Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số kinh nghiệm tổ chức tốt hoạt động thực hành thí nghiệm trong môn khoa học cho học sinh lớp 5, trường tiểu học vĩnh hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.74 KB, 16 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài:
Chúng ta đều biết mục tiêu của nhà trường Tiểu học là giáo dục toàn diện
cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi. Tất cả các em học sinh bước vào ngôi trường Tiểu học,
ngoài việc học Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, các em còn được thầy cô trang bị kiến
thức, kỹ năng sống, vốn hiểu biết về tự nhiên- xã hội thông qua các môn học
khác. Trong đó, “Môn Khoa học giúp học sinh tìm hiểu các kiến thức khoa học
đơn giản, cơ bản về con người và sức khỏe, về tự nhiên, con người với thế giới
tự nhiên; chú trọng đến việc hình thành và phát triển các kĩ năng quan sát, dự
đoán, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, tìm kiếm thông tin, phân tích, so sánh để giải
đáp thắc mắc,.. đặc biệt chú trọng đến kĩ năng vận dụng kiến thức để ứng xử
thích hợp trong cuộc sống.” [1] . Như vậy, môn Khoa học bước đầu hình thành
cho các em cách tư duy chặt chẽ mang tính khoa học thông qua một số kĩ năng
như: quan sát, dự đoán, thực hành thí nghiệm, vận kiến thức khoa học vào cuộc
sống và tiếp tục học tập sau này. Do đó, Khoa học là môn học quan trọng trong
nhà trường Tiểu học. Hoạt động thực hành Thí nghiệm trong môn Khoa học lớp
5 chiếm thời lượng tương đối nhiều. Để làm được thí nghiệm thành công đòi hỏi
học sinh phải có kĩ năng hợp tác, kĩ năng lập kế hoạch và kĩ năng thực hành thí
nghiệm. Thí nghiệm thành công đồng nghĩa với việc học sinh có thể chiếm lĩnh
kiến thức mới một cách tự nhiên, các em hiểu được bản chất vấn đề và sẽ ghi
nhớ kiến thức một cách tương đối bền vững. Qua dự giờ thăm lớp tôi thấy nhiều
học sinh còn lúng túng khi thực hành làm thí nghiệm. Các em không biết bắt đầu
từ việc gì. Có em cứ chăm chăm làm thí nghiệm mà không cần biết làm thí
nghiệm để rút ra nội dung bài học gì... Tất cả điều đó có thể khẳng định rằng học
sinh chưa có kĩ năng thực hành thí nghiệm.
Là giáo viên dạy lớp 5, tôi luôn trăn trở để tìm ra biện pháp tổ chức hoạt
động thực hành thí nghiệm trong môn Khoa học có hiệu quả giúp học sinh có kĩ
năng thực hành thí nghiệm. Tạo điều kiện cho các em lĩnh hội kiến một cách dễ
dàng, chủ động. Chính vì vậy, tôi đã tiến hành nghiên cứu “Một số kinh nghiệm
tổ chức tốt hoạt động thực hành thí nghiệm trong môn Khoa học lớp 5 tại
trường Tiểu học Vĩnh Hưng”.


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở thực tiễn việc học tập môn Khoa học của học sinh chưa phát huy
tính chủ động tư duy, đề ra các biện pháp nhằm nâng cao tính tích cực, chủ động
sáng tạo tìm tòi kiến thức mới của học sinh.
- Giúp giáo viên:
+ Nhìn nhận lại sâu sắc hơn thực trạng dạy và học hoạt động thực hành thí
nghiệm môn Khoa học của giáo viên và học sinh lớp 5 trường Tiểu học Vĩnh
Hưng.
+ Áp dụng được một số biện pháp mà bản Sáng kiến kinh nghiệm đã trình bày
vào quá trình dạy học nhằm nâng cao tính tích cực, chủ động sáng tạo tìm tòi
kiến thức mới của học sinh.

1


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Cách thức tổ chức hoạt động thực hành thí nghiệm môn Khoa học lớp 5 tại
trường Tiểu học Vĩnh Hưng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Từ xa xưa, người phương Đông đã có câu: “Tôi nghe và tôi quên, tôi
nhìn và tôi nhớ, tôi làm và tôi hiểu” (Khổng Tử). Thật vậy, nếu chỉ được nghe,
2



trong thoáng chốc ta sẽ quên ngay vấn đề được nghe (Nếu ta ghi nhớ vấn đề đó
không chủ định). Song nếu ta quan sát sự vật hiện tượng ta sẽ nhớ lâu hơn. Và ta
sẽ thông suốt được vấn đề nếu ta vừa được quan sát vừa được thực hành. Do
vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên cần thiết kế bài dạy, thiết kế các hoạt
động học tập của học sinh theo quan điểm tích cực hóa hoạt động nhận thức của
các em để các em được trải nghiệm. Có như vậy, học sinh mới hiểu bản chất của
nội dung bài học và ghi nhớ kiến thức một cách bền vững. Đặc biệt là học sinh
tiểu học, có đặc điểm là nhanh nhớ nhưng chóng quên, tư duy từ cụ thể sang
trừu tượng nên tổ chức cho học sinh được tham gia thực hành có hiệu quả chính
là giáo viên đã đưa học sinh vào trung tâm của quá trình dạy học theo phương
pháp dạy học tích cực.
Thực hành thí nghiệm trong môn Khoa học lớp 5 là một hoạt động giúp
học sinh chuyển từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng và ngược lại. Vì vậy,
việc thực hành thí nghiệm giúp các em biết ứng dụng những điều đã học vào
thực tế cuộc sống. Bên cạnh đó, khi tự tay làm thí nghiệm, tận mắt nhìn thấy
những gì mình “làm ra”, các em sẽ tin tưởng hơn vào kiến thức mà mình đã học,
tin vào khả năng thực sự của mình, hãnh diện với mọi người rằng mình “đã làm
được” và mình “sẽ làm được”.... Trong quá trình làm thí nghiệm, đã tạo cơ hội
cho học sinh tham gia luyện tập kiến thức và phát triển kĩ năng giao tiếp. Vì vậy
việc hướng dẫn học sinh kĩ năng thực hành trong môn Khoa học là nhiệm vụ hết
sức quan trọng của người thầy.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thực trạng học môn Khoa học của học sinh lớp 5 trường Tiểu học
Vĩnh Hưng.
Qua thực tiễn giảng dạy tôi thấy, học sinh thường thích học Khoa học hơn
so với môn Lịch sử- Địa Lí.... Khi khai thác kiến thức bài mới, học sinh thường
trả lời câu hỏi một cách nhanh chóng và tương đối chính xác. Tuy nhiên, khi hỏi
về nội dung bài cũ thì nhiều em lại không nhớ. Nhất là những nội dung kiến thức
dạng bài thực hành thí nghiệm thì các em quên nhiều. Học sinh thường luống
cuống trong khi làm thí nghiệm, làm không đúng quy trình. Thậm chí không xác

định rõ mục đích làm thí nghiệm nên sau khi làm xong thí nghiệm không rút ra
được kết luận gì. Kĩ năng quan sát của các em còn yếu. Kĩ năng hợp tác nhóm
chưa đồng đều. Qua tìm hiểu, tôi rút ra một số nguyên nhân sau:
- Sở dĩ khi học bài mới, các em thường trả lời đúng các câu hỏi của giáo
viên là do các em tìm hiểu phần kênh chữ trong SGK (Cụ thể là mục Bạn cần
biết) chứ các em không hiểu sâu kiến thức, không hiểu kĩ bản chất của vấn đề.
Chính vì vậy mà các em rất chóng quên nội dung bài.
- Học sinh Tiểu học dù có khả năng phát huy tính tích cực của mình trong
việc tham gia thực hành thí nghiệm trong mỗi giờ Khoa học nhưng vì ít có cơ
hội thực tế nên khi thực hành làm thí nghiệm thì các em vẫn tỏ ra luống cuống.
- Nhận thức của các em không đồng đều nên dẫn đến tình trạng một số học
sinh yếu kiến thức kĩ năng cho dù được tham gia hoạt động lĩnh hội kiến thức
giống như các bạn nhưng vẫn không đủ tự tin để có thể tham gia các hoạt động
3


thực hành thí nghiệm trong các giờ học. Thậm chí, có em còn nản lòng nên làm
việc riêng, không tham gia hợp tác cùng các bạn.
2.2.2.Thực trạng dạy môn Khoa học của giáo viên lớp 5 trường Tiểu
học Vĩnh Hưng.
Qua dự giờ thăm lớp, tôi thấy trong tiết dạy học Khoa học, giáo viên đã dạy
đúng phương pháp đặc trưng của bộ môn, cung cấp đầy đủ kiến thức theo mục
tiêu bài học. Tuy nhiên, một số giáo viên khi dạy môn Khoa học, cụ thể là dạy
hoạt động Thực hành thí nghiệm, vẫn còn bộc lộ một số tồn tại sau:
- Một số giáo viên còn dạy học theo kiểu truyền thống: Thầy cung cấp kiến
thức, học sinh lắng nghe và ghi nhớ. Cũng có bài học do đồ dùng dạy học của
nhà trường còn thiếu nên việc thực hành thí nghiệm đôi lúc không thực hiện
được. Giáo viên phải mô tả thí nghiệm cho học sinh dự đoán kết quả và giải
thích, kết luận kiến thức. Tiết dạy thiếu tính thực tiễn, không thuyết phục được
học sinh dẫn đến các em ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Chính vì vậy,

học sinh sẽ hiểu bài không sâu, những khái niệm đơn giản về khoa học cũng trở
nên trừu tượng đối với các em.
- Có giáo viên chuẩn bị tốt đồ dùng, dụng cụ thí nghiệm nhưng khi tổ chức
dạy học thì tiến trình làm thí nghiệm lại do giáo viên trực tiếp làm còn học sinh
quan sát rút ra kết luận. Học sinh không được trực tiếp trải nghiệm thì chắc chắn
hiệu quả giờ dạy sẽ không cao bởi học sinh không được rèn các kĩ năng như: Kĩ
năng làm thí nghiệm, kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng giao tiếp....
- Một số giáo viên không chú trọng đến rèn kĩ năng thực hành thí nghiệm
mà chỉ giao nhiệm vụ cho các em làm dẫn đến tình trạng các em luống cuống
trong quá trình thực hành. Các em không xác định được mục đích của thực hành
thí nghiệm là gì. Có nhóm không phân việc rõ ràng nên có em thực hành, có em
chơi.
- Có một số giáo viên còn mắc phải sai lầm trong quá trình hướng dẫn làm
thí nghiệm. Đó là khi hướng dẫn làm thí nghiệm thì giáo viên không hướng dẫn
bằng cách mô phỏng thí nghiệm mà lại trực tiếp làm thí nghiệm. Như vậy, vô
tình học sinh không cần làm mà các em cũng biết ngay kết quả của thí nghiệm.
Với thực trạng dạy và học hoạt động “Thực hành thí nghiệm” môn Khoa
học lớp 5 của giáo viên và học sinh như trên dẫn đến chất lượng giờ dạy không
cao. Tôi thiết nghĩ sẽ khắc phục được thực trạng này nếu như giáo viên có
phương pháp truyền đạt hợp lý, hình thức tổ chức dạy học phong phú, biết khơi
dậy được tính tự giác học tập của các em. Nhưng để làm được điều đó thì không
ít giáo viên còn gặp bỡ ngỡ, lúng túng. Sau đây, tôi xin đưa ra “Một số kinh
nghiệm tổ chức tốt hoạt động thực hành thí nghiệm trong môn Khoa học lớp
5 tại trường Tiểu học Vĩnh Hưng”. Cụ thể như sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung chương trình Sách giáo khoa Khoa
học lớp 5:
Với phạm vi đề tài SKKN, tôi xin trình bày nội dung mà bản thân nghiên cứu
đó là nội dung kiến thức thực hành thí nghiệm trong môn Khoa học lớp 5.
4



Môn Khoa học lớp 5, nội dung kiến thức thực hành thí nghiệm không được
tách riêng thành một bài cụ thể mà nó chỉ là một hoạt động trong nhiều hoạt động
của một tiết học. Nội dung thực hành thí nghiệm tập trung ở hai chủ đề: Vật chất và
năng lượng, Thực vật và động vật.
Căn cứ vào mục tiêu của hoạt động thực hành thí nghiệm tôi chia hoạt động
thực hành thí nghiệm thành ba loại:
+ Thí nghiệm nêu vấn đề: là thí nghiệm được thực hành nhằm nêu lên vấn
đề cần nghiên cứu của mục tiêu bài học. Loại thí nghiệm này thường yêu cầu
học sinh làm trước ở nhà hoặc thực hành trước khi GV nêu mục đích của thí
nghiệm.
+ Thí nghiệm giải quyết vấn đề: là thí nghiệm được thực hiện để giải quyết
vấn đề được đặt ra sau phần nêu mục đích của thí nghiệm. Loại thí nghiệm này
được thực hiện ngay trong tiết học.
+ Thí nghiệm củng cố kiến thức: là thí nghiệm được thực hiện để kiểm
nghiệm lại chân lí khoa học. loại thí nghiệm này được thực hiện sau bài học (thường
yêu cầu HS làm thí nghiệm ở nhà).
Các bài học sinh được thực hành thí nghiệm để phát hiện ra kiến thức mới đó là:
STT

Tên bài
dạy

1

Đá vôi

2
3


Gốm xây
dựng:
gạch, ngói
Cao su

4

Tơ sợi

5

Hỗn hợp

6

Dung dịch

Hoạt động thực hành thí
nghiệm

Kiến thức mới cần
phát hiện sau khi
làm thí nghiệm

Loại Thí nghiệm

- Thực hành thí nghiệm
với mẫu vật: Đá vôi, đá
cuội.

- Thực hành thí nghiệm
với mẫu vật: gạch,
ngói.
- Thực hành thí nghiệm
với mẫu vật: Quả bóng
cao su, dây cao su.
- Thực hành thí nghiệm
với mẫu vật: Tơ sợi tự
nhiên, tơ sợi nhân tạo.

- Tính chất của - Thí nghiệm
đá vôi.
giải quyết vấn
đề.
- Tính chất của - Thí nghiệm
gạch, ngói.
giải quyết vấn
đề.
- Tính chất của - Thí nghiệm
cao su.
giải quyết vấn
đề.
- Đặc điểm của - Thí nghiệm
tơ sợi tự nhiên giải quyết vấn
và tơ sợi nhân đề.
tạo.
- Thực hành: “Tạo một - Đặc điểm của - Thí nghiệm
hỗn hợp gia vị”.
hỗn hợp và từng giải quyết vấn
chất tạo ra hỗn đề.

hợp.
- Thực hành: “Tách các - Biết cách tạo - Thí nghiệm
chất ra khỏi hỗn hợp”.
ra hỗn hợp và giải quyết vấn
tách các chất ra đề.
khỏi hỗn hợp.
- Thực hành: “Tạo ra - Đặc điểm của - Thí nghiệm
một dung dịch”.
dung dịch và giải quyết vấn
từng chất tạo ra đề.
dung dịch.
5


7

Sự biến
đổi hóa
học

8

Năng
lượng

9

Sử dụng
năng
lượng gió

và năng
lượng
nước chảy
Lắp mạch
điện đơn
giản

10

11

Cây con
mọc lên
từ hạt.

12

Cây con
có thể
mọc lên
từ một số
bộ phận
của cây
mẹ.

- Thực hành: “Tách các - Biết cách tạo
chất trong dung dịch”.
ra dung dịch và
tách các chất
trong dung dịch.

- Thực hành: Đốt một - Nhận biết về
tờ giấy; Chưng đường sự biến đổi hóa
trên lửa.
học.

- Thí nghiệm
giải quyết vấn
đề.

- Trò chơi: “Bức thư bí
mật”.

- Vai trò của
nhiệt trong biến
đổi hóa học.
- Thí nghiệm với đồ vật - Vai trò của
có biến đổi vị trí, hình năng lượng.
dạng, nhiệt độ... nhờ có
năng lượng.
- Thực hành “Làm quay - Tác dụng của
tua-bin”.
năng
lượng
nước chảy.

- Thí nghiệm
giải quyết vấn
đề.
- Thí nghiệm
giải quyết vấn

đề.

- Thực hành lắp mạch - HS lắp được
điện
mạch điện thắp
sáng đơn giản.
- Thí nghiệm phát hiện - Phát hiện vật
vật dẫn điện, vật cách dẫn điện, vật
điện.
cách điện.
- Thực hành tìm hiểu - Biết được cấu
cấu tạo của hạt.
tạo của hạt.
- Thực hành: Gieo hạt
- Quá trình phát
triển thành cây
của hạt.
- Thực hành trồng cây - Quá trình phát
bằng một số bộ phận triển thành cây
của cây mẹ.
từ các bộ phận
của cây mẹ.

- Thí nghiệm
giải quyết vấn
đề.
- Thí nghiệm
giải quyết vấn
đề.
- Thí nghiệm

nêu vấn đề.
- Thí nghiệm
củng cố kiến
thức.
- Thí nghiệm
củng cố kiến
thức.

- Thí nghiệm
giải quyết vấn
đề.

- Thí nghiệm
giải quyết vấn
đề.

Như vậy, nội dung kiến thức mới HS cần phát hiện sau khi làm thí
nghiệm đều là kiến thức trọng tâm của bài học. Trong đó, loại thí giải quyết vấn
đề là loại bài đặc trưng của hoạt động thực hành thí nghiệm trong môn Khoa
học lớp 5. Căn cứ vào từng loại thí nghiệm để giáo viên chủ động trong việc
chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm của GV và HS cũng như lựa chọn phương pháp,
6


hình thức tổ chức cho HS tham gia các hoạt động thực hành thí nghiệm có hiệu
quả để các em nắm vững kiến thức bài học.
2.3.2. Giáo viên chuẩn bị bài dạy chu đáo:
* Bước soạn bài: Bất kì một bài dạy nào, ở một môn học nào thì bước soạn bài là
một khâu rất quan trọng góp phần tiết dạy thành công. Đặc biệt, ở môn Khoa học lớp
5 do nội dung kiến thức thực hành thí nghiệm không được tách riêng thành một bài

cụ thể nên việc giáo viên phải nghiên cứu kĩ mục tiêu của bài; xác định đúng trọng
tâm bài để lựa chọn hình thức tổ chức, phân bố thời gian cho HS thực hành thí
nghiệm là một việc làm mà giáo viên không được xem nhẹ. Chú trọng đến việc phân
bố thời gian trong tiết dạy Khoa học có hoạt động thực hành thí nghiệm để tránh tiết
dạy có thời gian thực hành nhiều quá mà các nội dung khác lại không được khắc sâu
hoặc thời gian thực hành ít quá không đủ để hoàn thành thí nghiệm.
Có những thí nghiệm làm ngay trên lớp để rút ra nội dung kiến thức, nhưng
cũng có những thí nghiệm HS phải làm trước ở nhà rồi mang đến lớp để thảo luận
rút ra nội dung bài, cũng có thí nghiệm HS về nhà phải làm sau khi học kiến thức
mới để kiểm nghiệm lại kết luận của bài. Chẳng hạn:
Nhưng đối với bài “Cây con có thể mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ”,
HS lại làm thí nghiệm sau khi học xong bài này để giúp HS kiểm nghiệm lại nội
dung: “Trong tự nhiên cũng như trong trồng trọt, không phải cây nào cũng mọc lên
từ hạt mà một số cây có thể mọc lên từ thân hoặc từ rễ hoặc từ lá” [ 2]
Chính vì vậy, khâu chuẩn bị bài là rất quan trọng giúp giáo viên không bị động
khi lựa chọn các phương pháp tổ chức các hoạt động dạy học.
* Bước chuẩn bị đồ dùng: Từ mục tiêu bài học, giáo viên lựa chọn các vật liệu, đồ
dùng, dụng cụ thí nghiệm phù hợp với nội dung kiến thức bài học, phù hợp với trình
độ nhận thức của học sinh, điều kiện của nhà trường và địa phương. Vật liệu, đồ
dùng dạy học được lựa chọn phải đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm. Có những
vật dụng thí nghiệm giáo viên phải chuẩn bị nhưng cũng có những vật dụng thí
nghiệm học sinh phải chuẩn bị. Những vật dụng học sinh phải chuẩn bị là những vật
dụng sẵn có ở gia đình, địa phương và đảm bảo an toàn khi các em mang đến trường.
VD: Khi dạy bài “Đá vôi”, GV yêu cầu HS chuẩn bị đá vôi và đá cuội. Hai vật dụng
này sẵn có ở địa bàn Vĩnh Hưng. Hoặc khi dạy bài “Cây con mọc lên từ hạt” có thể
yêu cầu học sinh mang hạt lạc, hạt đậu...- vật dụng rất sẵn ở vùng nông thôn. Việc
giao nhiệm vụ cho HS chuẩn bị đồ dùng không chỉ rèn cho các em ý thức chuẩn bị
bài, trách nhiệm với công việc mà các em còn có hứng thú hơn trong học tập vì các
em được trực tiếp thực hành trên đồ dùng mình mang đi.
*Chuẩn bị thí nghiệm: Để đảm bảo việc tổ chức dạy thực hành thí nghiệm trên lớp

thành công, giáo viên phải làm thí nghiệm trước ở nhà. Mục đích của việc làm thí
nghiệm trước ở nhà giúp GV kiểm tra dụng cụ thí nghiệm có đảm bảo về hiệu quả
hay đã hư hỏng; tiến trình làm thí nghiệm như thế có đúng không, sản phẩm của thí
nghiệm có đạt được mục tiêu bài học không... Ngoài ra, GV phải dự kiến được các
phương án mà học sinh có thể dự đoán kết quả và kết luận đúng của thí nghiệm.
2.3.3. Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp với nội dung bài, với đối
tượng học sinh.
Căn cứ vào từng loại thí nghiệm để giáo viên lựa chọn hình thức tổ chức dạy
học cho phù hợp.
7


+ Thí nghiệm nêu vấn đề: GV có thể lựa chọn hình thức cá nhân kết hợp với
nhóm. GV giao cho cá nhân làm thí nghiệm trước ở nhà rồi mang kết quả thí
nghiệm đến lớp để thảo luận nhóm rút ra nội dung bài.
Chẳng hạn: Khi dạy bài “Cây con mọc lên từ hạt”, để tìm hiểu cấu tạo của hạt,
GV phải hướng dẫn HS làm thí nghiệm ở nhà: Đặt một số hạt lạc, hạt đậu vào bông
ẩm (hoặc giấy thấm ẩm, đất ẩm) khoảng ba bốn ngày trước khi học bài này. Sau dó
mang đến lớp để thảo luận nhóm rút ra cấu tạo của hạt.
+ Thí nghiệm củng cố kiến thức: Sau khi học sinh được tìm hiểu kiến thức bài
mới trên lớp, giáo viên yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức đã học để về nhà thực
hành.
Ví dụ: Sau khi học sinh được học bài “Cây con mọc lên từ hạt”, GV yêu cầu
học sinh về nhà thực hành gieo hạt. Sau vài ngày, GV yêu cầu học sinh mang sản
phẩm đến lớp giới thiệu với các bạn về quá trình phát triển của cây từ hạt và điều
kiện để hạt nảy mầm ( Hình 1).
Hình 1: HS thảo luận nhóm giới thiệu về sự phát triển của hạt từ khi được gieo
đến khi thành cây con

+ Thí nghiệm giải quyết vấn đề: Loại thí nghiệm này HS phải tiến hành ngay trên

lớp. Các em vừa phải thực hành thí nghiệm vừa phải rút ra nội dung kiến thức mới
trong một thời gian ngắn. Vì vậy, khi tổ chức hoạt động thực hành loại thí nghiệm
này, tôi thường lựa chọn hình thức tổ chức dạy học hợp tác theo nhóm. Hoạt động
nhóm giúp HS “có nhiều cơ hội hơn để diễn đạt và khám phá ý tưởng, mở rộng suy
nghĩ, hiểu biết và rèn luyện kĩ năng nói. Nó cũng cho phép HS có cơ hội để học hỏi
từ các bạn, phát huy vai trò trách nhiệm, điều đó phát triển kĩ năng xã hội và tính
cách của HS, đặc biệt là kĩ năng hợp tác, phối hợp với các bạn khác” [ 3] . Nhóm có
thể từ 4 đến 6 em và có đủ các đối tượng HS để các em hỗ trợ, học tập nhau khi
thực hành. Tránh chia nhóm cùng đối tượng vì làm như thế nhóm HS có năng lực
hạn chế, kĩ năng hợp tác nhóm yếu thì các em làm thí nghiệm sẽ khó có thể thành
công. Các thành viên trong nhóm phải làm việc tích cực, trao đổi, thảo luận sôi nổi,
biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau, biết chia sẻ đồ dùng thí nghiệm, biết tóm
tắt và rút ra ý kiến chung thống nhất của nhóm.
Tôi chia thành hai loại hình thức tổ chức nhóm. Đó là:
Nhóm cá nhân: Mỗi cá nhân trong nhóm thực hiện một nhiệm vụ.
Ví dụ: Khi tổ chức cho HS thực hành lắp mạch điện để kiểm tra cách lắp nào
thì bóng đèn sáng (như hình 5, trang 95, bài “Lắp mạch điện đơn giản”), tôi chia
nhóm 5 học sinh, các thành viên trong nhóm cử mỗi bạn lắp một kiểu mạch điện
như hình 5a,b,c,d,e. Các thành viên thực hành và báo cáo kết quả thí nghiệm cho
nhóm. Nhóm tổng hợp và rút ra cách lắp mạch điện (Hình 2)
Hình 2: HS thực hành nhóm cá nhân lắp mạch điện

Hoặc: Khi tổ chức cho HS thực hành thí nghiệm với đồ vật có biến đổi vị trí,
hình dạng, nhiệt độ ... nhờ có năng lượng trong bài “Năng lượng”, cũng với cách
hoạt động nhóm như trên: có em thực hành với chiếc cặp, em thực hành với cây
8


nến, có em lại thực hành với chiếc ô tô đồ chơi... Nhóm sẽ rút ra được vai trò của
năng lượng.

.......
Cách hoạt động nhóm như trên rút ngắn được thời gian thực hành mà tất cả
HS đều được hoạt động.
Nhóm tập thể: Tất cả các thành viên trong nhóm cùng thực hiện một nhiệm vụ.
Ví dụ: Khi tổ chức cho HS thực hành “Tạo ra một hỗn hợp gia vị” thì tôi sẽ
yêu cầu cả nhóm cùng thực hành:
+ Cùng quan sát và nếm từng chất (muối, mì chính, hạt tiêu) để rút ra nhận xét
về tính chất của từng chất rồi ghi vào báo cáo.
+ Cùng thực hành tạo hỗn hợp gia vị (sao cho vừa khẩu vị của nhóm).
+ Cùng quan sát và nếm hỗn hợp gia vị đã được tạo thành rồi nêu nhận xét về
đặc diểm của hỗn hợp và viết vào báo cáo (Hình 3).

a)
b)
Hình 3: HS thực hành nhóm tập thể Tạo hỗn hợp gia vị

Cách làm này giúp HS trong nhóm thống nhất kết luận thí nghiệm một cách
nhanh chóng (có thể kết luận đó có thể là đúng, có thể chưa phải là kết luận khoa
học).
2.3.4. Lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với dạng bài và phát huy
được tính tích cực, chủ động của học sinh.
Có nhiều phương pháp dạy học Khoa học nhưng không có phương pháp nào là
vạn năng. Chính vì vậy, GV cần phải căn cứ vào nội dung bài để lưạ chọn, phối
hợp các phương pháp dạy học. Khi tổ chức dạy học hoạt động thực hành thí
nghiệm trong môn Khoa học lớp 5, tôi chủ yếu sử dụng phối hợp các phương pháp:
Phương pháp thí nghiệm, phương pháp bàn tay nặn bột, phương pháp quan sát,
phương pháp thảo luận nhóm. Trong đề tài này, tôi xin trình bày thủ thuật phối hợp
bốn phương pháp trên trong việc tổ chức cho HS thực hành thí nghiệm. Cụ thể như
sau:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.

Tình huống xuất phát hay câu hỏi nêu vấn đề là do giáo viên chủ động
đưa ra. Câu hỏi nêu vấn đề phải có nội dung trọng tâm của hoạt động thực hành
thí nghiệm, phải phù hợp với trình độ học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức và kích
thích tính tò mò của học sinh. Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không
được dùng câu hỏi đóng.
VD: Trước khi tổ chức cho HS thực hành hoạt động “Tạo hỗn hợp gia vị” trong
bài “Hỗn hợp”, GV có thể đưa ra câu hỏi nêu vấn đề: “Khi tạo ra hỗn hợp gia vị
gồm có muối, mì chính, hạt tiêu thì tính chất của mỗi chất sẽ như thế nào?”
Hoặc: Trước khi tổ chức cho HS thực hành chơi trò chơi: “Bức thư bí
mật” trong bài “Sự biến đổi hóa học”, GV có thể tạo tình huống xuất phát sau:
Nhúng đầu tăm vào giấm rồi viết lên tờ giấy trắng và để khô. Theo em, ta có
9


đọc được không? Muốn đọc được bức thư này người nhận thư phải làm thế
nào?”
Bằng cách đưa ra tình huống xuất phát hoặc câu hỏi nêu vấn đề như trên
đã lôi cuốn được học sinh vào bài học một cách tự nhiên và kích thích tư duy
các em, tạo được tâm thế học tập ngay từ đầu hoạt động thực hành thí nghiệm.
Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh.
Sau tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề của giáo viên, HS sẽ bộc
lộ biểu tượng ban đầu bằng cách chia sẻ những hiểu biết cá nhân của mình với
các bạn trong nhóm. Sau đó, nhóm thảo luận, thống nhất quan điểm và ghi vào
phiếu học tập rồi báo cáo những hiểu biết của nhóm mình trước lớp.
Ở bước này, GV không được đánh giá quan niệm của nhóm nào là đúng,
quan niệm nào là sai mà giúp HS coi đây là tình huống, là mâu thuẫn kích thích
HS thấy được sự cần thiết phải làm thí nghiệm. Đồng thời giúp các em xác định
rõ được mục đích của việc làm thí nghiệm.
Chẳng hạn: Trả lời câu hỏi nêu vấn đề: “Khi tạo ra hỗn hợp gia vị gồm có
muối, mì chính, hạt tiêu thì tính chất của mỗi chất sẽ như thế nào?” các em sẽ có

những quan điểm khác nhau đó là:
+ Mỗi chất vẫn giữ nguyên tính chất của nó: Muối vẫn mặn như
thế, mì chính vẫn ngọt, hạt tiêu vẫn cay như ban đầu.
+ Muối không còn mặn như trước, mì chính không ngọt như ban
đầu, hạt tiêu vẫn cay.
+ Muối, mì chính, hạt tiêu đều giảm đi độ mặn, ngọt, cay.
.......
Mặc dù có nhiều quan điểm trái chiều, nhưng tôi không đánh giá quan
điểm nào đúng, quan điểm sai mà hướng các em có nhu cầu nảy sinh phương án
để giải quyết mâu thuẫn của các quan điểm trái chiều đó là tiến hành thí nghiệm:
“Vậy để biết được sau khi tạo hỗn hợp gia vị thì các chất có giữ nguyên tính
chất của nó hay không, chúng ta cùng nhau thực hành tạo hỗn hợp gia vị”. Khi
đó, các em sẽ biết được mục đích của thí nghiệm là để biết xem sau khi tạo
thành hỗn hợp thì mỗi chất có giữ nguyên tính chất của nó hay không.
Bước 3: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
Đây là điều kiện thuận lợi để học sinh trực tiếp làm thí nghiệm trên đối tượng
thật, tạo điều kiện cho các em phát huy tối đa các giác quan khác nhau tiếp xúc với
đối tượng. Từ đó hình thành biểu tượng đầy đủ về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên.
Để tổ chức cho HS thực hành thí nghiệm, tôi tiến hành theo trình tự sau:
+ GV hướng dẫn HS làm thí nghiệm: Tôi hướng dẫn HS làm thí nghiệm
bằng cách mô phỏng thí nghiệm bằng lời và động tác của tay chứ không trực
tiếp làm thí nghiệm. Yêu cầu HS quan sát và lắng nghe.
10


Sau đó yêu cầu 1 đến 2 HS nhắc lại cách làm thí nghiệm và mục đích làm
thí nghiệm cho cả lớp nghe.
Ở bước này, Gv cần lưu ý HS một số sai lầm có thể mắc phải trong khi
làm thí nghiệm dẫn tới kết quả thí nghiệm sai hoặc gây nguy hiểm cho HS.
Chẳng hạn: Khi hướng dẫn HS lắp mạch điện như hình 5c, trang 95, GV

cần lưu ý HS lắp nhanh để tránh làm hỏng pin ( đoản mạch).
Hoặc: Lưu ý HS khi thực hành lắp mạch điện thì sử dụng nguồn điện là
pin, không được sử dụng nguồn điện lưới, rất nguy hiểm, dễ bị điện giật hoặc
chập điện.
Hay: Khi hướng dẫn HS thực hành trò chơi “Bức thư bí mật” (Trong bài
“Sự biến đổi hóa học”), GV lưu ý HS không hơ giấy quá gần ngọn lửa để phòng
cháy.
+ HS thực hành làm thí nghiệm: Đây là bước quan trọng nhất trong quy
trình. Lúc này HS thể hiện sự tập trung cao độ để suy nghĩ, tìm tòi, khám phá.
Bởi lúc này các em đã ý thức được rằng phải tập trung suy nghĩ, thực hành để
đưa ra phương án kiểm tra giả thuyết sao cho phù hợp mà phải đảm bảo thời
gian cho phép.
Trong khi HS thực hành, tôi đến các nhóm để quan sát, hướng dẫn, giúp
đỡ để các em làm thí nghiệm đúng quy trình, đúng cách (Hình 4).
Hình 4: HS thực hành làm quay tua-bin.

HS làm thí nghiệm và ghi lại kết quả thí nghiệm của nhóm mình vào
phiếu học tập. Nội dung yêu cầu của phiếu học tập ở bước này cũng giống như
nội dung yêu cầu của phiếu học tập ở bước “Bộc lộ quan điểm ban đầu”. Như
vậy, khi tổ chức dạy HS thực hành thí nghiệm, tôi yêu cầu học sinh sử dụng 2
phiếu học tập có nội dung yêu cầu giống nhau nhưng sử dụng ở hai thời điểm
khác nhau: phiếu học tập số 1 (dùng ở bước HS chia sẻ quan điểm ban đầu), các
em chia sẻ những hiểu biết của mình khi chưa được làm thí nghiệm còn phiếu
học tập số 2 (sử dụng khi các em làm thí nghiệm), các em chia sẻ những hiểu
biết của mình sau khi các em đã được làm thí nghiệm. Chính vì vậy, sự chia sẻ
của học sinh trong phiếu học tập số 1 thường rất đa dạng, mỗi nhóm hiểu kiến
thức theo một ý. Nhưng sau khi được làm thí nghiệm, dù có những từ ngữ khác
nhau nhưng các em đều hiểu kiến thức theo hướng đồng nhất, rất hiếm khi có
nhóm vẫn còn chưa rút ra được kiến thức trọng tâm của bài. Việc sử dụng hai
phiếu học tập có nội dung yêu cầu giống nhau nhưng sử dụng ở hai thời điểm

khác nhau như trên giúp HS so sánh kết quả sau khi làm thí nghiệm với biểu
tượng ban đầu của mình về sự vật, hiện tượng.
Nếu xảy ra trường hợp học sinh vẫn kết luận sai về nội dung kiến thức, tôi
không nhận xét đúng, sai mà hướng dẫn cho nhóm đó thực hành thí nghiệm lại
để các em tiếp tục thảo luận và rút ra kiến thức trọng tâm của bài.
11


Bước 4: Kết luận kiến thức mới.
Sau khi thực hiện xong thí nghiệm, giáo viên tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả:
+ Yêu cầu đại diện các nhóm học sinh báo cáo kết quả.
+ Cùng cả lớp tiến hành so sánh kết quả giữa các nhóm. Thống nhất kết luận đúng.
Trường hợp các nhóm không thống nhất thì xác định nguyên nhân và xử lí nguyên
nhân đó để khẳng định tính đúng đắn của chân lý khoa học.
+ Cuối cùng, GV chốt lại kiến thức rồi cho HS đối chiếu lại với biểu tượng ban đầu,
tự các em phát hiện ra cái sai để các em một lần nữa hiểu sâu về kiến thức của bài.
2.3.5. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động trải nghiệm dã ngoại.
Để giúp HS nắm vững hơn, nhớ lâu hơn các kiến thức khoa học và giúp các
em kiểm nghiệm lại kiến thức đã học trong thực tế. Đồng thời, giúp học sinh
bước đầu biết ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, tôi tổ chức cho HS
tham gia hoạt động trải nghiệm dã ngoại vào buổi 2.
Để tổ chức hoạt động trải nghiệm dã ngoại áp dụng vào môn Khoa học có
hiệu quả, tôi đã tiến hành các bước sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu, nội dung của hoạt động trải nghiệm dã
ngoại.
Bước 2: Tìm hiểu thực trạng, thông tin địa điểm.
GV tìm hiểu và lựa chọn địa điểm tham gia dã ngoại phải đảm bảo các yếu tố:
+ Địa điểm đó phải an toàn (an toàn trên đường đi, an toàn khi học tập...)
+ Địa điểm đó có chứa đựng những thông tin phù hợp với nội dung và mục
tiêu của hoạt động trải nghiệm.

+ GV- HS có thể tiếp cận các thông tin liên quan đến nội dung bài học ở
địa điểm đó một cách dễ dàng.
Bước 3: Xác định các phương pháp dạy học trải nghiệm.
Có thể sử dụng một số các phương pháp sau: Phương pháp tham quan thực
địa; phương pháp điều tra, khảo sát; phương pháp thống kê....
Bước 4: Tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm.
GV có thể tổ chức cho HS trải nghiệm dưới nhiều hình thức:
- Tham quan mô hình : Tổ chức cho học sinh tham quan các mô hình sản
xuất chứa nội dung liên quan đến kiến thức bài học.
+Tham quan nhà máy gạch Vĩnh Hòa (Dạy bài: Gốm xây dựng: gạch,
ngói).
+ Tham quan mô hình sản xuất đồ dùng trong gia đình từ vật liệu mây tre
của Công ty Mây Tre Đan (Vĩnh Hưng) (Dạy bài: Tre, mây, song) (Hình 5)

a)
b)
Hình 5: HS Tham quan mô hình sản xuất đồ dùng trong gia đình từ vật liệu mây tre

12


của Công ty Mây Tre Đan (Vĩnh Hưng)

+ Tham quan nhà máy thủy điện Hòa Bình (Dạy bài: “Sử dụng năng lượng gió
và năng lượng nước chảy” hoặc bài “Sử dụng năng lượng điện”) (Hình 6).
Hình 6: GV, HS và một số Phụ huynh lớp 5A
tham quan nhà máy thủy điện Hòa Bình.

- Trò chơi “Đua tài cùng nhà nông”: Tổ chức cho HS tham gia trò
chuyện, trao đổi cùng các bác nông dân về trồng trọt: trồng rau, trồng cây, loại

cây mọc lên từ hạt, loại cây mọc lên từ các bộ phận của cây mẹ; kĩ thuật trồng
cây... và tham gia trồng cây cùng các bác nông dân ( Dạy bài: Cây con mọc lên
từ hạt; Cây con có thể mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ). (Hình 7)
a)
b)
Hình 7: HS tham quan vườn rau gia đình bác Lê Thị Hải- Thôn 4, Vĩnh Hưng

2.3.6. Xây dựng góc học tập sinh động.
Để trưng bày, lưu giữ các sản phẩm thí nghiệm, dụng cụ thí nghiệm, tài
liệu của môn Khoa học, tôi xây dựng góc học tập Khoa học trong lớp. Đồng thời
góc học tập còn là nơi để học sinh tham gia học tập ngoài giờ. Trong giờ giải
lao, nhiều em thường đến góc học tập để thực hành lại thí nghiệm đã học, có em
đến góc học tập để chiêm ngưỡng lại sản phẩm mà mình và các bạn đã làm. Xây
dựng góc học tập là một biện pháp hướng các em tham gia tự học một cách tự
nhiên, không gò ép. (Hình 8)
a)
Hình 8: Một số hình ảnh trong giờ giải lao của HS lớp 5A
tại góc học tập môn Khoa học.

b)

2.3.7. Thực hiện có hiệu quả cách đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Tôi thực hiện nghiêm túc cách đánh giá kết quả học tập của học sinh theo
thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016. Khi đánh giá
thường xuyên cũng như đánh giá định kì, tôi luôn đề cao việc “Đánh giá vì sự
tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong
học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát huy nhiều nhất khả năng;
đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan.” [ 6] .
Đối với học sinh có kĩ năng thực hành tốt, tôi yêu cầu cả lớp tuyên dương
bạn. Còn những em thực hành còn lúng túng, tôi động viên: “Em cần tự tin với

chính mình, tự tin sẽ giúp em thành công trong công việc”. Rồi hướng dẫn HS
làm từng bước hoặc yêu cầu học sinh có kĩ năng thực hành tốt hướng dẫn. Khi
học sinh bước đầu có tiến bộ, tôi liền khen em để tạo thêm niềm tin cho em.
Tuyệt đối giáo viên không được dùng những lời chê trách học sinh, bởi chỉ một
lời chê của giáo viên có thể làm cho việc thực hành thí nghiệm của các em bị
thất bại.
Khi giao nhiệm vụ học tập cho học sinh, giáo viên cũng cần phải căn cứ
vào năng lực của từng em. Đảm bảo tính vừa sức và nâng dần mức độ khó để
13


các em phát huy nhiều nhất khả năng của các em. Sau mỗi lần học sinh thực
hiện nhiệm vụ, giáo viên có thể cho học sinh tự đánh giá kết quả của mình, của
bạn.
Kết quả học tập hoạt động thực hành thí nghiệm môn Khoa học được thể
hiện cụ thể qua nhiều kĩ năng: kĩ năng thực hành thí nghiệm, kĩ năng quan sát, kĩ
năng hợp tác, kĩ năng phán đoán.... Đặc biệt là kĩ năng vận dụng kiến thức đã
học vào thực tiễn. Chính vì vậy mà đánh giá kết quả học tập của học sinh không
chỉ là đánh giá của giáo viên và học sinh mà rất cần đến việc kết hợp với phụ
huynh.
2.3.8. Làm tốt công tác tham mưu trong quá trình dạy học:
- Đối với phụ huynh: Bước vào đầu năm học, tôi tổ chức cuộc họp phụ huynh.
Trong cuộc họp, tôi nêu rõ tầm quan trọng của môn Khoa học cho phụ huynh biết được.
Từ đó tôi yêu cầu phụ huynh mua đủ tài liệu học tập và đôn đốc, nhắc nhở các em học bài
và phối kết hợp với giáo viên trong việc đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- Đối với Ban Giám hiệu: Tôi chủ động đề xuất lên Ban Giám hiệu: kế hoạch dạy
học, kế hoạch tổ chức dã ngoại, bổ sung dụng cụ, đồ dùng thí nghiệm... để ban Giám hiệu
tạo điều kiện giúp đỡ.
Chính vì vậy, mặc dù với một trường cơ sở vật chất còn thiếu thốn, cuộc sống của
người dân nơi đây còn gặp nhiều khó khăn nhưng tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp

đỡ từ Ban Giám hiệu nhà trường và các bậc phụ huynh. Đây cũng là điều kiện thuận lợi
giúp tôi hoàn thành tốt công việc của mình.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Áp dụng các biện pháp dạy học hoạt động thực hành thí nghiệm môn Khoa
học lớp 5 trên trong năm học 2018-2019, tôi thấy học sinh tiến bộ rõ rệt. Kĩ năng
làm thí nghiệm của các em rất tốt, cụ thể:
+ Các em có ý thức chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ thí nghiệm cho mỗi tiết học
đầy đủ.
+ Các em biết sắp xếp thứ tự các dụng cụ thí nghiệm một cách khoa học:
theo trình tự thực hành, theo chủng loại....
+ Thao tác trên đồ dùng một cách dứt khoát, thuần thục, không luống
cuống.
+ Kĩ năng quan sát của các em tinh tế hơn nhiều. Các em biết trọng tâm của
việc quan sát, mục đích quan sát.
+ Kết luận khoa học sau khi làm thí nghiệm được các em rút ra phần lớn là
chính xác; lí giải về kết luận của thí nghiệm có cở sở khoa học, lô gic.
+ Học sinh hào hứng được tham gia làm thí nghiệm. Những em trước đây
rụt rè, kĩ năng làm thực hành kém giờ đã mạnh dạn tham gia làm thí nghiệm. Kĩ
năng giao tiếp, hợp tác nhóm được các em thể hiện một cách tự tin, chủ động.
+ Đặc biệt, kiến thức khoa học được rút ra sau khi làm thí nghiệm các em
rất nhớ, các em trình bày lại một cách trôi chảy, rành rọt.
Tôi tiến hành khảo sát chất lượng của hai lớp 5A và 5B (đây là hai lớp đầu
năm có cùng trình độ nhưng lớp 5A được tôi áp dụng các biện pháp dạy học
14


Khoa học nêu trên còn lớp 5B không áp dụng các biện pháp dạy học đó). Kết
quả thu được đến giữa học kì 2 như sau:


Lớp
5A
5B

Tổng
số HS
39
40

Hoàn thành Tốt
SL
%
21
53,8
10
25,0

Hoàn thành
SL
%
18
64,1
25
62,5

Chưa hoàn thành
SL
%
0
0

5
12,5

Qua bảng tổng hợp cho thấy kết quả học sinh đạt mức Hoàn thành tốt của
lớp 5A cao hơn hẳn so với lớp 5B. Đặc biệt là lớp 5A không còn học sinh đánh
giá mức Chưa hoàn thành. Những học sinh đạt mức Hoàn thành phần lớn có
điểm 7 và điểm 8.
Từ kết quả kiểm tra này và qua thực tế dạy học trên lớp, tôi khẳng định
kết quả lớp 5A cao hơn là do bản thân đã áp dụng các biện pháp dạy học trên có
hiệu quả, giúp học sinh nắm kiến thức khoa học một cách chắc chắn, bền vững.
Tuy rằng, đây mới chỉ là kết quả bước đầu song tôi vẫn cảm thấy rất vui và say
mê hơn với nghề dạy học vì công việc của mình làm đã bước đầu mang lại kết
quả khả quan.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận:
Qua việc đi sâu nghiên cứu chuyên đề: “Một số kinh nghiệm tổ chức tốt
hoạt động thực hành thí nghiệm trong môn Khoa học lớp 5 tại trường Tiểu
học Vĩnh Hưng”, tôi đã tìm hiểu cơ sở lí luận, thực trạng dạy và học Khoa học
nói chung và dạy hoạt động thực hành thí nghiệm môn Khoa học lớp 5 của giáo
viên và học sinh lớp 5 trường Tiểu học Vĩnh Hưng nói riêng, từ đó đề ra những
biện pháp cần thiết. Từ những kết quả đã đạt được, tôi rút ra một số bài học kinh
nghiệm sau:
Để nâng cao chất lượng dạy học hoạt động thực hành thí nghiệm môn
Khoa học lớp 5, giáo viên cần phải áp dụng các giải pháp sau:
- Giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung chương trình Sách giáo khoa Khoa học lớp
5.
- Giáo viên chuẩn bị bài dạy chu đáo.
- Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp với nội dung bài, với đối tượng học
sinh.
- Lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với dạng bài và phát huy được tính

tích cực, chủ động của học sinh.
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động trải nghiệm dã ngoại.
- Xây dựng góc học tập sinh động.
- Thực hiện có hiệu quả cách đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- Làm tốt công tác tham mưu trong quá trình dạy học.
3.2. Kiến nghị:
15


* Đối với nhà trường:
- Bổ sung thêm đầu sách tham khảo của môn Khoa học để GV và HS có thêm
tài liệu nghiên cứu phục vụ tốt cho việc dạy và học môn Khoa học.
- Nâng cao hiệu quả các giờ sinh hoạt chuyên môn, khuyến khích giáo viên đầu
tư trao đổi kế hoạch bài học, cách dạy từng dạng bài.
- Xây dựng phòng thí nghiệm, vườn thí nghiệm Khoa học để học sinh có điều
kiện được trải nghiệm.
- Thành lập Câu lạc bộ: “Em yêu khoa học” để phát hiện, bồi dưỡng những em
có năng lực, niềm đam mê nghiên cứu, tìm hiểu khoa học.
* Đối với Phòng Giáo dục:
Tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng tổ chức hoạt động dã
ngoại cho GV. Bởi trên thực tế, GV tổ chức cho HS tham gia hoạt động dã
ngoại chỉ bằng kiến thức tự tìm hiểu và kinh nghiệm của bản thân chứ chưa
được tham gia lớp tập huấn nào, ngay cả khi học trong trường sư phạm cũng
không được tham gia lớp học này.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân được rút ra trong quá trình dạy học
nhằm nâng cao chất lượng dạy học dạng bài thực hành thí nghiệm môn Khoa học
lớp 5 tại trường Tiểu học Vĩnh Hưng. Vì thời gian có hạn nên sáng kiến kinh nghiệm
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong nhận được sự góp ý của Hội
đồng khoa học và quý bạn đọc để bản sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Vĩnh Hưng, ngày 20 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết
Lê Thị Thanh Tú

16



×