Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

NGHIÊN cứu đặc điểm lâm SÀNG và ĐÁNH GIÁ kết QUẢ điều TRỊ QUẶM MI dưới TUỔI GIÀ tại BỆNH VIỆN mắt hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ QUỲNH TRANG

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ QUẶM MI DƯỚI TUỔI GIÀ
TẠI BỆNH VIỆN MẮT HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC


HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ QUỲNH TRANG

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ QUẶM MI DƯỚI TUỔI GIÀ
TẠI BỆNH VIỆN MẮT HÀ NỘI
Chuyên ngành: Nhãn khoa
Mã số: 60720157



LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Phạm Trọng Văn
TS. Vũ Thị Thanh


HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Với tất cả lòng kính trọng và sự biết ơn chân thành, tôi xin được bày tỏ
lòng cảm ơn sâu sắc nhất tới:
Ban Giám hiệu, phòng Đào tạo sau đại học, Bộ môn Mắt Trường Đại học
Y Hà Nội. Ban Giám đốc, cùng các khoa, phòng bệnh viện Mắt Trung Ương
đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn:


PGS.TS. Phạm Trọng Văn, người thầy đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và động



viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới TS. Vũ Thị Thanh và toàn thể đồng nghiệp tại
Bệnh viện Mắt Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình




học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, người thân và bạn bè đã chia
sẻ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận
văn này.
Hà Nội, ngày 22 tháng 09 năm 2018
Tác gia

Đỗ Quỳnh Trang

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:


1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Phạm Trọng Văn và TS. Vũ Thị Thanh.
2. Công trình nghiên cứu này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào
khác đã được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi thực
hiện nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 22 tháng 09 năm 2018
Tác gia

Đỗ Quỳnh Trang

MỤC LỤC



DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC HÌNH


9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thế kỷ 21, thế giới sẽ có sự chuyển biến lớn về cấu trúc dân số.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, năm 2012 số người ở độ tuổi từ 60 trở lên đã gấp
đôi so với năm 1980 [1] . Cùng với xu hướng già hoá dân số ở nhiều quốc gia
là số người có nguy cơ bị mắc các bệnh mãn tính và lão hoá ở tuổi già tăng lên.
Các bệnh tại mắt gây giảm thị lực thường gặp là đục thủy tinh thể, glôcôm, thoái
hóa hoàng điểm tuổi già, quặm và sẹo giác mạc.
Quặm mi dưới tuổi già là hiện tượng biến đổi cấu trúc mi mắt do quá
trình lão hoá làm bờ mi và lông mi xoay vào trong, gây tổn thương bề mặt
nhãn cầu. Người bệnh có cảm giác khó chịu, kích thích như có dị vật ở trong
mắt, đỏ mắt và chảy nước mắt liên tục, thậm chí gây tổn thương giác mạc làm
giảm thị lực [2].
Một nghiên cứu cộng đồng ở Braxil cho thấy tỷ lệ mắc quặm ở nhóm
người từ 60 tuổi trở lên là 2,1%, trong đó tỷ lệ nữ chiếm 2,4% cao hơn so với
nam là 1,9% [3]. Ở Việt Nam, một nghiên cứu điều tra dịch tễ học của Bệnh
viện Mắt Trung ương năm 1996 đã thống kê được tỷ lệ mắc quặm trong cộng
đồng chiếm 1,15% và bệnh quặm đứng hàng thứ tư trong tổng số các bệnh
mắt gây mù lòa [4].
Trong những năm 70-80, do tỷ lệ bệnh mắt hột nhiều và để lại hậu quả
quặm do sẹo co kéo ở kết mạc mi nên các nghiên cứu thường tập trung chủ

yếu vào quặm do biến chứng của bệnh này. Khác với quặm do bệnh mắt hột
thường ở mi trên, quặm tuổi già gặp chủ yếu ở mi dưới và ở Việt Nam chưa
có số liệu thống kê nào về tỷ lệ mắc quặm mi dưới tuổi già trong cộng đồng.
Các yếu tố nguy cơ gây quặm mi dưới tuổi già được coi là do thoái hoá
dây chằng mi gây giãn giãn mi theo chiều ngang [5], [6], giãn mi theo chiều


10

dọc [7], thoái hóa teo bản sụn mi, teo mỡ hốc mắt và lõm mắt [6], hay do quá
phát bó cơ vòng mi trước cân vách hốc mắt [8].
Theo một nghiên cứu của Damasceno (2011), quặm tuổi già chiếm
0,9% ở nhóm tuổi 60-69, 2,1% ở nhóm tuổi 70-79 và 7,6% ở nhóm tuổi trên
80 [3]. Đây là vấn đề cần quan tâm trong chăm sóc mắt cộng đồng. Việc phát
hiện và điều trị sớm quặm tuổi già là thực sự cần thiết nhằm bảo vệ chức năng
thị giác và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Phẫu thuật được xem như là phương pháp điều trị duy nhất có hiệu quả
đối với quặm tuổi già. Những phẫu thuật nào dễ thực hiện, thời gian phẫu
thuật ngắn mà có hiệu quả điều trị cao thì sẽ là tốt nhất. Tuy nhiên, việc lựa
chọn phương pháp phẫu thuật quặm mi dưới tuổi già sẽ thay đổi tùy theo cơ
chế bệnh sinh của quặm và thăm khám lâm sàng có ý nghĩa quyết định.
Tại Bệnh viện Mắt Hà Nội, chưa có một thống kê chính xác nào về tình
hình bệnh quặm mi dưới tuổi già. Các phẫu thuật chưa hướng đến giải quyết
các cơ chế sinh bệnh là lý do làm bệnh dễ tái phát và hiệu quả điều trị chưa
cao. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị quặm mi dưới tuổi già tại Bệnh viện
Mắt Hà Nội” nhằm hai mục tiêu:
1.
2.


Mô tả đặc điểm lâm sàng quặm mi dưới tuổi già.
Đánh giá kết quả điều trị quặm mi dưới tuổi già tại Bệnh viện
Mắt Hà Nội.


11

Chương 1: TỔNG QUAN
1.1.

Giai phẫu mi dưới

1.1.1. Hình thể mi mắt
Mỗi mắt có hai mi: mi trên và mi dưới cách nhau bởi khe mi. Khi mở
mắt khe mi dài 30mm, rộng 15mm. Khi nhắm mắt hai mi khép lại che kín mặt
trước nhãn cầu.
Mặt trước và mặt sau của mi mắt
Mặt trước: ở mi trên bắt đầu từ bờ dưới cung lông mày trở xuống, ở mi dưới
1.1.1.1.


bắt đầu từ rãnh mi dưới lên. Mỗi mi có một nếp da song song với bờ tự do,
nếp này hằn rõ khi mở to mắt, đó là rãnh hốc – mi mắt. Ở một số người, đôi
khi có một nếp da đứng dọc có độ cong quay ra ngoài nối liền hai rãnh hốc –
mi mắt, nếp da này đi qua trước chỗ đính của dây chằng mi trong tạo thành


nếp quạt [9].
Mặt sau: kết mạc mi phủ kín mặt sau mi mắt. Khi nhắm mắt mặt sau mi mắt
áp sát vào phần trước nhãn cầu, mi che kín hoàn toàn mặt trước nhãn cầu. Về

đại thể có thể chia mi làm hai phần: phần trước gồm da và cơ, phần sau gồm

1.1.1.2.

sụn mi và kết mạc [9].
Các góc của mi
Góc mắt là vùng tiếp nối giữa mi trên và mi dưới, gồm có góc mắt
ngoài và góc mắt trong . Góc ngoài của khe mi cách thành ngoài hốc mắt 6 –
7mm về phía trong và cách khớp nối trán – gò má 10mm. Góc trong có cục lệ
hình bầu dục, màu hồng, có tuyến bã và tuyến lệ phụ, nếp bán nguyệt là một

1.1.1.3.

nếp kết mạc hình liềm, nằm ở ngoài cục lệ [9].
Bờ tự do của mi mắt
Độ dài của bờ tự do mi mắt là 30mm, chiều dày từ 2-3mm. Cách góc
trong mắt 6mm trên bờ tự do của 2 mi có 2 lỗ lệ: lỗ lệ trên hướng xuống dưới
và ra sau, lỗ lệ dưới quay lên trên và ra sau. Lông mi trên mọc vểnh ra trước
và lên trên, lông mi dưới mọc vểnh ra trước và cong xuống dưới. Giữa hàng


12

lông mi và bờ sau mi mắt có một hàng khoảng 30 lỗ tuyến, những lỗ tuyến
này thông với các tuyến Meibomius trong sụn mi [9].
1.1.2. Giải phẫu mi dưới
Cấu tạo bình thường của mi dưới bao gồm 7 lớp: da và tổ chức dưới da,
cơ vòng mi, cân vách hốc mắt, mỡ hốc mắt, cơ bám mi dưới, sụn mi dưới, kết
mạc mi [9].


Hình 1.1. Thiết đồ cắt dọc mi dưới
(Nguồn: />1.1.2.1. Da và tổ chức dưới da
Da mi mắt mỏng và mềm mại, không có tổ chức mỡ bên dưới. Da mi
dễ chun giãn, ít cấu trúc lông và tuyến bã, tuyến mồ hôi, dính lỏng lẻo vào lớp
cơ vòng mi bên dưới. Nếp da mi dưới không rõ bằng nếp da mi trên. Ở người
có tuổi, các sợi chất tạo keo, các sợi chun thường bị thoái hóa cho nên da mi
có thể dãn và rủ xuống thành nếp trùm lên bờ mi làm thu hẹp thị trường. Tổ
chức dưới da là một tổ chức liên kết lỏng lẻo, có các tiếp nối xơ của cơ nâng


13

mi và cơ vòng mi đi lên bám vào da cùng với những đầu mút của dây cảm thụ
(V) [9].
1.1.2.2. Cơ vòng mi

Hình 1.2. Giải phẫu cơ vòng mi
A: phần trước sụn, B: phần trước cân vách hốc mắt, C: phần hốc mắt
(Nguồn: />Cơ vòng mi là phần cơ chính ở mi mắt,bao gồm các sợi cơ vân chạy
đồng tâm bên dưới da mi bao phủ nhãn cầu và xương hốc mắt xung quanh.
Cơ vòng mi được phân chia thành ba phần: phần trước sụn, phần trước cân
vách hốc mắt và phần hốc mắt. Phần trước sụn và trước cân vách hốc mắt
giúp cho động tác chớp mắt, trong khi phần hốc mắt là phần cơ chính có vai
trò nhắm mắt có chủ ý. Ở gần bờ mi, các sợi cơ trước sụn tỏa ra sau tới tận
các tuyến Meibomius tạo thành cơ Riolan [9]. Ở người già lớp cơ này dày, bó
cơ vòng trước cân vách hốc mắt có thể di chuyển lên trên làm ép lông mi vào
trong [16], [17].
1.1.2.3. Cân vách hốc mắt
Cân vách hốc mắt là một màng xơ chun bắt nguồn từ màng xương hốc
mắt và tận hết bằng cách bám vào mi mắt. Ở mi trên, cân vách hốc mắt hợp

nhất với cơ nâng mi trên ở vùng cách bờ trên sụn 2-5 mm; trong khi đó, ở mi
dưới nó hợp nhất với cân cơ bám mi dưới ở mức ngang bờ dưới của sụn.


14

Càng già, cân vách hốc mắt càng trở nên mỏng và yếu, kết hợp với tình trạng
lỏng lẻo của cơ vòng mi sẽ dẫn đến sa mỡ hốc mắt ra trước [9].
1.1.2.4. Mỡ hốc mắt
Mỡ hốc mắt nằm phía sau cân vách hốc mắt và trước cân cơ nâng mi
trên (đối với mi trên) hoặc cân cơ bám mi dưới (đối với mi dưới). Ở mi trên, có
2 túi mỡ: phía mũi và ở trung tâm. Mi dưới có 3 túi mỡ: phía mũi, trung tâm và
phía thái dương. Những túi mỡ này được bao quanh bởi bao xơ mỏng [9]. Thoát
vị mỡ hốc mắt ở người lớn tuổi cũng là một yếu tố gây quặm mi [11].
1.1.2.5. Cơ bám mi dưới
Cơ bám mi dưới đi từ cơ trực dưới đến bám vào sụn mi dưới, giống cơ
nâng mi trên nó cũng có phần cơ và phần cân. Khi đi ra trước nó bám lấy cơ
chéo bé tạo thành dây chằng Lockwood. Cân cơ bám mi dưới mở rộng ra
trước từ điểm này, cho những sợi tới bám vào kết mạc cùng đồ dưới. Cơ bám
mi dưới co làm cho mi ngắn lại khi liếc xuống dưới để giữ cho bản sụn không
bị lật vào trong [9]. Cơ bám mi dưới thường bị thoái hóa theo tuổi làm tổ chức
mi dưới bị lỏng lẻo và giãn theo chiều dọc [15].
1.1.2.6. Sụn mi dưới
Sụn mi là một tổ chức xơ chắc đan thành những bản cong theo bề mặt
nhãn cầu. Sụn mi trên lớn hơn, chỗ cao nhất có thể lên đến 10-12 mm; chỗ
cao nhất của sụn mi dưới đo được là 4 mm. Đầu sụn dính vào bờ hốc mắt qua
trung gian dây chằng mi trong và dây chằng mi ngoài. Mi dưới có bản sụn
hẹp, cấu trúc mỏng, có thể bị teo ở người lớn tuổi. Trong sụn có các tuyến
Meibomius biểu hiện bằng những vệt thẳng đứng, màu vàng nhạt ở mặt sau
mi [9].

1.1.2.7. Kết mạc mi


15

Kết mạc được cấu tạo từ những tế bào biểu mô vảy không sừng hóa, nó
hình thành nên lớp sau của mi mắt và chứa những tế bào hình đài chế nhày và
các tuyến lệ phụ như Wolfring và Krause [9].
1.1.3. Hệ thống mạch máu mi mắt


Động mạch: hệ thống động mạch được tách ra từ hai nguồn chính là động



mạch cảnh trong và động mạch cảnh ngoài.
Tĩnh mạch: bao gồm hai hệ thống nông và sâu. Hệ thống nông gồm nhánh
mặt trước và nhánh thái dương nông, hệ thống sâu bao gồm các tĩnh mạch hốc
mắt (đổ vào xoang hang) và mặt sau (đổ vào đám rối chân bướm, xoang hang
và các tĩnh mạch mặt sâu).
1.2.

Dịch tễ học

Nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ quặm tuổi già sẽ đóng góp đáng kể vào
việc nâng cao sức khoẻ và chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi nhưng
chưa có nhiều các nghiên cứu về vấn đề này. Một trong những nghiên cứu hệ
thống về dịch tễ học quặm và trễ mi người già được thực hiện bởi Damasceno
(2011) cho thấy rằng tỷ lệ quặm mi dưới tuổi già là 2,1%, trong đó nam chiếm
1,9% và nữ chiếm 2,4%. Nghiên cứu này tiến hành trên 24565 người tuổi trên

60 ở 1 thành phố của bang Sao Paulo, Brazil và chỉ đề cập đến mi dưới. Đối
tượng trong nghiên cứu tập trung vào người da trắng, da màu, da đen và nhận
thấy tỷ lệ này cao nhất ở người da trắng [3].
Một số thông tin về quặm tuổi già ở nhóm người Châu Á được tìm thấy
trong nghiên cứu của Carter năm 2000. Tuy nhiên, nghiên cứu không xác định
được tỷ lệ mắc quặm trong cộng đồng dân cư Châu Á mà chỉ thống kê được
tỷ lệ mổ quặm mi dưới tuổi già ở nhóm người Châu Á chiếm 11,4% trong
tổng số 604 ca phẫu thuật mi tại 3 cơ sở thực hành nhãn khoa tại Hồng Kông,
Trung Quốc và khu vực vịnh San Francisco. Dù sao nghiên cứu này cũng cho


16

thấy có sự khác biệt về tỷ lệ phẫu thuật: nhóm người có nguồn gốc Châu Á
phẫu thuật quặm mi dưới nhiều hơn đáng kể (11,4%) so với nhóm người
không có nguồn gốc Châu Á (3,7%) [10].
Sự khác biệt về phân bố vị trí mỡ hốc mắt đã giải thích tại sao tỷ lệ mắc
quặm ở người Châu Á lại nhiều hơn người không có nguồn gốc Châu Á. Năm
1998, Carter đã dùng hình ảnh chụp cộng hưởng từ để đánh giá sự khác nhau
về cấu tạo giải phẫu mi dưới ở người Châu Á và người da trắng. Kết quả cho
thấy, tổ chức mỡ hốc mắt ở người Châu Á dịch chuyển ra ngoài bờ hốc mắt
trước [11]. Điều này có thể là một yếu tố nguy cơ góp phần hình thành quặm
mi dưới ở người già. Do vậy, vấn đề đặt ra là khi phẫu thuật quặm mi dưới
cho nhóm người Châu Á, khối mỡ hốc mắt này cần được xem xét và có thể
được lấy đi để giải quyết được một phần nguyên nhân gây quặm và góp phần
cải thiện thẩm mĩ cho bệnh nhân.
Tỷ lệ mắc quặm mi dưới tuổi già gặp ở nữ nhiều hơn ở nam [3].
Nguyên nhân là do sự khác nhau về kích thước diện sụn và chiều dài trục
nhãn cầu giữa nam và nữ [12], [13], [14]. Bình thường chiều cao bản sụn ở nữ
thấp hơn ở nam, cùng với hiện tượng thoái hóa teo mỏng và co ngắn bản sụn

ở người già làm cho quặm gặp nhiều ở nữ hơn nam trong cộng đồng người
cao tuổi.
Ở Việt Nam, trong những năm 70-80, do tỷ lệ bệnh mắt hột nhiều và
hậu quả là quặm do sẹo co ở kết mạc mi nên các nghiên cứu thường tập trung
chủ yếu vào quặm do biến chứng của bệnh mắt hột. Quặm do bệnh mắt hột
thường xảy ra ở mi trên [4]. Khác với quặm do bệnh mắt hột, quặm tuổi già
gặp chủ yếu ở mi dưới và ở Việt Nam chưa có số liệu thống kê nào về tỷ lệ
mắc quặm tuổi già trong cộng đồng.
1.3.

Sinh bệnh học


17

Quặm tuổi già hay gặp ở mi dưới, thường ở cả hai mắt và tỷ lệ mắc
tăng dần theo tuổi [3]. Các nghiên cứu đã tìm ra được một số nguyên nhân
sinh quặm mi dưới ở người già, nó có thể xuất hiện đơn lẻ hoặc phối hợp


nhiều nguyên nhân. Các nguyên nhân gây ra quặm bao gồm:
Giãn dây chằng mi góc trong và góc ngoài làm mi giãn theo chiều ngang [5],
[6]. Bình thường dây chằng mi góc trong và góc ngoài đính vào xương hốc
mắt để ép mi lên nhãn cầu. Khi về già dây chằng mi góc trong và góc ngoài bị
thoái hoá collagen, tổ chức mô trở nên kém đàn hồi và bị xơ hóa làm mi



không áp chặt lên nhãn cầu [6].
Cân cơ bám mi dưới yếu hay bị tuột chỗ bám vào bờ dưới sụn làm tổ chức mi




mắt bị lỏng lẻo và giãn theo chiều dọc [15].
Cơ vòng cung mi trước trước cân vách hốc mắt phì đại quá mức di chuyển lên



mặt trước bản sụn đẩy bờ mi cuộn vào trong [16], [17].
Thoái hóa teo bản sụn mi do tuổi [6]. Sụn mi được cấu tạo bởi các sợi
collagen và rất ít thớ sợi chun nằm đan xen giữa các tuyến Meibomius. Cấu
trúc sụn ở người trẻ chủ yếu là sợi collagen. Khi tuổi cao các sợi này chuyển
dần thành các sợi chun, sụn mỏng dần kèm theo sự lỏng lẻo của cân vách hốc



mắt làm mi dễ bị lộn vào trong.
Thoái hoá teo mỡ hốc mắt ở người già kết hợp với giãn mi theo chiều ngang



tạo điều kiện cho bờ mi dễ di chuyển vào trong [13].
Ngoài ra, các yếu tố như thoát vị mỡ mi dưới hay nhãn cầu bé cũng làm quặm
mi dưới dễ xảy ra [11], [14].
Phương pháp phẫu thuật sẽ thay đổi theo tùy trường hợp quặm mi dưới
tuổi già do một hay nhiều cơ chế bệnh sinh.
1.4.

Lâm sàng bệnh quặm tuổi già


Bệnh nhân có cảm giác khó chịu, đỏ mắt, chảy nước mắt do lông mi, bờ
mi và da mi cọ vào kết mạc và giác mạc. Thị lực của mắt bị quặm thường
không có ảnh hưởng nếu như quặm chưa gây biến chứng ở giác mạc. Khi bị


18

quặm kéo dài, bệnh nhân có thể bị viêm kết mạc, viêm giác mạc, loét giác
mạc dẫn đến tân mạch, sẹo giác mạc và gây giảm thị lực.

Hình 1.3. Quặm mi dưới tuổi già gây tổn thương viêm loét giác mạc
(Nguồn: />Các phương pháp khám xác định quặm mi dưới tuổi già:


Test kéo trễ mi (Snap-back test)
Test kéo trễ mi nhằm xác định giãn dây chằng mi trong và mi ngoài
[19]. Bệnh nhân mắt nhìn thẳng, người khám dùng ngón tay trỏ kéo mi dưới
ra xa và xuống thấp và giữ vài giây sau đó thả tay để mi về vị trí cũ. Tính
khoảng thời gian mi trở về vị trí ban đầu với điều kiện bệnh nhân không nháy
mắt. Độ nhão mi được chia thành 5 độ (0: bình thường, IV: nặng) [18]:








Độ 0: Mi trở về vị trí bình thường ngay sau khi thả.
Độ I: Mi trở về vị trí bình thường sau 2-3 giây.

Độ II: Mi trở về vị trí bình thường sau 4-5 giây.
Độ III: >5 giây nhưng mi về vị trí bình thường khi chớp mắt.
Độ IV: Mi không trở về vị trí bình thường ngay cả khi chớp mắt.
Test kéo mi (Distraction test)
Test nhằm xác định giãn mi theo chiều ngang. Dùng ngón tay trỏ và cái
kéo mi dưới ở điểm giữa, kéo mi dưới ra phía trước ra xa nhãn cầu và đo


19

khoảng cách từ bờ mi dưới đến nhãn cầu. Bình thường mi mắt có thể kéo cách
xa nhãn cầu 2-3mm. Nếu mi có thể kéo cách xa nhãn cầu 8 mm thì có giãn mi
theo chiều ngang [15].

Hình 1.4. Độ giãn lỏng của mi dưới được đánh giá bằng test kéo mi
(Nguồn: />−

Test giãn dây chằng mi trong (Medial canthal laxity test)
Test này nhằm xác định giãn dây chằng mi trong. Kéo mi dưới từ góc
trong sang ngang ra góc ngoài. Đo thay đổi khoảng cách của điểm lệ. Khoảng
cách càng lớn thì mi giãn càng nhiều. Bình thường thay đổi vị trí điểm lệ
trong giới hạn 0-1mm. Có 5 mức độ (0: bình thường, IV: nặng) như sau [18]:







Độ 0: thay đổi vị trí điểm lệ 0-1 mm.

Độ I: thay đổi vị trí điểm lệ 2 mm.
Độ II: thay đổi vị trí điểm lệ 3 mm.
Độ III: thay đổi vị trí điểm lệ > 3mm
Độ IV: điểm lệ không trở về vị trí cơ bản ban đầu sau khi chớp mắt.


20

Hình 1.5. Test giãn dây chằng mi trong
a. Vị trí điểm lệ ban đầu, b. Vị trí điểm lệ thay đổi khi làm test
(Nguồn: />−

img=JEgyptOphthalmolSoc_2014_107_4_263_150684_u4.jpg)
Test giãn dây chằng mi ngoài (Lateral canthal laxity test)
Test nhằm xác định giãn dây chằng mi ngoài. Kéo mi dưới từ góc ngoài
sang ngang vào góc trong. Tính khoảng cách thay đổi của góc mi phía ngoài.
Khoảng cách càng lớn thì mi giãn càng nhiều. Bình thường khoảng cách này là
0-2mm (độ 0), 2-4 mm (độ I), 4-6 mm (độ II), > 6 mm (độ III) và không trở về
vị trí ban đầu sau khi chớp mắt (độ IV) [18].


21

Hình 1.6. Test giãn dây chằng mi ngoài
(Nguồn: />img=JCutanAesthetSurg_2016_9_2_80_184050_f7.jpg)


Test phát hiện giảm trương lực cơ bám mi dưới (laxity of the lower lid
retractors).
Cơ bám mi dưới có nhiệm vụ giữ bản sụn ở vị trí cố định, và khi mắt

nhìn xuống bờ mi di chuyển xuống dưới từ 3-5mm [20]. Bằng cách quan sát
khi khi bệnh nhân nhìn xuống, sự di chuyển xuống dưới của mi dưới khi mắt
nhìn xuống bị giảm vì bờ mi dưới bị cuộn vào trong do bản sụn bị mất chỗ
bám dính ở phía dưới. Nếu cân bám mi dưới giãn nhiều hoặc tuột chỗ bám thì
có thể thấy cùng đồ kết mạc dưới sâu hơn mức bình thường hay bờ mi lên cao
hơn bình thường [19].


22

Hình 1.7. Test đánh giá chức năng của cơ nâng mi trên và cơ bám mi dưới
Vạch 0 mm của thước kẻ đặt ở bờ mi trên khi bệnh nhân nhìn xuống hết cỡ (A).
Số mm di chuyển được của bờ mi khi mắt nhìn lên hết cỡ đánh giá chức năng
của cơ nâng mi trên. Bệnh nhân này mi trên di chuyển 13cm và mi dưới di
chuyển 3mm (B).


Test phát hiện cơ vòng mi quá hoạt (orbicularis overaction)
Test nhằm xác định bó cơ vòng mi trước cân vách hốc mắt di chuyển
lên trước sụn mi. Để mi quặm của bệnh nhân về vị trí bình thường sau đó bảo
bệnh nhân nhắm chặt mắt lại và quan sát. Nếu thấy có sự di chuyển lên phía
trên của khối cơ vòng trước cân vách hốc mắt thì chứng tỏ có sự quá hoạt cơ
vòng cung mi [9].
1.5.

Các phương pháp phẫu thuật điều trị quặm mi dưới
tuổi già

Trong y văn đã nhiều phương pháp mổ quặm mi dưới được mô tả [7],
[21], [22]. Muốn đạt hiệu quả điều trị quặm lâu dài thì phương pháp phẫu

thuật được đề ra để can thiệp lên nguyên nhân sinh bệnh. Nguyên tắc chung là
giải quyết hiện tượng giảm trương lực mi theo chiều đứng và chiều ngang


23

[15], [23]. Phẫu thuật điều trị quặm mi dưới tuổi già phổ biến hiện nay đang
được áp dụng gồm những phương pháp sau:
Phương pháp Quickert (chỉ khâu vểnh mi) chỉ định trong trường hợp
khi có hiện tượng giãn chùng các cơ rút mi. Phương pháp này làm chặt mi
theo chiều dọc do khâu chèn cân cơ bám mi dưới ở giữa sụn mi và cơ vòng mi
[24]. Đây là phương pháp đơn giản nhưng chỉ áp dụng cho những bệnh nhân
không có chỉ định phẫu thuật. Dùng chỉ chromic 5,0 khâu 3 mũi đi từ kết mạc
cùng đồ, qua bờ dưới diện sụn, qua cân cơ bám mi dưới và hướng ra ngoài da
ngay dưới bờ mi. Mục đích là tạo hàng rào xơ sẹo ngăn không cho cơ vòng mi
và da mi di chuyển lên phía bờ mi gây ra quặm mi [15].

Hình 1.8. Đặt chỉ trong phương pháp Quickert
(Nguồn: />Phương pháp Weis (làm ngắn mi theo chiều ngang và xoay chuyển
bờ mi) chỉ định trong điều trị quặm tuổi già khi có giãn mi nhiều theo chiều
ngang [25]. Phương pháp này bao gồm 2 phần: Mi được tách theo chiều
ngang nên khi liền sẽ tạo sẹo ngăn không cho cơ vòng cung mi di chuyển lên
sụn mi và khâu bổ sung phương pháp chỉ khâu vểnh mi để mi vểnh ra ngoài.
Phương pháp này chữa giãn mi theo chiều ngang, đính lại cân cơ bám mi dưới


24

và ngăn quá hoạt cơ vòng cung mi [26]. Phương pháp này có thể kết hợp với
lấy mỡ hốc mắt.


Hình 1.9. Phương pháp Weis
Phương pháp Jones (gấp cơ bám mi dưới) được áp dụng với các
trường hợp có giãn mi theo chiều dọc. Cơ bám mi dưới được gấp hay khâu trở
lại chỗ bám nhằm làm ổn định sụn mi [7].

A.

B.
Hình 1.10. Phương pháp khâu đính cơ bám mi dưới
A. Cân cơ bám mi dưới được đính lại vào bờ dưới diện sụn
B. Đặt chỉ khâu bờ dưới diện sụn với cân cơ bám mi dưới


25

Phương pháp dai sụn góc ngoài được áp dụng với các trường hợp có
giãn mi theo chiều ngang. Mở góc ngoài mắt, tạo dải sụn và đính lại vào
màng xương hốc mắt [27].

Hình 1.11. Dải sụn được khâu vào màng xương hốc mắt
Phương pháp chuyển hướng cơ vòng cung mi: cơ vòng cung mi
được tách thành dải và cắt rời ở phía góc mắt ngoài, sau đó được đính lại vào
màng xương bờ dưới hốc mắt [27].

Hình 1.12. Cơ vòng cung mi được khâu vào mặt trước bờ xương hốc mắt


×