TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**************
VŨ THỊ KIỀU OANH
DẠY HỌC BÀI HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP
BẰNG NGÔN NGỮ (NGỮ VĂN 10) THEO
ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn
HÀ NỘI , 2019
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**************
VŨ THỊ KIỀU OANH
\
DẠY HỌC BÀI HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP
BẰNG NGÔN NGỮ (NGỮ VĂN 10) THEO
ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn
Người hướng dẫn khoa học
TS. PHẠM KIỀU ANH
HÀ NỘI , 2019
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài: Dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ”(Ngữ văn 10) theo định hướng phát triển năng lực, trong quá trình nghiên
cứu, tôi đã luôn nhận được sự giúp đỡ, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cùng
với sự chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo giảng viên của khoa Ngữ Văn –
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Và đặc biệt tôi luôn nhận được sự hướng dẫn
nhiệt tình của thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn và TS. Phạm Kiều
Anh là người đã trực tiếp hướng dẫn tôi nghiên cứu đề tài.
Với đề tài nghiên cứu trong khóa luận do năng lực nghiên cứu có hạn nên
chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi được những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong sự
chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo và các bạn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến các
thầy cô!
Hà Nội, ngày tháng 04 năm 2019
Tác giả khoá luận
Vũ Thị Kiều Oanh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả quá
trình nghiên cứu của bản thân tôi. Những nội dung này không trùng khớp với kết
quả nghiên cứu của người khác.
Tôi xin cam đoan và chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày tháng 04 năm 2019
Tác giả khoá luận
Vũ Thị Kiều Oanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu .............................................................................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................................4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .........................................................................................................5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................................................5
6. Bố cục của khoá luận .........................................................................................................................6
NỘI DUNG .............................................................................................................................................7
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN .....................................................................7
1.1. Dạy học theo định hƣớng phát triển năng lực ..............................................................................7
1.1.1. Khái niệm năng lực .......................................................................................................................7
1.1.2. Dạy học môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực .....................................................9
1.1.3. Ý nghĩa của việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực ...............................................11
1.2. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ .............................................................................................12
1.2.1. Khái niệm hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ..........................................................................12
1.2.2. Cơ chế thực hiện hoạt động giao tiếp .........................................................................................13
1.2.3. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ................................................................14
1.3. Dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” theo định hƣớng phát triển năng lực ......15
1.4. Thực trạng dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” ở trƣờng THPT ...................................16
1.4.1. Nội dung dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” trong SGK Ngữ văn 10 ...........................16
1.4.2.Thực trạng dạy bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”...............................................................16
1.4.3. Thực trạng học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” .................................................................17
1.4.4. Nhận xét chung ...........................................................................................................................18
Chƣơng 2. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC BÀI “HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG
NGÔN NGỮ” THEO ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC ................................................19
2.1. Mục đích việc dạy bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” trong chƣơng trình Ngữ văn
THPT .....................................................................................................................................................19
2.2. Nguyên tắc thiết kế các hoạt động dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” theo
định hƣớng phát triển năng lực ..........................................................................................................20
2.2.1. Nguyên tắc vừa sức .....................................................................................................................20
2.2.2. Nguyên tắc gắn liền với thực tiễn đời sống ................................................................................20
2.2.3. Nguyên tắc trực quan ..................................................................................................................21
2.3. Thiết kế các hoạt động dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” theo định hƣớng
phát triển năng lực ...............................................................................................................................21
2.3.1. Định hướng thiết kế hoạt động khởi động .................................................................................21
2.3.2. Định hướng thiết kế hoạt động hình thành kiến thức lí thuyết mới ......................................................23
2.3.3. Định hướng thiết kế hoạt động luyện tập...................................................................................25
2.3.4. Định hướng thiết kế hoạt động vận dụng – mở rộng ................................................................26
2.4. Quy trình tổ chức dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” theo định hƣớng phát
triển năng lực ........................................................................................................................................27
2.5. Các phƣơng pháp, kỹ thuật sử dụng khi tổ chức dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ” theo định hƣớng phát triển năng lực ........................................................................................28
2.5.1. Phương pháp vấn đáp - đàm thoại .............................................................................................28
2.5.2 Phương pháp thảo luận nhóm .....................................................................................................29
2.5.3.Phương pháp thuyết trình ............................................................................................................30
2.5.4. Phương pháp r n luyện theo mẫu ..............................................................................................31
2.5.5. Phương pháp đóng vai ................................................................................................................31
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ...........................................................................................33
3.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm ...................................................................................................33
3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm...............................................................................................33
3.4. Nội dung thực nghiệm ...................................................................................................................34
3.5. Kết quả thực nghiệm.........................................................................................................................47
KẾT LUẬN ...........................................................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
GV
: Giáo viên
HS
: Học sinh
NL
: Năng lực
PP
: Phương pháp
PPDH
: Phương pháp dạy học
PGS.TS
: Phó giáo sư – Tiến sĩ
THCS
: Trung học cơ sở
THPT
: Trung học phổ thông
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Với quan điểm “Đầu tư cho giáo dục là quốc sách”, Đảng và Nhà
nước ta đã đưa ra nhiều nghị quyết và chính sách về phát triển giáo dục nhằm
khẳng định tầm quan trọng, định hướng cũng như xác định mục tiêu, nhằm
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Cụ thể, theo Nghị quyết
88/2014/QH13 về công cuộc Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
Quốc hội yêu cầu ngành giáo dục Việt Nam phải “chuyển biến căn bản, toàn
diện về chất lượng và hiệu quả; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền
thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng
lực” [19]. Với những quan điểm chỉ đạo như vậy, có thể khẳng định đổi mới
phương pháp dạy học (PPDH) là yếu tố cốt lõi để nâng cao chất lượng của
giáo dục. Theo đó, ngày nay với xu thế đào tạo toàn cầu, nền giáo dục Việt
Nam hiện nay cần phải có sự thay đổi từ cách tiếp cận nội dung sang tiếp cận
năng lực (NL). Mục đích của sự chuyển đổi này chính là tạo ra sự thay đổi và
phát triển theo kịp với chất lượng đào tạo giữa các nước trong khu vực và
quốc tế, từng bước khẳng định giá trị con người Việt Nam có thể đáp ứng nhu
cầu của toàn cầu.
Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn là môn học bắt.
Ngoài chức năng công cụ, môn học này còn có nhiệm vụ hình thành và phát
triển các NL chung cũng như góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân
cách, các phẩm chất cao đẹp của người học. PPDH Ngữ văn trong hầu hết các
trường phổ thông hiện nay đã có những chuyển biến khá tích cực đáp ứng sự
đổi mới của ngành và sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, trong chương trình
Ngữ văn hiện nay vẫn còn mang nặng tính hàn lâm. Nội dung học tập còn
trừu tượng, chưa thực sự gắn liền với những tình huống trong cuộc sống nên
nhiều HS cho rằng môn học không thiết thực đối với sự phát triển con người
các em, chưa giúp các em có cơ hội khẳng định mình trước cộng đồng. Điều
đó dẫn tới các NL thiết yếu của HS chưa được hình thành và chưa thực sự
được chú trọng phát triển – nhất là những NL cá nhân. Cũng vì thế, hiện
tượng HS không hứng thú thậm chí có thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đối với việc
học tập bộ môn so với những môn học khác là điều đáng suy nghĩ.
1
“Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” là bài học về tiếng mẹ đẻ đầu
tiên của chương trình Ngữ văn ở THPT. Đối với nội dung dạy học bài này,
mục đích là giúp cho S hiểu về giao tiếp – hoạt động cơ bản, đặc thù của
con người, hiểu được các nhân tố cấu thành nên hoạt động này và ngôn ngữ
được xem là một phương tiện trọng yếu giúp cho chúng ta thực hiện được
mọi hoạt động giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày. Theo đó, khi GV hướng
dẫn HS tìm hiểu bài“Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”, giáo viên (GV) có
thể hình thành và phát triển được một số NL thiết yếu, trong đó chú ý đặc biệt
là NL giao tiếp cho người học. Tuy nhiên, trên thực tế, việc dạy học nội dung
này ở các trường học chưa thực sự hướng tới nhiệm vụ trên.
Từ những lí do xuất phát ở trên, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề
tài: Dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” (Ngữ văn 10) theo
định hướng phát triển năng lực.
2. Lịch sử nghiên cứu
Bước sang XXI, khi mà khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng
thì rất nhiều đất nước trên thế giới đã coi việc dạy học phát triển phẩm chất và
NL cho người học là nhiệm vụ chủ đạo của giáo dục. Để bắt kịp xu thế thời
đại, giáo dục Việt Nam trong vài năm trở lại đây cũng từng bước chuyển
mình. Kéo theo thực tế đó, việc nghiên cứu về khoa học giáo dục ở nước ta
cũng đã khá nhiều những công trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong khuôn
khổ khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi tập trung xem xét một số công trình sau:
Ngay từ bậc học ở Tiểu học, môn học Tiếng Việt đã có nhiệm vụ trang
bị cho HS kiến thức cơ bản về hệ thống từ ngữ, câu từ qua đó hướng dẫn các
em có thể sử dụng phương tiện ngôn ngữ một cách phù hợp trong nói năng,
ứng xử và giao tiếp với bạn bè, thầy cô, cha mẹ…Trong cuốn “Hoạt động
giao tiếp với dạy học tiếng Việt ở Tiểu học”, tác giả Phan Phương Dung và
tác giả Đặng Kim Nga cho rằng: “Trong dạy học tiếng Việt ở Tiểu học, giao
tiếp vừa là cách thức vừa là mục đích học tập. Thông qua giao tiếp và bằng
con đường giao tiếp trong các tình huống nói năng gần với hiện thực, HS
thường xuyên luyện tập, sử dụng lời nói, từ đó kĩ năng giao tiếp của các em
được hình thành một cách toàn diện và bền vững” [7, tr.13]. Ở đây, mặc dù
2
các tác giả chỉ chủ yếu chú ý đến nghiên cứu những phương pháp (PP) trong
dạy học môn tiếng Việt ở Tiểu học tuy nhiên tài liệu cũng góp phần và giúp
chúng tôi xác định mục đích và định hướng để triển khai đề tài.
Khi nghiên cứu mục đích của việc dạy học Tiếng Việt ở trường phổ
thông, nhóm tác giả cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt” đã khẳng định:
“Muốn hình thành các kỹ năng và kỹ xảo ngôn ngữ, học sinh phải trực tiếp
tham gia vào hoạt động giao tiếp. Việc lĩnh hội lời nói của người khác, sản
sinh ra các lời nói đúng và hay vừa là phương tiện đồng thời vừa là mục đích
của bộ môn Tiếng Việt ở nhà trường phổ thông” [1, tr.57]
Tiếp nối quan điểm trên, tác giả Lê A khi đánh giá vấn đề sử dụng ngôn
ngữ trong giao tiếp đã nhấn mạnh: “Tri thức về Tiếng Việt chỉ hoàn chỉnh và
chắc chắn khi các em đã thực sự vận dụng vào hoạt động giao tiếp” bởi vì
“giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ”. Từ những đánh giá tác giả
đã khẳng định: “Chọn hoạt động giao tiếp làm đối tượng dạy học chẳng
những không bỏ qua các tri thức Việt ngữ mà còn góp phần làm cho những tri
thức ấy linh hoạt, phong phú hơn và gần với thực tế cuộc sống hơn.” [2]
PGS.TS Đỗ Việt ùng (Trường Đại học Sư phạm à Nội) trong bài
viết: “Dạy - học Tiếng Việt trong nhà trường theo hướng phát triển năng lực”
đã khẳng định: “Năng lực tiếng Việt là một trong những năng lực chung, có
tầm quan trọng cần được quan tâm để hình thành và phát triển tốt ở người
học, vì tiếng Việt là công cụ quan trọng nhất để hình thành và phát triển các
năng lực khác” [10]. Nhấn mạnh nhận định trên, tác giả đánh giá: “Hiệu quả
giao tiếp, trong đại bộ phận các lĩnh vực của đời sống, phụ thuộc vào năng
lực tiếng Việt – vì thế muốn hình thành và phát triển năng lực giao tiếp phải
hình thành và phát triển năng lực tiếng Việt (đương nhiên là kết hợp với một
số năng lực khác mới có năng lực giao tiếp tốt). Mặt khác, việc hình thành và
phát triển năng lực tiếng Việt không thể thực hiện được nếu đặt tiếng Việt
ngoài tư cách là phương tiện giao tiếp. Nói cách khác, muốn hình thành và
phát triển năng lực tiếng Việt phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với năng
lực giao tiếp” [10].
3
Có thể nhận thấy, thông qua việc tìm hiểu về một số công trình tiêu
biểu như trên, việc đánh giá về NL, dạy học tiếng mẹ đẻ nhằm hình thành NL
đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Tuy nhiên chưa có công trình nào gắn
mục đích dạy học theo định hướng phát triển NL người học vào bài dạy cụ thể
đó là bài: “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” thì dường như lại chưa có
công trình nào đề cập đến. Đây chính là những gợi dẫn để chúng tôi có thể
đưa ra lựa chọn và nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành ghiên cứu đề tài với mục đích xác định được các
cách thức tổ chức dạy học phần Tiếng việt theo định hướng phát triển NL cho
HS để giờ học đạt hiệu quả. Qua đó, từ việc tìm hiểu sẽ đưa ra những cách tổ
chức các hoạt động dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” (Ngữ
văn 10), khóa luận còn hướng tới nhiệm vụ xác định các NL phù hợp cho HS
khi học tiếng mẹ đẻ và đặc biệt đó là nhằm giúp người học hình thành NL
giao tiếp, giúp các em tự tin thể hiện bản thân khi giao tiếp với mọi người
xung quanh và giúp các em bồi đắp thêm tình yêu với tiếng mẹ đẻ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài: “Dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
(Ngữ văn 10) theo định hướng phát triển năng lực”, thông qua đó xác định
những nhiệm vụ của quá trình nghiên cứu cơ bản như sau:
cứu tổng hợp các hệ thống cơ sở khoa học đối với vấn đề dạy
học theo định hướng phát triển NL người học bước đầu vận dụng kết quả
nghiên cứu vào dạy ở trường THPT.
- Nghiên
- Đề xuất những cách thức để thiết kế các hoạt động và tổ chức các hoạt
động dạy học theo định hướng phát triển NL.
- Đánh giá được tính hiệu quả của đề tài và khả năng thực thi của việc
dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” thông qua giảng dạy thực
tế ở trường phổ thông.
4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu đề tài: Dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ” (Ngữ văn 10) theo định hướng phát triển năng lực khóa luận đã
tập trung chủ yếu vào tìm hiểu về những phương diện của dạy học theo định
hướng phát triển NL người học qua đó đề xuất và đưa ra giải pháp triển khai
trong quá trình tổ chức dạy học. Qua đó nhằm giúp người học chủ động, tích
cựctrong quá trình học tập.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đối với đề tài nghiên cứu nêu trên, chúng tôi đã lựa chọn nội dung dạy
học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” (Ngữ văn 10). Đây là phạm vi
nghiên cứu cho sự vận dụng những đề xuất cho việc tổ chức dạy học theo
hướng phát triển NL người học. Qua đó để những tiết học Tiếng Việt trong
trường phổ thông theo những yêu cầu mới đạt được kết quả tích cực và hiệu
quả cao.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài trên, các phương pháp (PP) mà chúng tôi sử dụng
như sau:
5.1. Phương pháp tổng hợp các vấn đề lý thuyết
Đây là PP sắp xếp các tài liệu, thông tin lý thuyết đã thu thập được và liên
kết chúng lại với nhau để tạo ra một hệ thống lý thuyết đầy đủ, sâu sắc về đối
tượng nghiên cứu. Đồng thời PP này giúp người nghiên cứu nắm và tổng hợp
lại những vấn đề về mặt lý thuyết có liên quan đến đề tài nghiên cứu. PP tổng
hợp các vấn đề lí thuyết được sử dụng để phân tích cơ sở về lí luận và thực
tiễn đối với việc hình thành và rèn luyện, phát triển các NL cho người học
trong phạm vi nghiên cứu.
5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Đây chính là thao tác để có thể phân biệt, có sự so sánh, đối chiếu những
sự vật, hiện tượng với nhau. Đối với phạm vi đề tài nghiên cứu của khóa luận
này, chúng tôi sử dụng PP so sánh, đối chiếu để có thể thấy được sự thay đổi
5
về những đặc điểm tâm lý của HS sau khi được hình thành và phát triển các
NL thông qua các hoạt động học tập cụ thể trong giờ học với trước đó học
theo PP truyền thống. Sử dụng PP này giúp chúng tôi có những sự điều chỉnh
hợp lí khi so sánh HS của lớp dạy với giáo án truyền thống với HS của lớp
dạy học theo những hoạt động mà chúng tôi đã đề xuất ra trong khóa luận.
5.3. Phương pháp thực nghiệm
Chúng tôi sử dụng PP thực nghiệm nhằm kiểm chứng những giả thuyết
trong khóa luận đã được nêu ra, đồng thời nhằm bác bỏ các cách thức chưa
phù hợp để có thể điều chỉnh lại một cách hợp lí. Kết quả thực nghiệm sẽ giúp
chúng tôi khẳng định lại những giả thuyết đã được nêu ra trong khóa luận để
từ đó đề xuất những khả năng để ứng dụng đề tài nghiên cứu vào thực tiễn là
môi trường học tập thực tế ở trường phổ thông.
PP này được thực hiện như sau:
- Tổ chức các hoạt động dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ” thông qua thiết kế các hoạt động theo hướng nghiên cứu của đề tài và
tiến hành thực nghiệm ở trường THPT.
- Tiến hành theo dõi và đưa ra những nhận xét đối với quá trình tiếp
nhận kiến thức trong quá trình học tập của HS trong giờ học theo những định
hướng đã đề xuất.
5.4. Phương pháp thống kê
Chúng tôi sử dụng PP thống kê trong phạm vi của đề tài nghiên cứu để
thông qua đó có những phân tích về những hiệu quả qua khảo sát kết quả đối
với đối tượng trước và sau khi chúng tôi tiến hành qua thực tế giảng dạy.
6. Bố cục của khoá luận
Khoá luận được triển khai thành ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung của khoá luận được cấu trúc với 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Tổ chức các hoạt động dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ” theo định hướng phát triển năng lực
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Dạy học theo định hƣớng phát triển năng lực
1.1.1. Khái niệm năng lực
Khi nghiên cứu sự phát triển của con người trong quá trình tiến hóa,
các nhà tâm lí học nhận thấy mỗi cá nhân, khi tham gia vào các hoạt động có
tính xã hội đều ít nhiều có một thế mạnh riêng. Điều đó được thể hiện rất rõ
trong việc họ khẳng định khả năng thực hiện công việc có tính xã hội, tính
cộng đồng. Và từ đó, thuật ngữ năng lực được nhắc tới. Và sau này, cho đến
những năm 70 của thế kỉ XX, các nhà khoa học mới tập trung nghiên cứu.
Năng lực có nguồn gốc từ tiếng La tinh là “competentia” có nghĩa là gặp gỡ.
Tuy nhiên, nói tới thuật ngữ này, mỗi nhà khoa học lại có những quan niệm
khác nhau do sự chi phối trong cách tiếp cận, sự chi phối của bối cảnh và mục
đích sử dụng những quan niệm đó.
Không đồng nhất với quan niệm trên về năng lực, Từ điển Bách khoa
Việt Nam (Tập III) định nghĩa: “Năng lực là đặc điểm của cá nhân thể hiện
mức độ thông thạo – tức là có thể thực hiện một cách thành thục và chắc chắn
một số dạng hoạt động nào đó.” [13,tr. 41].
Nhấn mạnh ý nghĩa bản chất của từ “năng lực”, “Từ điển Tiếng Việ”t
nhấn mạnh đó là“khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó” hay khi nhắc đến NL của con người thì đó là
“phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt
động nào đó với chất lượng cao” [15, Tr. 639]. Có phần đồng tình và mở rộng
với khái niệm này, hai tác giả Trần Khánh Đức và Đặng Thành
ưng lại có sự mở
rộng khái niệm này ở những phương diện khác nhau. Theo Trần Khánh Đức thì
NL là “khả năng tiếp nhận và vận dụng tổng hợp, có hiệu quả mọi tiềm năng
của con người (tri thức, kĩ năng, thái độ, thể lực, niềm tin…)để thực hiện
công việc hoặc đối phó với một tình huống, trạng thái nào đó trong cuộc sống
và lao động nghề nghiệp” [9, Tr. 4]. Còn tác giả Đặng Thành ưng đã khẳng
7
định: “Năng lực là thuộc tính cá nhân cho phép cá nhân thực hiện thành công
hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể”
[11,tr.19]. Nếu như tác giả Trần Khánh Đức nhận định năng lực con người
trong mối quan hệ với khả năng của con người (tri thức, kĩ năng, thái độ, thể
lực, niềm tin…) để thực hiện công việc thì tác giả Đặng Thành ưng lại xem
xét nó trong mối quan hệ về mặt thuộc tính của một cá nhân cho phép cá nhân
đó thực hiện đạt hiệu và thành công hoạt động. Như vậy, cùng bàn về NL,
mỗi tác giả lại tiếp cận nó ở những điểm nhìn, những phương diện và góc độ
khác nhau trong ý nghĩa gốc của thuật ngữ này.
Dung hòa trong quan niệm về NL so với các khái niệm trên, tác giả Lê
Đình Trung khẳng định đó là “những khả năng, kĩ xảo học được hay sẵn có
của cá nhân nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng
về động cơ, xã hội…và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một
cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt bằng
những phương tiện, biện pháp, cách thức phù hợp” [14, tr.13]. Có phần đồng
tình với quan niệm trên, GS.TS Đinh Quang Báo cho rằng: “Năng lực là sự
kết hợp một cách linh hoạt, có tổ chức kiến thức, kỹ năng và thái độ, tình cảm,
giá trị, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả yêu cầu một hoạt động
trong bối cảnh nhất định của người học” [3]. Kế thừa những quan niệm kể
trên, PGS.TS Bùi Minh Đức đã phân biệt Năng lực với các từ gần nghĩa với
nó như: tiềm năng,khả năng, kĩ năng, tài năng, năng khiếu...Từ đó chỉ ra khái
niệm: “NL là sự huy động/vận dụng tổng hợp các yếu tố kiến thức, kĩ năng,
kinh nghiệm, ý chí… để thực hiện/giải quyết thành công một (một số) hoạt
động/nhiệm vụ trong một bối cảnh nhất định.” [8].
Do có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này nên trong khóa luận,
chúng tôi lựa chọn khái NL trong “Chương trình Giáo dục phổ thông tổng
thể” từ việc triển khai các nội dung đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
sau 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ ra khái niệm “năng lực”: “NL là khả
năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự
huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như
hứng thú, niềm tin, ý chí,... NL của cá nhân được đánh giá qua phương thức
và kết quả hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc
8
sống.” [4]. Việc lựa chọn khái niệm này để có sự định hướng gần nhất với
thực tế phổ thông và theo sát với mục đích đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông hiện nay. Theo đó, có thể khẳng định, khi nhắc tới NL, người ta nhắc
tới một phạm trù gắn với khả năng của con người, đó là sản phẩm của sự kết
hợp giữa những tố chất sẵn có bên trong cùng với quá trình học tập và rèn
luyện của người học. Thông qua quá trình học tập, NL sẽ dần được hình thành
và hoàn thiện khi người học tích hợp các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo cùng với
tố chất của bản thân. Nhắc tới NL, người ta có thể khái quát nó thành sơ đồ
sau:
1.1.2. Dạy học môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực
Cho tới nay, khi nghiên cứu và đánh giá chương trình và mô hình đào
tạo của nhiều quốc gia trên thế giới, có thể nhận thấy những nước có nền giáo
dục tiến bộ đều rất coi trọng việc dạy học theo hướng phát triển NL. Trong
thực tế khi dạy học theo hướng này, đối với tất cả những bộ phận tham gia
vào quá trình giáo dục đó là đều phải tập trung hướng tới đích cuối cùng là
đảm bảo được về chất lượng của đầu ra cho người học. Sang đến đầu TK
XXI, những quốc gia phát triển đều chú trọng đến phát triển GD, việc hình
thành và phát triển cho người học về những NL và các phẩm chất được các
nước phát triển quan tâm, chú ý đến việc hình thành và phát triển những NL
cần thiết cho việc học tập suốt đời và gắn liền với đời sống. Từ thực tế đó,
Nghị quyết số 29, Hội nghị Trung ương 8, khóa XI đã khẳng định và quán
9
triệt về sự quan trọng của việc trang bị và phát triển toàn diện về phẩm chất
và NL cho người học [21]. Ngày 4/11/2013 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã kí ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI Nghị quyết số 29-NQ/TW về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo”, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trong Nghị quyết đó, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh: “Chuyển mạnh từ chủ yếu
chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện NL và phẩm chất người
học” [21].
Đối với chương trình giáo dục định hướng NL (định hướng phát triển
năng lực) hiện nay nó còn có tên gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra.
Chương trình này đã được bàn đến từ khoảng những năm 90 của thế kỷ 20 và
cho đến thời điểm hiện nay nó đã trở thành xu hướng của giáo dục quốc tế.
Với mục đích nhằm mục tiêu phát triển NL người học các nước đã chú trọng
đến giáo dục định hướng NL . Nhằm đảm bảo được về chất lượng đầu ra của
việc dạy học, giáo dục định hướng NL với mục đích thực hiện mục tiêu phát
triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng NL vận dụng tri thức trong
những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người NL giải quyết các
tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình giáo dục định hướng
NL nhấn mạnh rõ vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận
thức. Nhằm có thể đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của việc dạy học
theo hướng phát triển NL người học thì ngoài những yêu cầu về đổi mới các
mục tiêu và nội dung trong chương trình SGK thì điểm đổi mới quan trọng đó
là PP giảng dạy theo hướng coi trọng việc phát triển, hoàn thiện phẩm chất và
NL của HS, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học.
Theo đó, tác giả Lê Đình Trung khẳng định: “Chương trình dạy học định
hướng năng lực không quy định nội dung dạy học chi tiết mà quy định những
kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục; trên cơ sở đó đưa ra
những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và
đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học tức
là đạt được kết quả đầu ra mong muốn.” [14, tr.66].
10
Ngữ văn là môn học có vai trò quan trọng trong chương trình giáo dục
bậc phổ thông. Vì vậy việc đổi mới PP giảng dạy của môn học theo định
hướng phát triển NL là một trong những yêu cầu rất quan trọng và cần thiết.
Theo tác giả Lê Đình Trung thì: “Năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực
thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ” [14, tr. 36]. Qua việc đổi mới PP
giảng dạy môn học này sẽ giúp người học hình thành những NL, qua đó phát
huy tính sáng tạo, tự chủ của HS, chú trọng việc vận dụng những tri thức vào
giải quyết những tình huống của thực tiễn đời sống.
1.1.3. Ý nghĩa của việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Theo tác giả Đặng Thành ưng: “Bản chất của giáo dục theo tiếp cận
NL là lấy NL làm cơ sở (tham chiếu) để tổ chức chương trình và thiết kế nội
dung học tập. Điều này cũng có nghĩa là NL của HS sẽ là kết quả cuối cùng
cần đạt được của quá trình dạy học hay giáo dục. Nói cách khác, thành phần
cuối cùng và cơ bản của mục tiêu giáo dục là các phẩm chất và NL của người
học. NL vừa được coi là điểm xuất phát đồng thời là sự cụ thể hóa của mục
tiêu giáo dục. Vì vậy, những yêu cầu về phát triển năng lực HS cần được đặt
đúng chỗ của chúng trong mục tiêu giáo dục” [11]. Có thể hiểu một cách
khác đó là việc dạy học theo định hướng phát triển NL chú trọng vận dụng
những kiến thức vào thực tiễn đời sống nhằm phát triển tối đa những NL của
chủ thể học tập. HS chính là người sẽ chủ động trong toàn bộ quá trình học
tập và bản thân chủ thể học tập có thể hoàn thành những nhiệm vụ học tập
dưới sự hướng dẫn của GV, vì vậy quá trình giáo dục không còn là trang bị
kiến thức cho HS mà chuyển sang phát triển toàn diện các NL của người học,
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong việc lĩnh hội tri thức.
Dạy học theo hướng phát triển NL nhấn mạnh vai trò của người học với
tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, được trang bị một cách toàn diện
về kiến thức, đạo đức, thể chất… Trên cơ sở đó, nhà giáo dục từng bước hình
thành nên nhân cách và phát triển nhân cách ấy của con người, từng bước
giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, truyền thống dân tộc.
Về ưu điểm của hình thức dạy học này chính là quản lí được đối với kết quả
đầu ra về chất lượng, coi trọng NL vận dụng kiến thức vào đời sống của HS. Gắn với
11
nhiệm vụ về chất lượng đầu ra, dạy học theo định hướng phát triển NL có thể
sử dụng các PP và phương tiện dạy học tích cực một cách linh hoạt, tích cực
hóa HS vào những hoạt động học tập trí tuệ kết hợp chặt chẽ với việc rèn
luyện các NL gắn chặt với thực tiễn cuộc sống. Trên cơ sở đó người học được
trau dồi sự linh hoạt, nhanh nhạy trong giải quyết những vấn đề thực tế, sự
độc lập, sáng tạo trong tư duy. Hình thức giáo dục này chú trọng vào các hoạt
động học tập thảo luận nhóm, thí nghiệm, thực hành, các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo,…Do đó, S được thỏa sức sáng tạo, tư duy, các em có cơ
hội trải nghiệm, làm chủ kiến thức nhờ đó phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo, rèn NL giải quyết những vấn đề phức hợp, NL hợp tác giữa các cá
nhân.
1.2. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
1.2.1. Khái niệm hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Tri thức về lý thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ được rút ra từ hoạt động
trong đời sống hàng ngày của con người. Nó là hoạt động đặc trưng của con
người bởi nhờ có hoạt động này mà con người mới tạo lập và vận hành được
các mối quan hệ xã hội. ơn nữa, nhờ có nó con người mới có thể thể hiện
những thông tin tình cảm, giãy bày được những cung bậc tâm lý rất tinh tế
của chính bản thân con người. Theo đó, các nhà khoa học nhận thấy, trong
cuộc sống, con người có thể giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện, trong
đó ngôn ngữ là phương tiện rất cần thiết, rất quan trọng của con người trong
giao tiếp hàng ngày. Ngày nay khi mà xã hội phát triển theo xu hướng toàn
cầu hóa, ta nhận thấy rõ giao tiếp là nhu cầu càng trở nên quan trọng và cần
thiết, nó cũng giống nhưng những nhu cầu khác như ăn ngon, mặc đẹp, sống
đầy đủ của con người trong đời sống thường nhật. Vậy, thế nào là hoạt động
giao tiếp của con người?
Theo “Từ điển giải thích Thuật ngữ ngôn ngữ học” nêu ra khái niệm về
giao tiếp đó là “sự thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống giải
mã nào đó” [17]. Cũng bàn về vấn đề này, Nguyễn Quang Uẩn đánh giá:
“Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa người với người thông qua đó con người
trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc,tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác
12
động qua lại với nhau. Hay nói khác đi giao tiếp là xác lập và vận dụng các
quan hệ người- người, hiện thực hoácác quan hệ xã hội giữa chủ thể này với
chủ thể khác” [16, tr.35]. Nói tóm lại ,nhắc tới hoạt động giao tiếp là người ta
nhớ tới một hoạt động diễn ra thường xuyên giữa mọi người trong tất cả các
hoạt động của xã hội. Hoạt động này xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc và trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; nó được con người thực hiện bằng nhiều
phương tiện “ngôn ngữ” khác nhau như: cử chỉ, điệu bộ, hành động, nét
mặt,... Tuy nhiên phương tiện quan trọng nhất, phổ biến nhất và hiệu quả vẫn là
ngôn ngữ. Chính giao tiếp làm cho con người nâng cao hiểu biết, tiếp nhận tri thức,
thống nhất hành động. Con người giao tiếp nhằm mục đích: nhận thức, hành động,
bộc lộ cảm xúc,… Cũng vì thế, nhắc tới chức năng của giao tiếp, người ta nhắc tới
những chức năng cơ bản như: thông báo, tạo lập quan hệ, giải trí, tự biểu hiện,
hành động...
1.2.2. Cơ chế thực hiện hoạt động giao tiếp
Ban đầu, giao tiếp của con người thường xuất phát từ một nhu cầu, một
mục đích nào đó. Nhu cầu ấy có thể là trao đổi một thông tin, giãi bày tình
cảm hay thể hiện quan điểm riêng của bản thân. Khi đã có nhu cầu ấy, con
người (người phát) sẽ tìm cách chuyển hoá nhu cầu đó thành các thông tin cụ
thể. Một trong những công cụ giúp con người chuyển hoá đầy đủ nhất, hữu
hiệu nhất chính là nhờ các đơn vị ngôn ngữ. Khi đã chuyển hóa thông tin
thành ngôn ngữ, con người lập tức phát các tín hiệu ấy (Nếu là giao tiếp trực
tiếp, tín hiệu là âm thanh, còn giao tiếp gián tiếp là chữ viết), quá trình này
được gọi là quá trình phát tin. Khi thông tin đã được phát ra, người tiếp nhận
(người nhận) sẽ lý giải ý nghĩa của các tín hiệu ngôn ngữ đã được phát ra, quá
trình này là quá trình nhận tin. Khi đã lý giải đầy đủ những đơn vị trong ngôn
ngữ đó, người nhận lại tìm các đơn vị ấy để có sự phản hồi đối với người phát
lúc đầu.
Như vây, giao tiếp về bản chất là một quá trình bao gồm hai hoạt động
là quá trình phát tin và quá trình nhận tin. Trong hoạt động đó, các quá trình
diễn ra kế tiếp nhau. Nó có điểm khởi đầu (xuất phát từ nhu cầu của con
người) và có điểm kết thúc (là sự phản hồi của người nhận tin đối với người
phát tin).
13
1.2.3. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Trong quá trình giao tiếp đều có rất nhiều các nhân tố tham gia vào
hoạt động đó. Những nhân tố tham gia vào quá trình giao tiếp vừa tạo ra chính
hoạt động giao tiếp lại vừa chi phối tới hoạt động giao tiếp. Các nhân tố đó là:
1.2.3.1.Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp có thể hiểu đơn giản đó là yếu tố không thiếu được
trong quá trình giao tiếp nào diễn ra hàng ngày bởi vì đây chính là các chủ thể
trực tiếp tạo ra các hoạt động giao tiếp. Đó chính là những chủ thể tham gia
vào quá trình giao tiếp một cách trực tiếp, gồm người phát (người nói/người
viết) và người nhận (người nghe/người đọc). Trong một hoạt động giao tiếp
có sự tham gia bởi hai hoặc nhiều người. Nhờ có nhân tố này, những câu hỏi
có thể được xác định như: Người nói/ người viết là ai và ai là người
nghe/người nhận?
1.2.3.2. Nội dung giao tiếp
Có thể nói đây chính là nhân tố chi phối tới việc lựa chọn, sử dụng các
phương tiện và hình thức giao tiếp, nội dung được xác định là yếu tố cốt lõi
của con người trong hoạt động giao tiếp. Đây là nhân tố tạo nhu cầu, là nhân
tố để con người có căn cứ đánh giá hiệu quả của hoạt động này. Nội dung
giao tiếp có thể phân định rõ: vấn đề được con người truyền tải là gì? Để hoạt
động giao tiếp đạt hiệu quả thì các nhân vật tham gia trong quá trình giao tiếp
cần phải nắm rõ và hiểu rõ được về nội dung giao tiếp.
1.2.3.3. Mục đích giao tiếp
Có thể hiểu đây là nhân tố giúp chủ thể thực hiện hoạt động giao tiếp có
thể thực hiện những nhu cầu và mong muốn. Mục đích giao tiếp là nhân tố chi
phối trực tiếp đến nội dung giao tiếp. Một cuộc giao tiếp thường hướng đến
một hay nhiều mục đích khác nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ
thể. Theo nhà nghiên cứu Bùi Minh Toán có thể khái quát thì con người thực
hiện hoạt động giao tiếp thường hướng đến những mục đích như: thông tin,
nhận thức, khơi gợi cảm xúc, tác động hay mục đích hành động...
14
1.2.3.4. Phương tiện và cách thức giao tiếp
Có thể hiểu đây là những yếu tố dùng để thể hiện tư tưởng của chủ thể
trong quá trình giao tiếp. Trong đó, ngôn ngữ được đánh giá là phương tiện
giao tiếp chủ yếu của con người. Thông qua ngôn ngữ được con người sử
dụng khi giao tiếp, chúng ta có thể hiểu được trình độ văn hóa và nhân cách
của người giao tiếp. Đối với phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ cần chú ý
đến nội dung ngôn ngữ, tức là ý nghĩa của lời nói. Để hiểu được thông điệp
của nhau trong quá trình giao tiếp, điều đầu tiên cần đó là ngôn ngữ của các
nhân vật giao tiếp phải có tính chất chung, phù hợp với giới tính, tuổi tác, địa
vị xã hội, phong tục tập quán và văn hóa dân tộc.
Cách thức giao tiếp được hiểu là cách mà các đối tượng (nhân vật giao
tiếp) tham gia vào sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp sao cho phù hợp với mục
đích giao tiếp. Đối với mỗi một hoàn cảnh khác nhau thì có những cách thức
giao tiếp phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp.
1.2.3.5. Hoàn cảnh giao tiếp
Quá trình giao tiếp thường được diễn ra ở một hoàn cảnh nhất định
giống như các hoạt động khác của con người. Có thể hiểu đó chính là thời
gian, không gian, và là những đặc điểm của môi trường diễn ra hoạt động giao
tiếp. Nhân tố này bao gồm hoàn cảnh giao tiếp hẹp và hoàn cảnh giao tiếp
rộng. những hoàn cảnh địa lí, kinh tế, lịch sử, văn hóa,…thuộc hoàn cảnh giao
tiếp rộng, nó không ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động giao tiếp.
1.3. Dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” theo định hƣớng
phát triển năng lực
Theo xu hướng dạy học theo hướng phát triển NL như hiện nay, quá
trình học tập phải hướng vào việc hình thành các NL cho người học từ việc
người học thu nhận những kiến thức một cách chủ động và biết cách huy
động vốn kiến thức đó để áp dụng vào tình huống cụ thể trong cuộc sống.
Ngữ văn là bộ môn có vai trò và vị trí quan trọng trong nhà trường phổ thông,
môn học này góp phần giúp người học bồi dưỡng tư tưởng và hoàn thiện nhân
cách. Để trang bị những NL giao tiếp tiếng Việt cho người học, cần phải xác
định cần phải dạy học cái gì? Đó chính là dạy các hoạt động trong quá trình
15
giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) và phải trang bị cho người học những kiến thức
và kĩ năng. Trong mỗi một hoạt động dạy học cần đặt ra mục tiêu dạy học, tức
là xác định dạy để làm gì? Điều đó sẽ chi phối đến toàn bộ nội dung dạy học.
Vì vậy GV khi tiến hành dạy học cần đổi mới PPDH phải phù hợp với mục
tiêu ở mỗi một bài học thông qua việc thiết kế các hoạt động học tập cụ thể.
Theo đó, trong khóa luận này, chúng tôi đề xuất cách tổ chức các hoạt động
học tập: Hoạt động khởi động, hoạt động hình thành kiến thức lí thuyết mới,
hoạt động luyện tập, hoạt động vận dụng – mở rộng.
1.4. Thực trạng dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” ở trường
THPT
1.4.1. Nội dung dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” trong SGK Ngữ
văn 10
Trong chương trình Ngữ văn 10 – tập 1, bài “Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ” được phân phối giảng dạy trong hai tiết, chia thành một tiết lý
thuyết và một tiết thực hành. Tuy nhiên, tùy theo phân phối chương trình Ngữ
văn của từng đơn vị trường học mà số tiết có thể rút lại là một tiết. Khảo sát
thực tế chương trình Ngữ văn của trường THPT Tây Tiền Hải (Thái Bình) thì
bài này được dạy trong một tiết bao gồm cả phần lý thuyết và thực hành.
Bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” trong chương trình Ngữ văn
lớp 10 – tập 1 là dạng bài hình thành những kiến thức về lý thuyết mới của
hoạt động giao tiếp mà ở những cấp học dưới S chưa được học. Nội dung
bài học ngoài việc cung cấp đầy đủ những kiến thức lý thuyết còn thực hành
hoạt động giao tiếp một cách cơ bản, rèn luyện các kỹ năng và năng lực sử
dụng Tiếng việt cho người học, bài học còn bồi dưỡng cho các em tình yêu,
niềm tự hào khi sử dụng tiếng Việt và để từ đó bồi đắp tình yêu, sự trân trọng
và có ý thức gìn giữ sự trong sáng của Tiếng việt khi sử dụng.
1.4.2.Thực trạng dạy bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”
Hiện nay, nhiều GV đã có ý thức trong đổi mới PPDH. Tuy nhiên việc này
vẫn còn nặng về mặt hình thức. Trong đó, một bộ phận GV qua một thời gian đổi
mới đã quay trở lại PPDH cũ bởi sợ tốn thời gian và công sức bỏ ra. Mặt khác để giờ
học theo PPDH mới đạt hiệu quả cần có sự hợp tác tích cực giữa GV và người học.
16
Vì thế, cho đến nay nhiều GV vẫn sử dụng những PPDH cũ, vẫn có người chủ động,
áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách nghĩ của mình cho HS. GV như một nhà
diễn thuyết, khiến S không có cơ hội bày tỏ bày tỏ những phát hiện, tìm tòi mới mẻ
của mình về nội dung học tập khiến HS hoàn toàn thụ động, không phát huy được
tính chủ động, sáng tạo của người học. Vì vậy giờ học trở nên nhàm chán, HS không
tích cực tham gia vào quá trình học tập, ảnh hưởng đến kết quả giờ học.
Bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” là nội dung ở lớp 10 vì vậy,
chúng tôi đã điều tra thực tế việc dạy học bài này tại trường THPT Tây Tiền
Hải (Thái Bình). Đây là phần bài đã được học ở chương trình học kì I. Cho
nên chúng tôi đã có quá trình trao đổi, tìm hiểu với các GV dạy lớp 10 và
được tham gia dự tiết giảng bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” của
một GV trong giờ tổng kết phần Tiếng Việt. Qua đó chúng tôi thấy rằng trong
việc tổ chức các hoạt động dạy bài này GV vẫn theo PP truyền thống, HS
không chủ động mà thụ động, chủ yếu là nghe GV giảng và ghi chép lại, GV
là người chủ động, các PP và kỹ thuật hiện đại khi dạy học chưa được sử
dụng một cách tối ưu. Trong 1 tiết 45 phút GV chủ yếu chỉ đưa ra những kiến
thức cơ bản trong SGK cho HS, phần vận dụng luyện tập chưa được thực tế
và sâu sắc. S chưa thực sự hứng thú trong hoạt động học tập, chưa phát huy
được tính tích cực, chủ động của HS, các NL chưa được hình thành ở HS. Vì
vậy mục tiêu bài học và chất lượng bài học chưa đạt hiệu quả cao.
1.4.3. Thực trạng học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”
Hiện nay, nhiều HS và cả phụ huynh chưa nhận thức được sự ảnh
hưởng và vai trò của môn học Ngữ văn dẫn đến việc học lệch, coi trọng học
các môn tự nhiên.Với quan niệm nếu học tốt các môn tự nhiên, HS sẽ dễ
dàng tìm được nhiều cơ hội việc làm tốt hơn cho tương lai, nhiều bậc phụ
huynh và ngay cả chính bản thân chủ thể học tập không thực sự coi trọng
môn Ngữ văn, xem đó chỉ là môn học phục vụ thi cử để đủ điểm lên lớp.
Biểu hiện rõ nhất cho thái độ đó là trong thực tế, khá nhiều HS học Ngữ văn
rất thụ động, quen với việc nghe đọc để chép, rập khuôn theo công thức,
máy móc trong việc lĩnh hội kiến thức. Kéo theo đó là các em không có đủ
các kỹ năng khi tham gia các hoạt động học tập nhất là một số kỹ năng như
giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề, sáng tạo,… Riêng với giao tiếp của HS,
17
qua quan sát, qua khảo sát bài viết của các em, thấy được cách diễn đạt còn
nhiều hạn chế. Không ít HS trong giờ học còn thụ động khi truyền đạt trong
giao tiếp. Vì vậy, việc dạy học Tiếng Việt ở trong nhà trường còn chưa thực
sự đạt được hiệu quả cao.
Qua khảo sát về thực trạng học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ” ở trường THPT Tây Tiền Hải (Thái Bình), chúng tôi nhận thấy rằng HS
còn thụ động, chú ý ghi chép bài và lắng nghe GV giảng. S chưa thực sự có
hứng thú với tiết học, chưa tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội và vận dụng
kiến thức.Suốt quá trình diễn ra giờ học, duy chỉ số ít HS tích cực phát biểu ý
kiến xây dựng bài học, còn lại đa số các em mất tập trung: làm việc riêng, mất
trật tự,…một số khác chỉ thụ động ghi chép lời giảng của GV. Vì vậy kết quả
đạt được của giờ học là chưa cao.
1.4.4. Nhận xét chung
Từ việc tham gia dự giờ thực tế ở trường THPT Tây Tiền Hải, chúng
tôi nhận thấy rằng việc dạy và học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”
chưa thực sự đạt hiệu quả, kết quả chưa cao. Trên thực tế việc giảng dạy, còn
rất nhiều GV còn chưa có sự đổi mới PP tổ chức các hoạt động dạy học. Tính
ứng dụng thực tiễn qua kiến thức trong bài học chưa có kết quả cao, GV vẫn
còn giảng thuần túy thiên về lý thuyết, chưa vận dụng tối ưu các PP, kỹ thuật
giảng dạy hiện đại. Điều đó khiến giờ học trở nên nhàm chán, HS cảm thấy
mệt mỏi, không tập trung, sao nhãng dẫn đến chất lượng giờ học không cao.
Để khắc phục những vấn đề trên, qua nội dung đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã
đưa ra một số phương án trong dạy học bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ” theo định hướng phát triển NL. Qua đó nhằm giúp HS có động lực và
hứng thú tham gia học tập, qua đó bồi dưỡng được các NL quan trọng và cần
thiết thông qua bài học để giờ học không còn đơn thuần thiên về lý thuyết mà
chú trọng giúp cho HS hình thành và phát triển NL, ứng dụng kiến thức vào
thực tiễn đời sống.
18