhằm đáp ứng xu hướng hội nhập với các nước trong khu
vực và trên thế giới,
Trong bậc tiểu học, phân môn Tập đọc có một vị trí rất quan trọng. Đây là
một phân môn giúp học sinh phát triển khả năng giao tiếp đồng thời là thước đo
để đánh giá kết quả học tập của các em. Học tập đọc giúp học sinh phát huy vốn
kiến thức văn học.Thông qua các bài tập đọc, học sinh phát huy được vốn ngôn
ngữ, vận dụng những kiến thức từ ngữ, ngữ pháp đã học để trình bày, diễn đạt một
vấn đề thông qua một bài học cụ thể. Song trên thực tế, học sinh Tiểu học nói
chung và học sinh trường tôi thực nghiệm nói riêng đa phần còn gặp khó khăn
trong việc trả lời các câu hỏi cuối mỗi bài đọc. Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi
nhận thấy rằng các em chưa tích cực khi trả lời câu hỏi tìm hiểu bài. Một số em
chưa chịu khó tư duy tìm câu trả lời, đặc biệt là những câu hỏi mang tính suy
luận.Một số em có tư duy linh hoạt thì các em còn hứng thú trong giờ học còn
những học sinh còn hạn chế thì thường biểu hiện sự chán nản, không thích tìm tòi
mà chỉ ỷ lại, không mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình. Vì vậy trong giờ tập đọc
nếu gặp những câu hỏi khó phần lớn chỉ có giáo viên làm việc còn học sinh thụ
động tiếp nhận kiến thức.
Với lý do đó tôi quyết định chọn đề tài: “Các giải pháp giúp học sinh lớp
4 học tốt phần tìm hiểu bài trong phân môn Tập đọc” để góp phần giúp các em
có hứng thú trong quá trình học tập, tiếp nhận kiến thức một cách dễ dàng hơn
3


nhằm ngày càng phát triển toàn diện về nhân cách của bản thân trở thành con
người có ích cho xã hội.

1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích nắm rõ thực trạng việc dạy học tập
đọc ở lớp 4, để từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp, các cách hữu hiệu giúp
học sinh học tốt phần tìm hiểu bài, trả lời tốt các câu hỏi đặc biệt là các câu hỏi
khó nhằm nâng cao chất lượng dạy học tập đọc ở lớp 4.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Là những biện pháp, cách thức nhằm giúp học sinh lớp 4 học tốt phần
tìm hiểu bài trong phân môn Tập đọc.
- Học sinh lớp 4 – Trường Tiểu học Định Long– Năm học 2018 – 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện sáng kinh nghiệm tôi đã sử dụng một số phương
pháp sau:
a/ Phương pháp điều tra quan sát.
b/ Phương pháp đối chiếu so sánh.
c/ Phương pháp thực nghiệm.

4


2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của việc dạy học tập đọc:
Luật giáo dục đã chỉ rõ mục tiêu giáo dục Tiểu học nước ta hiện nay là
“Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản, góp phần hình thành bước đầu xây dựng nhân cách và trách nhiệm
công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên THCS”. Như vậy giáo dục
trong nhà trường hiện nay nhấn mạnh mục đích đào tạo phát triển con người
toàn diện.
Từ việc xác định mục tiêu tổng quát của toàn bậc tiểu học, Bộ Giáo dục Đào tạo đã ban hành một chương trình mới nhằm đáp ứng được mục tiêu đã đề
ra: Rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc ngày càng thành thạo, rèn tốt cả hai hình

thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Trau dồi vốn tiếng Việt, vốn văn học,
phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống, giáo dục, bồi
dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn cho học sinh. Đáp ứng mục tiêu đào tạo của
bậc Tiểu học.
Trong chương trình tiểu học, môn học không thể thiếu đối với học sinh là
môn Tiếng Việt vì tiếng Việt là ngôn ngữ giao tiếp của trẻ. Trong môn Tiếng Việt
nói chung và môn Tiếng Việt lớp 4 nói riêng thì phân môn Tập đọc có vai trò hết
sức quan trọng. Chương trình phân môn Tập đọc lớp 4 có 63 bài thuộc các loại văn
bản nghệ thuật, báo chí khoa học, trong đó có 46 bài văn xuôi, 1 vở kịch, 17 bài thơ
(có 2 bài thơ ngắn được dạy trong 1 tiết). Dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở tiểu
học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với những người đi học. Đầu
tiên các em phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh
được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các
môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh
có khả năng tự học và tinh thần học tập suốt đời. Nó là một khả năng không thể
thiếu được của con người thời đại văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ
cũng như tư duy của người đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi
dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một
cách lôgíc cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy, đọc có một ý nghĩa to lớn,
nó bao gồm nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Đọc không chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng các kí tự chữ viết
mà quan trọng hơn, đọc còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu
những gì được đọc. Đọc thành tiếng không thể tách rời với việc hiểu những gì được
đọc. Chỉ khi biết cách hiểu, hiểu sâu sắc, thấu đáo các văn bản được đọc thì học
sinh mới có công cụ hữu hiệu để lĩnh hội những tri thức, tư tưởng, tình cảm của
người khác chứa đựng trong văn bản, có công cụ để lĩnh hội tri thức khi học các
môn học khác của nhà trường.
Những điều ở trên đã khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và phát
triển một cách có hệ thống và có kế hoạch về năng lực đọc cho học sinh. Tập đọc là

một phân môn của môn Tiếng Việt ở tiểu học, có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu: Hình
5


thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. Học sinh học tập đọc chính là học
các kĩ năng để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi như
mục tiêu môn học đã xác định. Kiến thức hay tư tưởng, tình cảm, nhân cách của
học sinh chỉ được hình thành và phát triển khi việc dạy học kĩ năng đọc có hiệu
quả.
Phân môn Tập đọc ở lớp 4 tiếp tục củng cố, nâng cao kỹ năng đọc trơn, đọc
thầm đã được hình thành và phát triển từ các lớp dưới đồng thời rèn luyện một kỹ
năng mới trong phần luyện đọc lại, đây là mức độ cao, muốn đạt được thì học
sinh phải nắm được nội dung văn bản qua các câu hỏi của bài tập ở cuối mỗi bài
tập đọc.
2.2. Thực trạng của việc dạy học tập đọc ở lớp 4 trước khi áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm.
a/ Về chương trình và sách giáo khoa:
- Chương trình gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị ứng với một chủ điểm,
phân bố các bài tập đọc theo các chủ điểm, có nhiều chủ điểm được thể hiện
theo nguyên tắc đồng tâm, tích hợp. Nhìn chung các chủ điểm và nội dung các
bài tập đọc cụ thể có tính giáo dục, giá trị nghệ thuật cao.
Trong phân môn Tập đọc, các bước được thực hiện phù hợp với đặc thù
của phân môn: đọc thành tiếng - đọc thầm - tìm hiểu bài và luyện đọc lại.
- Phong cách của các văn bản có nội dung phong phú nhưng còn một số
câu hỏi hướng dẫn nặng nề tái hiện văn bản, mang tính áp đặt, có các câu hỏi ở
loại bài khoa học khó, trừu tượng... làm cho học sinh lúng túng trong quá trình
tìm hiểu nội dung văn bản.
b/ Quy trình dạy Tập đọc lớp 4:
I. Kiểm tra bài cũ:
Giáo viên cho 2 -3 em học sinh đọc thành tiếng hoặc học thuộc lòng bài

tập đọc trước đó. Đặt một số câu hỏi về nội dung để kiểm tra kỹ năng đọc hiểu.
II. Dạy bài mới:
1. Giới thiệu bài: Bằng câu hỏi gợi mở hoặc tranh ảnh... hay diễn giải
bằng lời, giáo viên giới thiệu ngắn gọn, không làm mất nhiều thời gian.
2. Hướng dẫn luyện đọc và tìm hiểu bài:
* Luyện đọc:
- Học sinh đọc thành tiếng từng đoạn văn:
+ Đọc nối tiếp nhau trước lớp: (2 - 3 lượt).
+ Đọc theo cặp hoặc nhóm.
+ 1 - 2 học sinh đọc lại toàn bài.
- Giáo viên đọc toàn bài.
* Tìm hiểu bài:
- Cho học sinh đọc từng đoạn văn (khổ thơ) và hướng dẫn HS trả lời
các câu hỏi cuối bài.
* Luyện đọc lại:
- Hướng dẫn học sinh đọc từng đoạn văn (khổ thơ).
- Hướng dẫn kỹ cách đọc một đoạn văn, khổ thơ.
6


- Học sinh đọc thuộc lòng đối với những bài có yêu cầu học thuộc.
+ Học sinh tự nhẩm học thuộc lòng.
+ Học sinh thi học thuộc lòng.
III. Củng cố, dặn dò:
- Hướng dẫn học sinh nhắc lại nội dung chính, ý nghĩa bài tập đọc.
- Nêu nhận xét tiết học.
- Nêu yêu cầu tiếp tục luyện tập và tiếp tục bài sau.
Chú ý: Tuỳ theo nội dung, cấu tạo của từng bài tập đọc và trình độ của
lớp giáo viên có thể dạy bài tập đoc theo cách "Bổ dọc" hoặc cách "Bổ ngang".
- Một số câu hỏi trong bài có thể đưa về phần củng cố bài học để khắc sâu

về nội dung của bài.
c/ Thực trạng dạy học Tập đọc ở trường Tiểu học Định Long, huyện Yên
Định, tỉnh Thanh Hoá.
Để tìm hiểu thực trạng dạy - học tâp đọc ở trường, tôi xin ý kiến Ban giám
hiệu tiến hành dự giờ và khảo sát thực tế qua bài kiểm tra lần 1, lần 2 và dự giờ
giáo viên lớp 4.
* Tiến hành khảo sát ngay vào đầu năm học:
- Số học sinh kiểm tra lần 1: 62 em ở cả 2 lớp (Lớp 4A, 4B), trong đó lớp
4A là lớp thực nghiệm và lớp 4B là lớp đối chứng.
- Số học sinh kiểm tra lần 2: 62 em ở cả 2 lớp (Lớp 4A, 4B), trong đó lớp
4A là lớp thực nghiệm lớp 4B là lớp đối chứng.
Cụ thể:
HS trả lời HS trả lời HS trả lời HS trả lời
nhanh và
nhanh và
đúng câu ấp úng câu
đúng câu
đúng câu
hỏi, hiểu
hỏi, hiểu
hỏi, hiểu và hỏi, hiểu
nội dung
nội dung
Lớp
nêu được
nội dung
nội dung
SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ
(%)
(%)

(%)
(%)
Thực nghiệm lớp 4A
8
10 31,2
7
7
25
21,9
21,9
32 học sinh
Đối chứng lớp 4B
7
9
8
6
23,3
30
26,7
20
30 học sinh
Qua kiểm tra đọc 62 em với hai lần kiểm tra, tôi thống kê: 15 em trả lời
nhanh và đúng câu hỏi, hiểu và nêu được nội dung ; 19 HS trả lời nhanh và
đúng câu hỏi, hiểu nội dung; 15 HS trả lời đúng câu hỏi, hiểu nội dung; 13
HS trả lời ấp úng câu hỏi, hiểu nội dung.
Các em không chỉ mắc lỗi khi đọc mà còn chưa tập trung khi đọc văn bản
nên dẫn đến khi trả lời các câu hỏi thường chưa đầy đủ hoặc sai, đặc biệt sai rất
nhiều ở những câu hỏi mang tính tư duy, không có các chi tiết trong bài học...
7



* Tiến hành dự giờ đồng nghiệp: Tôi xin phép Ban giám hiệu dự giờ
giáo viên khối 4 ( Dự 4 tiết Tập đọc ở lớp 4) để nắm bắt phương pháp giảng dạy,
quy trình dạy tập đọc, việc hướng dẫn học sinh trong phần tìm hiểu bài, ... của
giáo viên.
Bốn tiết Tập đọc tôi dự là:
Tiết 1: Tuần 8: Đôi giày ba ta màu xanh.
Tiết 2: Tuần 12: “Vua tàu thuỷ” Bạch Thái Bưởi.
Tiêt 3: Tuần 13: Người tìm đường lên các vì sao.
Tiết 4: Tuần 16: Kéo co.
Tôi thấy số lượng các em tham gia trả lời câu hỏi tìm hiểu bài chưa nhiều,
các em chưa tích cực tìm hiểu bài, các em gặp khó khăn khi rút ra ý chính của
đoạn, bài. Tiết học đều đều, chưa tạo hứng thú cho học sinh.
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
- Hầu như giáo viên chỉ nêu câu hỏi, học sinh trả lời, giáo viên đánh giá câu
trả lời của học sinh chứ không quan tâm đến việc quá trình đọc diễn ra như thế nào,
học sinh làm gì và cần làm gì để có được câu trả lời. Giáo viên sử dung phương pháp
dạy học chưa nhuần nhuyễn, linh hoạt trong lúc truyền tải kiến thức. Vì vậy hiệu quả
giờ dạy tập đọc chưa cao.
- Trình độ học sinh không đồng đều, vốn từ ngữ và khả năng diễn đạt còn
chưa đạt chuẩn, kĩ năng đọc của các em còn nhiều hạn chế đăc biệt là đọc thầm,
đọc bằng mắt. Đồng thời, các em còn gặp khó khăn trong việc hiểu nghĩa của từ
dẫn đến các em khó hiểu nội dung bài.
- Trong dạy học giáo viên chưa chú trọng đến việc phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh. Chỉ gọi một số em xung phong phát biểu, các em khác không
được gọi dẫn đến ngại tư duy. Đặc biệt gặp các câu hỏi khó như câu hỏi cần nêu ý
kiến cá nhân: Theo em.... hay câu hỏi suy luận: Tại sao....? rất ít các em có câu
trả lời. Một số câu hỏi mang nhiều ý cũng làm cho học sinh gặp khó khăn.
- Giáo viên truyền đạt tri thức có sẵn trong sách giáo khoa còn gò bó, chưa
có sự sáng tạo trong giảng dạy, sách giáo viên hướng dẫn như thế nào thì dạy

như thế đó. Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu. Phương tiện dạy học, tài
liệu tham khảo chưa được phát huy hết tác dụng nên các em tiếp thu bài thụ
động, thiếu linh hoạt.
- Trường ở địa bàn nông thôn, phần lớn học sinh ở với ông bà do bố mẹ đi
làm ăn xa hoặc đi làm ở công ty. Do vậy, sự quan tâm đến việc học tập của học
sinh đang còn nhiều hạn chế.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Qua tiến hành điều tra thực trạng việc dạy học và việc học của học sinh
trong tiết Tập đọc để tìm hiểu quá trình dạy phần tìm hiểu bài của giáo viên và
sự trả lời câu hỏi trong tiết Tập đọc của học sinh, tôi thấy được những mặt mạnh
cũng như những hạn chế của cả giáo viên và học sinh. Từ thực trạng trên, soi rọi
vào cơ sở lý luận dạy bài tập đọc, đặc biệt ở phần tìm hiểu bài, để nâng chất
lượng dạy học tập đọc, cụ thể là phần đọc hiểu đạt hiệu quả cao, tôi đề xuất một

8


số giải pháp, đây là những giải pháp mà bản thân đã đúc rút ra sau nhiều năm
công tác, tìm tòi, nghiên cứu, cụ thể như sau:
2.3.1. Thứ nhất, trong quá trình dạy học người giáo viên không những
chỉ cung cấp cho học sinh những nội dung đơn thuần mà phải tìm tòi những
phương pháp để giúp học sinh có hứng thú trong học tập. Nhất là phân môn
Tập đọc nếu giáo viên không biết tổ chức lớp học theo hướng tích cực thì tiết
học sẽ diễn ra đều đều dễ gây nhàm chán cho học sinh. Do đó giáo viên cần
tạo được môi trường thoải mái, thân thiện để học sinh thực sự chủ động trong
học tập, phát huy hết mọi khả năng của bản thân để lĩnh hội tri thức một cách
tốt nhất. Người giáo viên phải thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức
dạy học, vận dụng tốt các phương pháp dạy học, như phương pháp gợi mở vấn đáp; phương pháp dạy học giải quyết vấn đề; phương pháp dạy học hợp
tác theo nhóm nhỏ;... Cụ thể:
* Phương pháp gợi mở - vấn đáp: Là quá trình tương tác giữa giáo

viên và học sinh được thực hiện qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương
ứng về một chủ đề nhất định. Giáo viên không trực tiếp đưa ra những kiến
thức hoàn chỉnh mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để tìm ra kiến
thức mới; Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các
loại phương pháp vấn đáp:
+ Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến
thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện
không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng
khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.
+ Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài
nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ
để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ
trợ của các phương tiện nghe – nhìn.
+ Vấn đáp tìm tòi: giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp
lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật
của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ
chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò
với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên
giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát
hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm
vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy.
- Để thực hiện tốt phương pháp này, tôi đã mạnh dạn đưa ra quy trình
thực hiện dạy như sau:
+ Trước giờ học: xác định nội dung bài dạy, đối tượng học sinh để từ đó
xây dựng hệ thống câu hỏi cho bài học. Đồng thời cũng dự kiến những tình
huống và câu hỏi phụ để gợi ý cho HS.
+ Trong giờ học: Sử dụng hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị và thu nhận thông
tin phản hồi từ học sinh.
+ Sau giờ học: Rút kinh nghiệm về hệ thống câu hỏi đã sử dụng.
9



- Một số lưu ý
+ Câu hỏi phải chính xác, rõ ràng, sát yêu cầu đề bài.
+ Câu hỏi phải phù hợp với từng đối tượng.
+ Cùng một nội dung, giáo viên có thể sử dụng nhiều dạng câu hỏi.
Ví dụ: Trong bài “Đôi giày ba ta màu xanh”, tôi đã tiến hành thực hiện.
Trước giờ học, tôi đã tiến hành soạn bài này trước buổi dạy 3 ngày. Đặc
biệt, cuối buổi học Tập đọc của Tiết trước, tôi đã phải nghiên cứu nhanh về nội
dung của bài để tung ra một số câu hỏi định hướng cho học sinh tìm hiểu trước
bài này, cụ thể:
- Chuẩn bị những câu hỏi ở cuối bài học hôm trước cho học sinh chuẩn bị
bài học tiếp theo:
+ Trong bài có những nhân vật nào?
+ Em hãy tự trả những câu hỏi trong sách giáo khoa.
+ Hãy suy nghĩ xem nội dung của bài là gì?
- Chuẩn bị hệ thống câu hỏi cho bài dạy và dự kiến những hỏi phụ để gợi
ý cho học sinh:
+ Nhân vật tôi là ai?
+ Ngày bé, chị phụ trách Đội từng mơ ước điều gì?
+ Tìm những câu văn tả vẻ đẹp của đôi giày ba ta.
+ Mơ ước của chị phụ trách Đội ngày ấy có đạt được không?
+ Tác giả của bài văn đã làm gì để động viên cậu bé Lái trong ngày
đầu tới lớp? Tại sao tác giả lại chọn cách làm đó?
+ Tìm những chi tiết nói lên sự cảm động và niềm vui của Lái khi nhận
đôi giày.
+ Theo em, nội dung của bài văn là gì?
Trong câu hỏi (Tác giả của bài văn đã làm gì để động viên cậu bé Lái
trong ngày đầu tới lớp? Tại sao tác giả lại chọn cách làm đó?), tôi đã chuẩn bị
một số câu hỏi phụ và tách nhỏ câu hỏi này thành các ý nhỏ để cho học sinh dễ

nắm bắt được yêu cầu của câu hỏi:
+ Chị phụ trách Đội được giao việc gì?
+ Chị phát hiện ra Lái thèm muốn cái gì?
+ Vì sao chị biết điều đó?
+ Chị đã làm gì để động viên cậu bé Lái trong ngày đầu tới lớp?
+ Tại sao tác giả lại chọn cách làm đó?
Như vậy, sau khi đã chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi cho bài, tôi tự tin
thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình. Cuối buổi học, tôi nhận thấy, nhiều em
đã tích cực trả lời câu hỏi khi câu hỏi khó được chia nhỏ. Chính vì vậy mà học
sinh hiểu bài hơn, tiết học đạt hiệu quả cao hơn.
* Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề:
- Dạy học giải quyết vấn đề dựa trên cơ sở lý thuyết nhận thức. Giải
quyết vấn đề có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy và nhận
thức của con người. Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề. Dạy
học giải quyết vấn đề là một quá trình dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy
10


sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. Học sinh được đặt trong một
tình huống có vấn đề, thông qua việc giải quyết vấn đề giúp học sinh lĩnh hội tri
thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức.
- Một số lưu ý:
+ Tri thức và kĩ năng HS thu được trong quá trình phương pháp dạy học
giải quyết vấn đề sẽ giúp hình thành những cấu trúc đặc biệt của tư duy. Nhờ
những tri thức đó, tất cả những tri thức khác sẽ được chủ thể chỉnh đốn lại, cấu
trúc lại.
+ Không nên yêu cầu HS tự khám phá tất cả các tri thức qui định trong
chương trình. Cho học sinh phương pháp dạy học giải quyết vấn đề đối với một
bộ phận nội dung học tập, có thể có sự giúp đỡ của GV với mức độ nhiều ít khác
nhau (giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn). HS được học không chỉ kết

quả mà điều quan trọng hơn là cả quá trình phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề.
Ví dụ:
- Khi dạy bài “Vua tàu thuỷ” Bạch Thái Bưởi, tôi nêu ra vấn đề: Nếu em
Nếu em là Bạch Thái Bưởi thì em sẽ làm gì để trở nên thành công? Vì sao?
Học sinh suy nghĩ, giải quyết giả thuyết để rút ra nội dung của bài.
- Khi dạy bài “Người tìm đường lên các vì sao”, tôi nêu vấn đề: Những
mơ ước của Xi-ôn-cốp-xki có thành công không? Vì sao?
- Khi dạy bài “Kéo co”, tôi nêu vấn đề: Qua trò chơi kéo co giúp em hiểu
thêm điều gì về truyền thống của dân tộc?
* Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ:
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích,
yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ
định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao
cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công
mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc
tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các
thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi
đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết
quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước
toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình
bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
- Quy trình thực hiện
Bước 1: Làm việc chung cả lớp:
+ Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức..
+ Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm.
+ Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
Bước 2: Làm việc theo nhóm
+ Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập.

+ Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm.
11


+ Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm.
Bước 3: Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp.
+ Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
+ Thảo luận chung.
- GV tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo hoặc vấn đề tiếp theo.
Ví dụ:
Khi dạy bài “Chú Đất Nung”, tôi chia nhóm cho HS (thành nhóm 4 em)
tìm hiểu :
+ Vì sao Đất Nung có thể nhảy xuống nước, cứu hai người bột?
+ Câu nói cộc tuếch của Đất Nung ở cuối truyện có ý nghĩa gì?
Sau khi chia nhóm, giao nhiệm vụ, tôi cho các em tiến hành thảo luận
trong nhóm với thời gia 2 phút; hết thời gian mời đại diện các nhóm xung phong
lên trả lời; học sinh khi được thực hiện theo nhóm, các em hưởng ứng rất nhiệt
tình, hoạt động tích cực và hiệu quả làm việc rất cao.
2.3.2. Thứ hai, khi dạy Tập đọc không chỉ chú ý rèn kĩ năng đọc thành
tiếng mà cũng cần phải quan tâm rèn kĩ năng đọc thầm cho học sinh. Học sinh
đọc thầm tốt sẽ giúp cho các em có khả năng hiểu văn bản tốt, trả lời được các
câu hỏi liên quan đến nội dung bài và từ đó sẽ giúp các em hiểu được giá trị
nghệ thuật của một văn bản. Chính vì vậy, người giáo viên cần phải giúp học
sinh đọc văn bản (đoạn văn) cần tìm hiểu nội dung nhằm mục đích đọc để phát
hiện từ khó, từ trọng tâm có trong đoạn văn để rút ra phân tích. Đồng thời, giáo
viên cần giúp HS hiểu nghĩa từ ngữ mới, GV phải chuẩn bị sẵn sàng giải đáp
cho các em hiểu nghĩa của bất cứ từ ngữ trong bài mà các em cần. Tuy nhiên,
không phải tất cả các từ mới đều có vai trò quan trọng như nhau. Trong các từ
của văn bản có một số từ quan trọng mà nếu không hiểu chúng thì học sinh
không hiểu đúng được văn bản, ta gọi những từ đó là từ “chìa khóa”. Do đó,

giáo viên cần giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ quan trọng góp phần nâng cao
kĩ năng đọc - hiểu (từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông
mà HS địa phương chưa quen, từ ngữ đóng vai trò quan trọng để hiểu nội dung
bài đọc).
Đối với những từ ngữ đã được chú thích trong sách giáo khoa: GV không
nhất thiết phải yêu cầu HS trình bày tất cả các từ ngữ này mà có thể sàng lọc,
chọn một số từ ngữ khó để giải thích cho rõ. Biện pháp thực hiện là tổ chức cho
HS đọc thầm nội dung chú thích trong sách giáo khoa rồi trình bày lại.
Đối với những từ ngữ khác trong bài khó hiểu, những từ “chìa khóa”
mang ý nghĩa cơ bản, GV có thể hướng dẫn HS giải thích bằng các biện pháp
như sau:
- Dùng các từ cùng nghĩa, trái nghĩa hoặc từ ngữ thông dụng ở địa phương
để giải nghĩa.
- Đặt câu với từ ngữ ấy (có nghĩa là dùng từ đó trong một văn cảnh cụ
thể).
- Miêu tả sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm hoặc tính chất được gọi
tên bằng từ ngữ đó.
12


Ví dụ:
* Bài “Sầu riêng”- TV4, tập 2. Với từ “đam mê”, tôi hướng dẫn các em
tìm từ thay thế như: thích thú , yêu thích, khát khao…
Sau đó cho các em so sánh và thấy được “đam mê” là sự ham thích quá
mức bao gồm cả sự yêu thích, khát khao và thèm muốn.
Vì vậy trong câu văn này dùng từ “đam mê “ là chính xác nhất, hay nhất.
Từ “đam mê” còn khẳng định sức hấp dẫn, giá trị quí hiếm của quả sầu riêngđặc sản của miền Nam nước ta. Đây chính là ý nghĩa khái quát của bài đọc.
2.3.3. Thứ ba, trong quá trình dạy học giáo viên cần phải huy động tối đa
sự tham gia của tất cả học sinh tham gia vào quá trình học tập, để làm được điều
đó tôi đã tiến hành như sau:

- Xây dựng hệ thống câu hỏi và yêu cầu thực hiện đối với học sinh. Bởi vì
khả năng khái quát hoá của các em chưa phát triển. Do vậy, những câu hỏi hoặc
những yêu cầu cụ thể, đơn giản sẽ phù hợp hơn với các em, nhất là đối với học
sinh các năng lực còn non.
- Tách nhỏ câu hỏi hoặc yêu cầu nêu trong sách giáo khoa. Đây là biện
pháp dẫn dắt học sinh thức từng bước, từ chi tiết đến toàn thể, từ dễ đến khó.
Cách làm này giúp giáo viên thực hiện dạy học phân hoá đối tượng học sinh
trong lớp và huy động được nhiều học sinh tham gia tìm hiểu bài. Chẳng hạn, ở
bài tập đọc Người ăn xin (Tiếng Việt 4, tập 1), có câu hỏi yêu cầu học sinh chỉ
ra: Hành động, lời nói của cậu bé chứng tỏ tình cảm của cậu đối với ông lão ăn
xin như thế nào ? Với câu hỏi này, giáo viên có thể tách thành hai câu hỏi như
sau:
+ Câu thứ nhất: Hành động của cậu bé chứng tỏ tình cảm của cậu đối với
ông lão ăn xin như thế nào? Câu hỏi này chỉ yêu cầu học sinh nhận ra những
hành động của cậu bé chứng tỏ cậu thông cảm với ông lão ăn xin: cậu bé rất
muốn cho nhưng tìm mãi trong các túi không còn thứ gì cả..., Nắm chặt lấy bàn
tay ông lão.
+ Sau khi học sinh đã tìm ra các hành động của cậu bé, giáo viên nêu câu
thứ hai: Lời nói của cậu bé chứng tỏ tình cảm của cậu đối với ông lão ăn xin như
thế nào ? Học sinh sẽ tập trung tìm những câu nào là lời nói của cậu bé: Xin ông
lão đừng giận.
Sau khi học sinh trả lời được cả hai câu hỏi trên, giáo viên có thể yêu cầu
học sinh có năng lực tốt trả lời cả hành động và lời nói của cậu bé.
- Bổ sung câu hỏi phụ: Ở một số bài, tôi đã bổ sung câu hỏi để có thể huy
động sự tham gia của các đối tượng học sinh trong lớp, giúp học sinh kết nối các
chi tiết trong bài, tập dượt khả năng tìm tòi, phán đoán, khái quát hoá của học
sinh. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bài đòi hỏi người dạy bổ sung câu hỏi để dinịh
hướng cách tìm tòi, suy nghĩ của học sinh, giúp các em nhận thức, chiếm lĩnh
kiến thức theo tầng bậc, từ dễ đến khó.
Ví dụ:

Khi dạy bài Văn hay chữ tốt (Tiếng Việt 4, tập 1), có câu hỏi : Cao Bá
Quát quyết chí luyện viết chữ như thế nào?
13


- Giáo viên có thể khuyết khích HS dựa vào đoạn văn, trả lời câu hỏi:
Quyết chí có nghĩa là như thế nào?
- Học sinh có thể nêu cách hiểu của riêng mình, sau đó giáo viên hướng
dẫn học sinh giải nghĩa: “quyết chí” có nghĩa là kiên trì, quyết tâm, dốc sứ dốc
lòng, bền bỉ theo đuổi một mục đích tốt đẹp.
Sau khi đã hiểu nghĩa của từ “quyết chí”, học sinh sẽ dễ dàng hơn trong
việc trả lời câu hỏi: Cao Bá Quát quyết chí luyện viết chữ như thế nào?
2.3.4. Thứ 4, giáo viên cần kết hợp nhiều hình thức tổ chức khác nhau
(làm việc cá nhân, theo cặp, theo nhóm,...), giáo viên phải tạo điều kiện cho học
sinh luyện tập một cách tích cực. Trên thực tế, tôi đã gặp rất nhiều những câu
hỏi khó mang tính trừu tượng, khái quát cao làm cho học sinh rất khó khăn trong
khi trả lời. Gặp những trường hợp đó tôi sẽ chuyển các câu hỏi đó thành các bài
trắc nghiệm, hình thức thi đua giữa các tổ, các nhóm.
Ví dụ:
Trong bài “Một người chính trực!” Có câu hỏi: Trong việc tìm người giúp
nước, sự chính trực của Tô Hiến Thành thể hiện như thế nào?
Nếu để học sinh trả lời câu hỏi này thì các em phải mất thời gian đọc thầm
lại toàn bộ bài và rất khó cho các em rút ra ý đúng, đầy đủ do đó tôi sẽ chuyển
câu hỏi này thành một bài tập trắc nghiệm như sau:
Em hãy đánh dấu x vào
trước ý đúng để thể hiện sự chính trực của Tô
Hiến Thành?
Tín cử những người thân cận, chuyên hầu hạ mình.
Tín cử những người có vai vế, quyền thế.
Tín cử người tài ba ra giúp nước.

Tín cử người nhà của mình.
Với bài tập trắc nghiệm này tôi sẽ viết vào hai bản nháp lớn cho hai nhóm
(mỗi nhóm 4 em) lên bảng thi đua đánh dấu vào ý đúng.
Sau khi học sinh đã đánh dấu được kết quả đúng thì các em dễ dàng hiểu
được về phẩm chất chính trực của Tô Hiến Thành.
2.3.5. Thứ 5, trong năm học, trường tôi thường tổ chức họp phụ huynh
định kì, đầu năm học, cuối học kì I và cuối học kì II nhằm tuyên truyền tới phụ
huynh học sinh về chủ trương, kế hoạch của nhà trường, của lớp. Để thực hiện
tốt việc phối kết hợp giữa gia đình và trường, giữa giáo viên với phụ huynh học
sinh, ngoài những lần gặp gỡ, trao đổi trong mỗi lần họp phụ huynh, tôi thường
xuyên liên lạc với phụ huynh qua sổ điện tử thông báo quá trình học tập của các
em để phụ huynh được biết và cũng thông qua việc liên lạc với phụ huynh học
sinh, tôi đề nghị phụ huynh cùng đánh giá việc học tập của học sinh bằng cách
theo dõi việc chuẩn bị bài và việc ôn bài. Chính vì vậy, phụ huynh lưu ý nhắc
nhở con em của mình nhằm nâng cao kết quả học tập. Chẳng hạn, trước khi học
bài tập đọc nào tôi thường nhắc các em phải chuẩn bị bài trước ở nhà bằng cách
đọc trước bài đọc để thẩm thấu văn bản. Do đó, ý thức học tập của học sinh
trong lớp tôi ngày càng tốt, phần trả lời câu hỏi trong bài mới, đặc biệt phần đọc
14


hiểu của học sinh ngày càng tốt, học sinh tự tin hơn, hăng say phát biểu xây
dựng bài, lớp học sôi nổi và hiệu quả hơn rất nhiều. Như vậy, nếu được sự phối
hợp của phụ huynh thì kết quả sẽ tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Với những biện pháp trên đây tôi đã tiến hành thực nghiệm tại lớp 4A, dạy
lớp đối chứng 4B Trường Tiểu học Định Long, huyện Yên Định.
Kết quả thực nghiệm cho thấy:


Lớp

Thực nghiệm lớp 4A
32 học sinh
Đối chứng lớp 4B
30 học sinh

HS trả lời
nhanh và
đúng câu
hỏi, hiểu và
nêu nội
dung
SL Tỉ lệ
(%)

HS trả lời
nhanh và
đúng câu
hỏi, hiểu
nội dung

HS trả lời
đúng câu
hỏi, hiểu
nội dung

HS trả lời
ấp úng câu
hỏi, hiểu

nội dung

SL

Tỉ lệ
(%)

SL

Tỉ lệ
(%)

SL

Tỉ lệ
(%)

15

46,8

12

37,5

5

15,6

0


0

11

36,7

10

33,3

7

23,3

2

6,7

Sau quá trình kiểm tra thực nghiệm tôi thấy rằng lớp tôi tổ chức thử
nghiệm có kết quả khả quan hơn so với lớp đối chứng. Nội dung kiến thức các
bài học đáp ứng được mục tiêu của chương trình, nhất là đáp ứng được sự đổi
mới trong phương pháp dạy học.
Với phương pháp trò chơi trắc nghiệm thì học sinh dễ rút ra được nội
dung kiến thức, tích cực, hứng thú trong khi làm việc với phiếu học tập.
- Khả năng tiếp thu bài và hiểu bài có nhiều chuyển biến.
- Không khí học tập của lớp hào hứng, sôi nổi.
- Huy động được nhiều đối tượng học sinh tham gia vào quá trình tìm hiểu
nội dung bài. Song để sử dụng được phương pháp này vào dạy học đòi hỏi người
giáo viên phải có tâm huyết, trước khi dạy phải nghiên cứu bài kỹ, xác định

được câu hỏi khó từ đó xây dựng kế hoạch tạo thành bài tập trắc nghiệm (Trong
đó phải tìm ra các ý đúng - sai). Nội dung bài học phải nắm vững để từ đó đưa ra
các thông tin phải ngắn gọn, rõ ràng, chính xác và được sắp xếp theo từng dãy
một cách ngẫu nhiên.
+ Trình độ của các em được nâng lên, vốn từ ngữ và khả năng diễn đạt
được củng cố.
+ Học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong lúc đọc, khi đọc các em đọc chuẩn
hơn, phát âm theo tiếng phổ thông. Việc tìm hiểu nội dung bài và giải nghĩa từ
được thực hiện và đạt kết quả rất tốt. Có nhiều học sinh đọc xong bài là có thể
nắm bắt được nội dung của bài văn.
15


+ Như vây, sau khi thực hiện các biện pháp nêu trên, tôi thấy, học sinh đã
thực sự chủ động, tích cực trong học tập, đọc trôi chảy. Sự tập trung vào học tập
của một số em ngày càng nâng lên. Vì vậy việc rèn kỹ năng: Đọc đúng, đọc
nhanh, đọc hiểu, tìm hiểu bài được thực hiện tốt hơn. Đặc biệt, học sinh ngày
càng yêu thích đọc hiểu hơn, vì khi các em hiểu – các em trả lời tốt câu hỏi, hiểu
được nội dung, các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong tác phẩm.

16


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận:
Để tạo ra những con người mới có tri thức, văn hoá, năng động, sáng tạo,
tự chủ đáp ứng được yêu cầu của xã hội, nhiệm vụ của giáo dục đòi hỏi ngày
càng cao. Trong dạy học lối dạy truyền thống thầy giảng bài trò thụ động ghi
chép, rập khuôn máy móc đã lỗi thời. Dạy học theo hướng đổi mới là phát huy
tính tích cực của học sinh, tạo môi trường thân thiện, học sinh tích cực, đây là xu

thế mới đạt hiệu quả cao. Dạy tập đọc cho học sinh tiểu học nói chung và dạy
tập đọc cho học sinh lớp 4 nói riêng, chúng ta cần rèn bốn kỹ năng đọc cho học
sinh: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và luyện đọc lại. Trong quá trình dạy học
để học sinh nắm bắt được nội dụng văn bản giáo viên cần chú ý đến các vấn đề
sau:
- Giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình môn học, bài
học, nắm vững cơ sở của việc dạy học và đặc thù môn học để thiết kế nội dung
dạy học cho phù hợp.
- Chú ý đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học. Trẻ đang phát triển về
mọi mặt, tò mò, tư duy cụ thể chiếm ưu thế, hay bắt chước làm theo... để lựa
chọn phương thức dạy học cho phù hợp.
- Vận dụng các phương pháp dạy học đặc trưng phù hợp một cách nhuần
nhuyễn nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Chú trọng đến các hoạt động
thực hành, sử dụng hình thức dạy học để thu hút học sinh học tập.
- Bồi dưỡng lòng say mê học tập bằng cách tạo ra các động cơ tích cực,
khuyến khích, động viên học sinh học tập.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với giáo viên: Cần đổi mới phương pháp soạn giảng, khi lập kế
hoạch bài học phải sắp xếp được các loại câu hỏi để lựa chọn hình thức dạy phù
hợp. Mục tiêu kế hoạch dạy từng bài phải cụ thể, tránh dạy chung chung, lập
chương trình và xác định yêu cầu lựa chọn các bài tập sao cho mỗi đơn vị kiến
thức cần học phải xuất hiện bao nhiêu lần để có thể khắc sâu đơn vị kiến thức đó
vào trí nhớ của các em. Trong dạy học không nên áp đặt nặng nề, không được
gay gắt với các em thường hay mắc lỗi mà cần có thái độ nhẹ nhàng, giảng dạy
nhiệt tình, yêu thương, tôn trọng, thân thiện với học sinh để học sinh dễ tiếp thu
bài và đạt kết quả tốt nhất trong từng tiết học.
* Đối với ngành Giáo dục:
Hàng năm cần tổ chức nhiều tham luận về phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học để giáo viên học hỏi lẫn nhau, đáp ứng mục tiêu: Nâng cao về chất
lượng dạy - học.

Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu
nhà trường, các đồng nghiệp và bản thân tôi cũng đã nổ lực hết mình nhưng do
năng lực và thời gian có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót rất mong
sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học để đề tài của tôi được hoàn thiện
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
17


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Định Long, ngày 28 tháng 4 năm 2019
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện:

Vũ Huy Long

18



×