Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Khoá luận tốt nghiệp vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học bài nhân vật giao tiếp (ngữ văn 12)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
------

BÙI NGỌC CHÂM

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
VÀO DẠY HỌC BÀI
“NHÂN VẬT GIAO TIẾP”
(NGỮ VĂN 12)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

HÀ NỘI, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
------

BÙI NGỌC CHÂM

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
VÀO DẠY HỌC BÀI
“NHÂN VẬT GIAO TIẾP”
(NGỮ VĂN 12)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn
Người hướng dẫn khoa học


TS. PHẠM KIỀU ANH

HÀ NỘI, 2019


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ, tận tình chỉ bảo
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Em xin cảm ơn cô Nguyễn Thị Loan
và lớp 12A3, 12A4 và 12D4 trường THPT Sóc Sơn, Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi giúp em hoàn thành khóa luận này.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn và tri ân sâu sắc tới cô giáo – TS. Phạm
Kiều Anh đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và đóng góp những ý kiến quý báu
trong thời gian em học tập và nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 19 tháng 04 năm 2019
Sinh viên

Bùi Ngọc Châm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn của TS. Phạm Kiều Anh. Các số liệu và nghiên cứu không trùng lặp với
bất cứ tác giả nào và chưa được công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 04 năm 2019

Sinh viên

Bùi Ngọc Châm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 5
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận ................................................................ 6
5.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm .......................................................... 6
5.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp.............................................................. 6
5.4. Phương pháp xử lí số liệu .......................................................................... 6
6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP VÀ THỰC TRẠNG DẠY HỌC
BÀI “NHÂN VẬT GIAO TIẾP” Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG................... 6
1.1. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ........................................................... 6
1.1.1. Khái niệm hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ....................................... 6
1.1.2. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ............................. 8
1.2. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt ......................................... 10
1.2.1. Nội dung quan điểm giao tiếp ............................................................... 10
1.2.2. Ý nghĩa của vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt ... 12

1.3. Thực trạng dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” (Ngữ văn 12) ở trường phổ
thông ................................................................................................................ 13
1.3.1. Nội dung dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” (Ngữ văn 12)................... 13
1.3.2. Thực trạng dạy bài “Nhân vật giao tiếp” ở trường phổ thông ............ 14
1.3.3. Thực trạng học bài “Nhân vật giao tiếp” ở trường phổ thông ............ 15
CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC DẠY HỌC BÀI “NHÂN VẬT GIAO TIẾP”
(NGỮ VĂN 12) THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP ................................... 17


2.1. Mục đích của việc dạy học bài “Nhân vật giao tiếp”............................... 17
2.2. Nguyên tắc thiết kế các hoạt động dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” theo
quan điểm giao tiếp ......................................................................................... 17
2.2.1. Nguyên tắc vừa sức ............................................................................... 17
2.2.2. Nguyên tắc trực quan ............................................................................ 18
2.2.3. Nguyên tắc chú trọng tới sự kết hợp giữa năng lực ngôn ngữ và năng lực
tư duy ............................................................................................................... 19
2.3. Định hướng các hoạt động dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” theo quan điểm
giao tiếp ........................................................................................................... 19
2.3.1. Tạo tình huống kích thích nhu cầu giao tiếp và định hướng giao tiếp cho
học sinh ........................................................................................................... 19
2.3.2. Phân tích tình huống giao tiếp gắn với nhân vật giao tiếp................... 21
2.3.3. Rút ra nhận xét, yêu cầu của bài học và đánh giá hiệu quả giao tiếp.. 22
2.3.4. Thực hành giao tiếp theo các nhiệm vụ học tập mới ............................ 23
2.4. Định hướng các phương pháp, kĩ thuật dạy học được sử dụng khi dạy học
bài “Nhân vật giao tiếp” theo quan điểm giao tiếp ......................................... 23
2.4.1. Phương pháp đóng vai .......................................................................... 24
2.4.2. Phương pháp dạy học nhóm ................................................................. 25
2.4.3. Kĩ thuật “khăn phủ bàn” ...................................................................... 26
2.5. Định hướng hoạt động kiểm tra kết quả nhận thức của học sinh ............ 27
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................ 30

3.1. Mục đích thực nghiệm ............................................................................. 30
3.2. Đối tượng thực nghiệm ............................................................................ 30
3.3. Chủ thể thực nghiệm ................................................................................ 31
3.4. Thời gian thực nghiệm ............................................................................. 31
3.5. Nội dung thực nghiệm.............................................................................. 32
3.5.1. Giảng dạy bằng giáo án thực nghiệm ................................................... 32
3.5.2. Phát phiếu học tập để kiểm tra trình độ của học sinh .......................... 40
3.6. Kết quả thực nghiệm ................................................................................ 40
KẾT LUẬN .................................................................................................... 43
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ ................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 45
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT

Viết tắt

Viết đầy đủ

1

HĐGT

Hoạt động giao tiếp

2

GT


Giao tiếp

3

GV

Giáo viên

4

GS

Giáo sư

5

HS

Học sinh

6

NVGT

Nhân vật giao tiếp

7

NXB


Nhà xuất bản

8

QĐGT

Quan điểm giao tiếp

9

THCS

Trung học cơ sở

10

THPT

Trung học phổ thông

11

TSKH

Tiến sĩ khoa học

12

tr


Trang


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngữ văn là học môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, là
môn học mang tính công cụ, giáo dục và thẩm mỹ cao. Đây là môn học này có
tính bắt buộc, được giảng dạy ở cấp Tiểu học với tên gọi là môn “Tiếng Việt”,
ở THCS và THPT gọi là môn “Ngữ văn”. Nội dung của môn học gồm giáo dục
ngôn ngữ và văn học, đáp ứng nhu cầu từng cấp học cho học sinh (HS). Mục
đích của việc dạy môn học này ở bậc phổ thông là hình thành và trang bị cho
người học những tri thức cơ bản về văn học, văn bản, ngôn ngữ, tiếng mẹ đẻ và
những tri thức có liên quan tới lĩnh vực xã hội. Thông qua đó hướng tới mục
đích hình thành và giáo dục nhân cách, bồi đắp tư tưởng, lối sống tốt đẹp, lối
ứng xử, giao tiếp văn minh, lịch sự phù hợp với những yêu cầu về con người
mới trong xã hội hiện nay. Để đạt được những nhiệm vụ đó, trong quá trình xây
dựng chương trình môn Ngữ văn, các kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết)
làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học. Theo đó, khi dạy học Ngữ văn, một
trong những nhiệm vụ giáo dục chính được chú trọng chính là hình thành năng
lực giao tiếp và phát triển năng lực này cho người học.
1.2. Cùng với tích hợp, giao tiếp được coi là quan điểm quan trọng có
vai trò chỉ đạo việc dạy học một số phân môn đặc biệt là phân môn Tiếng Việt
trong chương trình Ngữ văn. Theo quan điểm này, việc dạy tiếng thực chất là
quá trình giao tiếp hóa. Vì thế, trong dạy học phân môn tiếng Việt ở nhà trường
phổ thông rất chú trọng tới các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết khi giao tiếp. Cũng
do đó, trong chương trình Ngữ văn THPT nói chung nói riêng, phần tiếng Việt
được chú trọng về tính ứng dụng vào quá trình giao tiếp của con người. Nội
dung giảng dạy của tiếng Việt là hệ thống ngôn ngữ, các kĩ năng cần thiết để
giao tiếp trong xã hội. Vì vậy, bài “Nhân vật giao tiếp” (Ngữ văn 12) có vai trò

quan trọng. Nó vừa cung cấp cho người học những hiểu biết sâu hơn về hoạt
động cơ bản thường ngày của con người, vừa giúp cho các em nhận thấy vai
trò của nhân vật giao tiếp đây là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng
trong HĐGT. Từ đó giúp cho HS không chỉ hiểu mà còn biết thể hiện đúng vai
trò của bản thân khi tham gia giao tiếp.

1


1.3. Tuy nhiên, từ việc khảo sát và điều tra thực tế, dễ dàng nhận thấy
việc dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông và dạy học bài “Nhân vật giao tiếp”
hiện nay vẫn chưa đạt mục đích. Các hoạt động dạy học vẫn mang tính áp đặt
máy móc và truyền thụ quá nhiều lí thuyết nên chưa phát huy được tính tích
cực và chủ động của HS. Từ thực tế dạy và học, đặc biệt là qua những bài kiểm
tra viết của học sinh cho thấy các em chưa biết tổ chức lập luận chặt chẽ, chưa
diễn đạt được vấn đề mà chính các em muốn trình bày. Để có thể phát huy tính
tích cực và chủ động của người học, giáo viên (GV) cần phải có phương pháp
đúng đắn, sáng tạo để HS có thể bộc lộ hết khả năng của chính mình. Với mong
muốn việc dạy học tiếng Việt có ý nghĩa hơn khi người học không chỉ được trang bị
tri thức mà còn được rèn được kĩ năng để có thể vận dụng những kĩ năng đã có vào
hoạt động của bản thân HS, chúng tôi chọn đề tài:
“VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP VÀO DẠY HỌC BÀI “NHÂN
VẬT GIAO TIẾP” (NGỮ VĂN 12)”

2. Lịch sử nghiên cứu
Là hoạt động thường nhật, quan trọng và rất đặc biệt của con người, giao
tiếp được nhiều nhà ngôn ngữ học, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Theo đó, việc dạy học tiếng mẹ đẻ cho HS được nhiều nhà khoa học quan tâm
tìm hiểu.
Từ các công trình nghiên cứu của các nhà xã hội học của Mỹ như Hymes

D và Gumperz J.J (1972), của John Firth M.A.K Halliday (Anh), của Austin
J.L và Searle J.R (1969) khi nghiên cứu các công trình về ngôn ngữ học chức
năng hay nghiên cứu ngữ dụng học, các học giả như Widdowon H.G (1972),
Brumfit C.J và Johnsonk (1979),... đã nghiên cứu và đề cao chức năng giao tiếp
của ngôn ngữ. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu về ngôn ngữ học chức năng,
xã hội học và ngữ dụng học của những người đi trước, các học giả đã đề ra cơ
sở lí luận cho việc dạy học quan điểm giao tiếp hay gọi là quan điểm chức năng.
Quan điểm này được sử dụng rộng rãi từ khoảng những năm 70 của thế kỉ XX
và sau đó lan rộng ở Mỹ và Anh. Việc giảng dạy này có mục đích là khiến năng
lực giao tiếp trở thành mục tiêu chính của việc dạy và học tiếng.

2


Thuật ngữ “quan điểm giao tiếp” ở nước ta hiện nay được sử dụng rộng
rãi không chỉ với việc giảng dạy Ngữ văn mà còn đối với việc dạy tiếng Việt.
Trong khoảng hơn 20 năm gần đây, quan điểm giao tiếp được sử dụng ở nước
ta, được các nhà lí luận ngôn ngữ, lí luận dạy tiếng chú ý. Vấn đề về quan điểm
giao tiếp cũng được giới thiệu trên các phương tiện giáo trình, các công trình
nghiên cứu, tạp chí chuyên ngành. Các tác giả Nguyễn Trí, Lê A, Lê Phương
Nga từng nhấn mạnh: “Quan điểm giao tiếp là quan điểm cơ bản nhất trong
việc tổ chức dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông. Quan điểm này chi phối
toàn bộ chương trình dạy học từ việc lựa chọn nội dung, phương pháp đến các
hình thức dạy học.” [9-tr.11]. Có thể nói nhận định trên có vai trò to lớn trong
việc định hướng cách thức tổ chức dạy và học và những tiền đề lý thuyết quan
trọng về quan điểm giao tiếp trong dạy tiếng mẹ đẻ cho HS.
Bài viết “Dạy tiếng Việt là dạy một hoạt động và bằng hoạt động”, tác
giả Lê A đã khẳng định hai vấn đề cơ bản đó là: “Dạy cái gì? Dạy như thế
nào?” [1-tr.5.]. Bài viết đã đề cập và chú trọng đến cách sử dụng ngôn ngữ
trong GT, các thao tác trong dạy học và dạy học tiếng Việt theo trình tự. Tài

liệu này cũng là những định hướng quý báu giúp chúng tôi lựa chọn phương
pháp, phương tiện dạy học theo hướng giao tiếp rất xác đáng và đúng đắn
Trong cuốn “Hoạt động giao tiếp với việc dạy học tiếng Việt ở Tiểu học”,
các tác giả Phan Phương Dung và Đặng Kim Nga đã chú trọng sâu sắc đến
QĐGT trong dạy học tiếng Việt ở bậc Tiểu học. QĐGT này đã được chỉ ra rằng:
“Trong dạy học tiếng Việt ở Tiểu học, giao tiếp vừa là cách thức, vừa là mục
đích học tập. Thông qua giao tiếp và bằng con đường giao tiếp trong các tình
huống nói năng gần với hiện thực, học sinh thường xuyên luyện tập sử dụng lời
nói, từ đó kĩ năng giao tiếp của các em được hình thành một cách toàn diện và
bền vững” [3-tr.34]. Tuy giáo trình chỉ nêu và phân tích việc dạy học tiếng Việt
ở Tiểu học, nhưng đối với GV Ngữ văn THPT thì tài liệu này là một trong
những cơ sở của việc dạy học tiếng Việt theo QĐGT.
Tác giả Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán đã đưa ra các phương
pháp dạy học tiếng Việt trong cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt”, các tác
giả chú trọng đến phương pháp giao tiếp và đã khẳng định: “Từ chức năng của
ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của xã hội loài người và từ
3


mục đích của việc dạy tiếng là hình thành và nâng cao khả năng giao tiếp cho
học sinh có thể thấy giao tiếp vừa là mục đích, lại cũng vừa là phương thức để
dạy học tiếng Việt. Điều này chứng tỏ, phương pháp giao tiếp là phương pháp
quan trọng trong việc tổ chức dạy học tiếng Việt. Phương pháp giao tiếp là
phương pháp hướng dẫn học sinh vận dụng lí thuyết được học và thực hiện
nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham
gia vào hoạt động giao tiếp. Trên tinh thần này, phương pháp giao tiếp trở
thành phương pháp chủ yếu để phát triển lời nói cho học sinh.” [2- tr. 69-70].
Những định hướng này là cơ sở quan trọng cho chúng tôi thực hiện khóa luận
này.
Tác giả Phạm Văn Nam trong công trình “Dạy học tác phẩm văn chương

cho học sinh phổ thông theo hướng giao tiếp” đã đưa ra các cơ sở quan trọng
về giao tiếp và hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Mặc dù tác giả nghiên cứu
về dạy học tác phẩm văn học cho HS THPT theo hướng giao tiếp nhưng cũng
là một trong những tiền đề quan trọng cho chúng tôi thực hiện đề tài này, tác
giả đã khẳng định: “Để xây dựng một văn bản, học sinh không thể chỉ biết tổ
chức các đơn vị ngôn ngữ, chỉ chú ý đến nhân tố ngôn ngữ thuần túy mà còn
phải chú ý đến việc xử lí mối quan hệ giữa bài viết của mình với các đơn vị nằm
ngoài hệ thống ngôn ngữ” [6-tr.104]. Theo tác giả Phạm Văn Nam, nhân tố
giao tiếp có sự cho phối lớn tới hiệu quả của việc tạo lập văn bản cho HS. Do
đó, dạy học tiếng Việt cho HS theo quan điểm giao tiếp là dạy cho các em cách
thức giao tiếp, tạo lập và tiếp nhận văn bản trong giao tiếp, vì vậy cần chú ý
đến nhân tố giao tiếp, đặc biệt là nhân vật giao tiếp.
Trên đây là các bài viết, các công trình nghiên cứu quý giá đã góp phần
vào việc dạy học tiếng Việt theo định hướng giao tiếp. Mặc dù có những đóng
góp quý giá trong việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường THPT,
song lại chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu việc dạy tiếng Việt theo định
hướng và quan điểm giao tiếp ở khối lớp trong dạy một bài học cụ thể. Vì vậy,
nghiên cứu đề tài “Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học bài Nhân vật
giao tiếp (Ngữ văn 12)” là cần thiết. Những tài liệu nêu trên chính là những
tiền đề quý giá giúp chúng tôi triển khai đề tài này.

4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này nhằm xác định sự chi phối của
quan điểm giao tiếp vào dạy học một bài tiếng Việt ở THPT, từ đó phát hiện ra
những cách thức tổ chức dạy học tiếng Việt, trong đó có bài “Nhân vật giao
tiếp” có chú trọng tới sự phát triển khả năng GT cho HS đạt hiệu quả.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài “Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học bài
“Nhân vật giao tiếp” (Ngữ văn 12)”, chúng tôi xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Tổng hợp hệ thống những cơ sở khoa học về dạy học theo quan điểm
giao tiếp, bước đầu vận dụng vào dạy bài “Nhân vật giao tiếp” trong trường
THPT.
- Kiến nghị các cách thức thiết kế và tổ chức dạy học bài “Nhân vật giao
tiếp” theo quan điểm giao tiếp nhằm tập trung phát triển những khả năng giao
tiếp cho HS lớp 12 ở THPT.
- Bước đầu đánh giá tính hiệu quả và khả năng thực thi của việc dạy học
bài “Nhân vật giao tiếp” thông qua thực nghiệm.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với khóa luận này, chúng tôi tập trung vào tìm hiểu đặc điểm của dạy học tiếng
Việt theo quan điểm giao tiếp nhằm tìm ra những cách thức tổ chức hoạt động dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực độc lập của HS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Gắn với nội dung đề tài nghiên cứu, chúng tôi chọn bài “Nhân vật giao
tiếp” (Ngữ văn 12) làm đối tượng nghiên cứu từ đó tạo ra hiệu quả cho những
giờ học tiếng Việt.

5


5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai nghiên cứu những vấn đề và nội dung mà khóa luận đã đề
ra, cần sử dụng những phương pháp nghiên cứu lí luận và phương pháp thực
nghiệm sư phạm. Cụ thể:

5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu những vấn đề về lí luận và thực tiễn liên quan đến nội dung đề tài.
5.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Để thực hiện đề tài này, phạm vi thực nghiệm sư phạm là dạy thực nghiệm với
giáo án theo QĐGT khi dạy bài “Nhân vật giao tiếp” để thấy được tính ứng dụng, hiệu
quả và khả năng thực hiện trong nội dung giảng dạy Ngữ văn 12.
5.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Qua việc tìm hiểu các giáo trình, tài liệu về ngôn ngữ học, lí luận và phương
pháp dạy học tiếng Việt để nghiên cứu lịch sử vấn đề và cơ sở lí luận của đề tài.
5.4. Phương pháp xử lí số liệu
Qua việc khảo sát, thăm dò và tính ra các số liệu cụ thể nhằm đánh giá
khả năng thực hiện của đề tài.

6. Bố cục của khóa luận
Khoá luận được triển khai thành ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung của khoá luận được cấu trúc với 3 chương:
Chương 1: Quan điểm giao tiếp và thực trạng dạy học bài “Nhân vật giao
tiếp” ở trường phổ thông
Chương 2: Tổ chức dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” (Ngữ văn 12) theo
quan điểm giao tiếp
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP VÀ THỰC TRẠNG
DẠY HỌC BÀI “NHÂN VẬT GIAO TIẾP” Ở TRƯỜNG PHỔ
THÔNG
1.1. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

1.1.1. Khái niệm hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Giao tiếp là một trong những hoạt động thể hiện rất rõ tâm sinh lý, cá
tính của con người. Do đó, khi nghiên cứu tâm lý con người, người ta nhận thấy
giao tiếp tác động tới sự phát triển của con người ở những phương diện sau:
Giao tiếp có vai trò định hướng hoạt động của con người. Muốn tổ chức
tốt các hoạt động cụ thể, con người phải thông qua giao tiếp. Tuy nhiên, muốn
giao tiếp được, con người phải qua một quá trình thăm dò để tìm hiểu đối tượng.
Quá trình ấy sẽ giúp con người hiểu tính cách, tâm lý nhu cầu của đối tượng và
từ đó, con người có thể tìm cách đưa ra những hình thức giao tiếp phù hợp để
đạt hiệu quả nhất định. Hay nói cách khác, thông qua hoạt động giao tiếp, con
người có cơ sở xác định mức độ, nhu cầu, thái độ của đối tượng giao tiếp và
qua đó đưa ra được những định hướng đúng đắn cho HĐGT và trang bị những
cơ sở hiểu biết để thống nhất với những mục đích, phương thức hành động
nhằm đạt được những nhiệm vụ chung trong lao động cũng như trong sinh hoạt
hàng ngày.
Đặc biệt, giao tiếp đảm nhận vai trò định hướng hoạt động nhận thức cho
mỗi người. Khi GT với nhau, con người đều hướng tới những đích nhất định.
Và để đạt được đích ấy, con người phải có những hiểu biết cụ thể. Những hiểu
biết ấy có thể là về đối tượng giao tiếp (tâm lý, tính cách, tình cảm, nhu cầu của
đối tượng), có những hiểu biết về các vấn đề tồn tại trong xã hội… Từ những
hiểu biết đó, con người vận dụng vào giao tiếp để điều chỉnh các hành vi, lời
nói, cử chỉ của mình nhằm thuyết phục được đối tượng giao tiếp. Muốn giao
tiếp đạt hiệu quả con người phải có những hiểu biết nhất định. Những hiểu biết
ấy, con người lại chỉ thu nhận được trong các HĐGT khác. Vốn hiểu biết ấy có
thể là về đối tượng giao tiếp, cũng có thể là về các vấn đề của cuộc sống, của
hoạt động lao động. Đây chính là cơ sở giúp mọi người có thể thống nhất với
6


nhau trong mọi hoạt động, giải tỏa được các bức xúc hay mâu thuẫn cá nhân

nhằm hướng tới sự thống nhất và đoàn kết để giải quyết các vấn đề của cuộc
sống.
Hơn nữa, nhờ có giao tiếp, con người sẽ thực hiện hoạt động đánh giá và
điều chỉnh bản thân trong cuộc sống. Thông qua các hoạt động giao tiếp cụ thể,
con người có thể đánh giá những biểu hiện thiếu lịch sự hay những tồn tại trong
ngôn ngữ, trong hành vi, cử chỉ của đối tượng giao tiếp và từ đó có thể điều
chỉnh hành động của bản thân khi giao tiếp. GT là một hoạt động mang tính
thực tiễn. Tính thực tiễn được biểu hiện ở chỗ khi giao tiếp, con người cũng có
thể đánh giá được những biểu hiện trong hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ giao tiếp
của người khác để từ đó điều chỉnh hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ của bản thân.
Như vậy nói tới giao tiếp là nói tới một hoạt động xác lập và vận hành
các quan hệ người - người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội. Trong cuộc
sống, con người sử dụng các phương tiện khác nhau để giao tiếp, nhưng phương
tiện giao tiếp quan trọng và cơ bản nhất của con người chính là ngôn ngữ. Giao
tiếp bằng ngôn ngữ là giao tiếp lấy ngôn ngữ làm phương tiện. Ngôn ngữ là
một trong những hệ thống tín hiệu đặc biệt, mỗi tín hiệu ngôn ngữ vừa có khả
năng biểu hiện miêu tả hiện thực lại vừa mang sắc thái biểu cảm. Ngôn ngữ là
một hệ thống tín hiệu có tính xã hội cao, là phương tiện tư duy và giao tiếp quan
trọng của con người ở mọi thời đại, mọi môi trường và các nền văn hóa khác
nhau. Giao tiếp bằng chữ viết hay bằng lời nói thì đều tạo ra các sản phẩm ngôn
ngữ có dung lượng khác nhau nhưng không thể nhỏ hơn câu và đều là một chuỗi
câu hoặc văn bản. Nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp, lý thuyết về
hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ra đời. Lí thuyết này bao gồm một số luận
điểm sau:
- Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ có mục đích thông tin và tác động
đến cảm xúc, tư tưởng con người. Mục đích của ngôn ngữ là tác động, bộc lộ
và thông báo, do đó trong một đơn vị ngôn ngữ, các chức năng này có khi được
thể hiện riêng biệt nhưng có khi kết hợp với nhau. Do đó trong một ngữ cảnh
cụ thể người nói sẽ biểu lộ cụ thể nét mặt, cử chỉ, giọng nói... để từ đó đối tượng
tiếp nhận lĩnh hội đầy đủ tư tưởng, tình cảm, hành động...


7


- Để đạt được đích giao tiếp, việc mã hóa đúng quy tắc ngôn ngữ là điều
kiện cần thiết. Muốn giao tiếp thành công thì người tạo lập và người lĩnh hội
phải sử dụng đúng nguyên tắc ngôn ngữ và phải truyền tải một thông điệp theo
cùng một nội dung.
- Sự hiểu biết về đối tượng giao tiếp tỉ lệ thuận với hiệu quả giao tiếp.
Trong thực tế, đối tượng này rất đa dạng, một người hay nhiều người, người
hào hứng hoặc người chưa hào hứng cho cuộc giao tiếp, có người chủ động
nhưng có người lại hoàn toàn bị động khi giao tiếp. Vì thế cần có sự hiểu biết
về ngôn ngữ, hiểu biết về đối tượng giao tiếp như tâm lí lứa tuổi, sở thích, giới
tính, nghề nghiệp... từ đó sẽ tạo nên tính hiệu quả trong GT.
1.1.2. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Mỗi HĐGT đều bao gồm các nhân tố giao tiếp, các nhân tố GT không
thể thiếu bởi nếu không có nhân tố giao tiếp thì hoạt động giao tiếp không diễn
ra. Có năm nhân tố giao tiếp chính trong hoạt động giao tiếp; đó là nhân vật
giao tiếp, hoàn cảnh GT, mục đích GT, nội dung GT, phương tiện và cách thức
giao tiếp. Mỗi nhân tố giao tiếp sẽ tác động hoạt động giao tiếp theo những khía
cạnh nhất định.
1.1.2.1. Nhân vật giao tiếp
Là một trong năm yếu tố của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. NVGT
là người tham gia vào hoạt động giao tiếp, gồm người nói (người viết) và người
nghe (người đọc). Mỗi cá nhân trong hoạt động giao tiếp xuất hiện với một vai
trò nhất định theo hoàn cảnh nhất định. Hơn nữa đặc điểm lứa tuổi, tâm lí, nghề
nghiệp... sẽ chi phối ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp và sẽ để lại dấu ấn trong ngôn
ngữ của họ. Vai và vị thế giao tiếp cũng để lại dấu ấn cá nhân trong hoạt động giao
tiếp.
Ở quá trình giao tiếp bằng lời nói, NVGT cũng hiện diện trong lời nói.

Trong đó, NVGT tham gia vào hai quá trình sản sinh lời nói và lĩnh hội lời nói.
Vai giao tiếp và lượt lời của người sản sinh lời nói và người lĩnh hội lời nói sẽ
lần lượt luân phiên với nhau. Những hiểu biết về người tiếp nhận thông tin sẽ
giúp hiệu quả giao tiếp rõ rệt. Hơn nữa khi hiểu biết về đối tượng tiếp nhận theo
các phương diện như nhu cầu giao tiếp, tâm lí, thói quen ngôn ngữ, hoàn cảnh

8


sống... từ đó sẽ có những điều chỉnh về nội dung sao cho phù hợp nhất với đối
tượng.
Như vậy, NVGT là một nhân tố quan trọng trong HĐGT. Đó chính là
những chủ thể trực tiếp tổ chức và thực hiện những hoạt động giao tiếp cụ thể.
Không có nhân tố này thì không có hoạt động giao tiếp.
1.1.2.2. Nội dung giao tiếp
Nội dung GT là những vấn đề hay đề tài thể hiện hiện thực được nhắc
đến trong hoạt động giao tiếp. Nội dung giao tiếp rất phong phú như: tình cảm,
tư tưởng của con người hay sản phẩm tư duy...
Nội dung giao tiếp thường định hướng cho người nói, người viết phải trả
lời câu hỏi: “Vấn đề mà người nói, người viết đưa ra là gì? Người nói, người
viết muốn gửi gắm thông điệp gì đến người nghe, người đọc?”... Tùy thuộc vào
ngữ cảnh bên ngoài được nhắc tới mà các nhân vật này sẽ chọn ngôn ngữ và cử
chỉ, điệu bộ sao cho phù hợp với hoạt động giao tiếp.
1.1.2.3. Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp hay ngữ cảnh GT là môi trường xảy ra cuộc giao
tiếp. Nói một cách khác, nó là toàn bộ các yếu tố được coi là phông nền của
hoạt động giao tiếp ấy. Đó có thể là bức tranh đời sống xã hội, là không gian,
thời điểm, địa điểm cụ thể mà các nhân vật đang trực tiếp thực hiện HĐGT. Đó
là các yếu tố văn hóa, lịch sử, xã hội... Chẳng hạn, khi khắc họa cảnh đợi tàu
của chị em Liên và An trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã miêu tả một phần

bức tranh đời sống xã hội của làng quê Việt Nam những năm 1930 – 1945.
Cũng bởi thế, hình ảnh về khu phố thị, hình ảnh chợ quê, hình ảnh những con
người, những công việc và cả những dấu ấn riêng nhất của cuộc sống thời bấy
giờ được nhà văn lồng ghép trong câu, đoạn, một vài chi tiết trong văn bản.
Hoàn cảnh giao tiếp là một trong những nhân tố chi phối yếu tố ngôn ngữ, trong
một cuộc giao tiếp cụ thể, tùy từng hoàn cảnh giao tiếp mà nhân vật này sẽ chọn
ngôn ngữ và sử dụng.
1.1.2.4. Mục đích giao tiếp
Một cuộc giao tiếp hiệu quả là cuộc GT đạt được mục đích GT, đây là
nhân tố quyết định diễn biến GT. Mục đích này sẽ phức tạp hoặc giản đơn phụ
9


thuộc vào các hoạt động giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bao gồm ba mục đích
chính: Thông tin; Bộc lộ tình cảm; Tác động. Cụ thể như sau:
Mục đích thông tin: Giao tiếp nhằm truyền thông tin, nhận thức của người
nói, người viết đến người nghe, người đọc. Giao tiếp tạo nên sự nhận thức giữa
những người trong cuộc giao tiếp, nâng cao hiểu biết, kinh nghiệm giao tiếp và
các kĩ năng, kiến thức xã hội cũng được mở rộng.
Mục đích bộc lộ tình cảm: Trong cuộc giao tiếp, khi bày tỏ tình cảm, cảm
xúc và thái độ của người tham gia giao tiếp thì mối quan hệ giữa họ sẽ được
củng cố hơn. Từ đó có những cách ứng xử sao cho thích hợp để người giao tiếp
thêm hiểu nhau hơn.
Mục đích tác động: Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ có chức năng
tác động tới tâm tư, tình cảm của người tham gia giao tiếp, từ đó hướng họ vào
những hành động.
Các mục đích này không tồn tại cùng nhau. Có mục đích thì thể hiện rõ
ở hoạt động này nhưng lại nhạt nhòa ở hoạt động khác. Do đó tùy thuộc vào
mục đích giao tiếp mà lựa chọn các nhân tố sao cho thích hợp.
1.1.2.5. Phương tiện và cách thức giao tiếp

Phương tiện giao tiếp là ngôn ngữ hoặc phương tiện phi ngôn ngữ dùng
trong quá trình giao tiếp. Ngôn ngữ nói và viết là phương tiện giao tiếp hiệu
quả và ưu việt nhất. Bên cạnh đó để cuộc giao tiếp hiệu quả thì không thể thiếu
các phương tiện phi ngôn ngữ, đó là cử chỉ, điệu bộ, nét mặt...
HĐGT bằng ngôn ngữ cần có các phương tiện giao tiếp để tạo nên cuộc
GT hiệu quả. Lựa chọn phương tiện GT phù hợp còn phụ thuộc vào các nhân
tố giao tiếp khác như nhân vật, mục đích, nội dung và hoàn cảnh. Tuy nhiên
khả năng và cách sử dụng tiếng Việt của người giao tiếp cũng có sự liên quan
đến chất lượng giao tiếp.
1.2. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt
1.2.1. Nội dung quan điểm giao tiếp
Dạy ngôn ngữ, dạy tiếng mẹ đẻ cho HS thực chất là dạy cho các em một
phương tiện giao tiếp và mục đích của việc làm đó chính là giúp cho các em

10


biết sử dụng thứ phương tiện đó vào cuộc giao tiếp của bản thân mình. Cũng vì
thế, việc dạy học ngôn ngữ đòi hỏi phải gắn thứ phương tiện này vào đúng hoạt
động hành chức của nó. Nói một cách khác, hoạt động dạy tiếng Việt cho HS
không chỉ dạy cách tiếp nhận cho các em mà dạy cách tạo lập sản phẩm GT
theo những mục đích khác nhau. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt
là quan điểm dạy học xuất phát từ chức năng GT của ngôn ngữ. Nó hướng đến
mục đích phát triển khả năng giao tiếp cho người học, được thể hiện qua các
phương diện dưới đây:
Giao tiếp là một chức năng cơ bản của ngôn ngữ. Khi nói đến giao tiếp
là ta nói đến một hoạt động đặc trưng của mỗi người. Nó là hoạt động đặc trưng
bởi nhờ có hoạt động này mà con người mới tạo lập và vận hành được các mối
quan hệ xã hội. Khi giao tiếp với nhau, con người sử dụng nhiều phương tiện,
công cụ, trong đó, ngôn ngữ được coi là công cụ hữu hiệu nhất, giúp con người

có thể thực hiện được tốt nhất các mục đích giao tiếp. Ngôn ngữ có thể giúp
con người truyền tải được nhiều nội dung giao tiếp tế nhị, tinh tế. Ngôn ngữ
được đánh giá là phương tiện quan trọng nhất vì: nó là phương tiện phổ biến
nhất, có thể sử dụng cho mọi loại hình giao tiếp trong đời sống xã hội. Hơn
nữa, nó có sức mạnh tác động to lớn trong đời sống con người, nhất là đời sống
tâm hồn, tình cảm. Ngôn ngữ cũng chính là nhân tố biểu hiện rõ nhất văn hóa
giao tiếp, nghệ thuật ứng xử giữa con người với con người. Ví dụ: một cô gái
đến chơi nhà bạn nhưng lại có lối ăn nói cục cằn, trống không, thô lỗ thì sẽ bị
đánh giá là thiếu văn hóa, thiếu lịch sự khi giao tiếp. Nhờ ngôn ngữ, con người
có thể giao tiếp một cách dễ dàng trong các không gian, thời gian khác nhau
mà không đòi hỏi những điều kiện vật chất phức tạp.
Quan điểm giao tiếp là quan điểm dạy học hướng đến mục đích phát
triển năng lực giao tiếp cho HS. Việc giao tiếp của con người được thể hiện
qua những kĩ năng cụ thể là nghe, nói, đọc viết và bên cạnh đó là khả năng biểu
hiện tâm lí như hiểu, hành động... Muốn phát triển năng lực giao tiếp cho HS,
một trong những việc làm không thể thiếu được chính là phải đặt HS vào những
cảnh huống giao tiếp cụ thể và qua đó mà hình thành và rèn luyện các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết cho các em. Nói một cách khác, muốn dạy học tiếng Việt
đạt hiệu quả, rõ ràng các hoạt động dạy học của phân môn này đều phải xuất
11


phát từ chính hoạt động hành chức của nó thì HS mới có điều kiện thực tiễn để
phát triển được các kĩ năng giao tiếp cho bản thân.
Ở Việt Nam, các nhà giáo dục cũng nhấn mạnh: dạy tiếng Việt là dạy bộ
công cụ giao tiếp, dạy để giúp HS sử dụng tốt nhất bộ công cụ này vào hoạt
động học tập và giao tiếp của bản thân các em. Như vậy, dạy tiếng Việt cho các
em trước hết đó là trang bị cho HS một bộ công cụ (đó là các đơn vị ngôn ngữ
của tiếng Việt). Từ đó hình thành cho HS những hiểu biết về tiếng mẹ đẻ. Đây
là cơ sở để giáo dục lòng tự hào tiếng mẹ đẻ cho các em. Theo đó, việc dạy học

tiếng Việt còn hướng tới nhiệm vụ là thông qua những hiểu biết về tiếng mẹ đẻ,
hình thành và rèn luyện cho HS những năng lực sử dụng tiếng Việt vào các hoạt
động học tập và giao tiếp của bản thân các em. Dạy tiếng Việt theo hướng giao
tiếp và để giao tiếp là phương hướng giảng dạy tiếng mẹ đẻ ở trường phổ thông.
Theo đó, việc dạy ngôn ngữ nói và viết phải lấy giao tiếp làm môi trường và
phương pháp, lấy việc phục vụ giao tiếp làm nhiệm vụ và mục đích. Quan điểm
này chi phối và tác động toàn bộ quá trình dạy học phân môn tiếng Việt ở trường
phổ thông bao gồm: việc xây dựng chương trình, định hướng nguyên tắc dạy
học, phương pháp dạy học và việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập phần tiếng
Việt trong chương trình.
1.2.2. Ý nghĩa của vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng
Việt
Khi tổ chức dạy và học theo quan điểm giao tiếp, GV phải trang bị, rèn
cho HS các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và tự đánh giá mức độ của bản thân
mình. Dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học tiếng Việt theo QĐGT nói riêng,
GV là người định hướng cho HS học tập, rèn luyện các kĩ năng. Muốn vậy, GV
nêu rõ các nhiệm vụ cụ thể cho HS có thể tạo lập lời nói cũng như văn bản gắn
với các quá trình giao tiếp của bản thân các em. Như vậy, việc vận dụng QĐGT
trong dạy học tiếng Việt sẽ giúp HS có điều kiện phát triển được lời nói trong
quá trình giao tiếp. Khi được tham gia vào HĐGT cụ thể, GV có điều kiện chú
trọng rèn luyện lời nói cho HS và do đó các em sẽ rèn được kĩ năng giao tiếp
và tự tin hơn khi học tập.
Hơn nữa, việc vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy học vẫn gắn liền
với sự thay đổi về phương pháp, cách thức dạy học tiếng mẹ đẻ của hầu hết các
12


quốc gia trên thế giới hiện nay. Quan điểm này chi phối trực tiếp tới các phương
diện chính của hoạt động dạy học tiếng mẹ đẻ cho HS, đó là: mục đích, nội
dung, nguyên tắc và phương pháp dạy học. Do đó khi dạy học tiếng Việt theo

quan điểm này, HS được đặt vào những HĐGT cụ thể, được hình thành những
tri thức, kĩ năng về giao tiếp và năng lực giao tiếp của các em được phát triển.
Điều đó được thể hiện rõ qua việc kĩ năng nghe, nói, đọc, viết của các em sẽ
hoàn thiện hơn, nhờ đó phát âm chuẩn, đọc đúng và nhanh trong từng lớp học,
từng cấp học, bậc học... Như vậy, ở phương diện phương pháp, quan điểm này
tạo điều kiện để GV có những cách thức, phương pháp, biện pháp tích cực, tăng
cường đối thoại, giao tiếp và đặc biệt là lấy HS làm trung tâm trong quá trình
dạy và học và từ đó, hoạt động dạy học đạt kết quả cao.
1.3. Thực trạng dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” (Ngữ văn 12) ở trường
phổ thông
1.3.1. Nội dung dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” (Ngữ văn 12)
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là hoạt động quan trọng trong đời
sống, đặc biệt trong hoạt động ấy có các nhân tố giao tiếp chi phối. NVGT là
một trong những nhân tố quan trọng trong hoạt động giao tiếp. Do đó nó được
nghiên cứu và giảng dạy trong chương trình Ngữ văn THPT, cụ thể ở chương
trình SGK lớp 12, tập hai.
Bài “Nhân vật giao tiếp” với thời lượng hai tiết trong phân phối chương
trình, tiết đầu tiên dạy lí thuyết để HS nắm vững đặc điểm và vai trò trong
HĐGT cùng tác động chi phối lời giao tiếp của các NVGT. Ở tiết thứ hai của
bài học, thông qua các hoạt động thực hành, GV có thể cho HS luyện tập bài
tập ở mức độ vận dụng sẽ giúp các em rèn kĩ năng nói và viết phù hợp với vai
trò GT trong mỗi trường hợp cụ thể.
Thông qua việc hướng dẫn HS tìm hiểu nhân tố quan trọng của HĐGT,
các em sẽ nhận biết được những điều thiết yếu nhất về chủ thể thực hiện hoạt
động này ở các khía cạnh: đặc điểm và vai trò trong HĐGT cùng tác động chi
phối lời giao tiếp của các NVGT. Từ đó các em có ý thức rèn luyện kĩ năng nói
và viết thích hợp với vai trò GT trong từng ngữ cảnh nhất định; rèn luyện kĩ
năng phân tích các mối quan hệ của các NVGT. Hơn nữa, các em cũng biết
phân tích chiến lược giao tiếp để đạt được mục đích và hiệu quả GT của các
13



NVGT để từ đó có ý thức vận dụng trong đời sống sinh hoạt và giao tiếp hàng
ngày.
Mục đích khi giảng dạy bài “Nhân vật giao tiếp” trong chương trình lớp
12 là giúp HS tiếp tục phát triển các năng lực đã học từ cấp Tiểu học và Trung
học cơ sở. Thông qua chương trình và bài học, chủ thể học tập sẽ hình thành
cho bản thân năng lực nghe, nói, đọc, viết vững vàng, trình bày có nội dung,
đúng trọng tâm, có thái độ tự tin khi trình bày trước nhiều người.
1.3.2. Thực trạng dạy bài “Nhân vật giao tiếp” ở trường phổ thông
Phương pháp dạy học hiện nay cần nhiều đổi mới theo định hướng phát
triển năng lực người học. Việc đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu cấp
thiết đối với giáo dục nước nhà hiện nay. Tổ chức dạy học theo QĐGT cũng
thể hiện yêu cầu đổi mới. Đánh giá thực trạng dạy bài “Nhân vật giao tiếp” ở
trường phổ thông chúng tôi thực hiện thông qua một số nhiệm vụ như sau: Khảo
sát ý kiến GV (Phụ lục).
Qua việc khảo sát thực trạng dạy của GV, chúng tôi thấy rằng đa số người
tham gia giảng dạy đều nhận thức đúng bản chất của dạy học theo QĐGT. Tuy
nhiên áp dụng quan điểm giao tiếp trong dạy học một số bài cụ thể vẫn còn khá
cứng nhắc, máy móc bởi không phải bài nào cũng áp dụng được quan điểm này
một cách đầy đủ, chính xác.
Bài “Nhân vật giao tiếp” được triển khai ở kì II trong chương trình Ngữ
văn 12. Học kì II là kì học cuối của lớp 12 và cũng là của cấp học THPT, trước
đây HS cũng được học nhiều các kiến thức liên quan đến vấn đề giao tiếp như:
“Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” ở Ngữ văn 10; bài “Ngữ cảnh” lớp 11;
“Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết” ở Ngữ văn 10... Từ đó các GV cũng
có cơ sở tiền đề để vận dụng quan điểm này vào dạy bài “Nhân vật giao tiếp”
cho HS lớp 12.
Ngoài việc khảo sát quá trình dạy của GV, chúng tôi dự giờ bài “Nhân
vật giao tiếp” tại lớp 12A3, 12A4, 12A6 và 12D4. Qua dự giờ, chúng tôi thấy

khi dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” thì có những đặc điểm thuận lợi và khó
khăn như sau:

14


Thuận lợi: GV bước đầu đã thay đổi phương pháp và kĩ thuật dạy học.
GV cũng nhận thấy được sự cần thiết cũng như tác dụng của dạy học Tiếng
Việt theo quan điểm giao tiếp và cũng chú ý ban đầu tới phát triển năng lực
giao tiếp cho HS khi soạn và dạy tiếng Việt cũng như dạy học bài “Nhân vật
giao tiếp”.
Bên cạnh những thuận lợi thì trong quá trình dạy học tiếng Việt và dạy
bài “Nhân vật giao tiếp” thì GV gặp không ít khó khăn.
Về giáo án: Mặc dù việc soạn giáo án đã có những đổi mới về phương
pháp và cách thức dạy học nhưng giáo án vẫn chưa có nhiều hoạt động liên
quan đến phát triển năng lực giao tiếp cho HS.
Về phương pháp: Nhiều GV vẫn quen cách dạy truyền thống, phương
pháp dạy học đơn điệu và phụ thuộc máy móc vào SGK, chưa phát huy vai trò
trung tâm của học sinh.
Về điều kiện giảng dạy: Bên cạnh các tài liệu chính thì tài liệu tham khảo
về QĐGT còn hạn chế, hơn nữa một số GV chưa hiểu và chưa tiếp cận với
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới hiện nay.
Về thời gian: Thời gian học tập của HS ở THPT mỗi tiết là 45 phút. Thời
gian này không đủ để tổ chức các tình huống giả định đa dạng và phong phú do
đó việc dạy học gặp rất nhiều thách thức và khó khăn.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, ta thấy hiệu quả khi dạy học truyền
thống trong dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” chưa cao, HS chưa thực sự tích
cực và giờ học chưa thực sự hấp dẫn cũng như chưa rèn được kĩ năng GT cho
người học.
Trên đây là một số biểu hiện mà chúng tôi nêu ra và cũng là căn cứ thực

tiễn để chúng tôi nghiên cứu làm cơ sở cho những định hướng trong dạy học
bài “Nhân vật giao tiếp” theo QĐGT ở lớp 12 nhằm nâng cao chất lượng giảng
dạy và học tập.
1.3.3. Thực trạng học bài “Nhân vật giao tiếp” ở trường phổ thông
Dạy học tiếng Việt theo QĐGT thành công hay không còn phụ thuộc rất
lớn ở đối tượng HS. Bởi lẽ, HS là trung tâm, là đối tượng của quá trình dạy học.

15


Do đó chúng tôi đã có những khảo sát ở đối tượng HS lớp 12A3, 12A4, 12A5
và 12D4 trường THPT Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Qua dự giờ lớp 12A3, 12A4, 12A5 và 12D4, chúng tôi nhận thấy HS
hưởng ứng và hào hứng với nội dung bài học “Nhân vật giao tiếp”. Tuy nhiên,
trong một số tình huống học tập được GV đưa ra, một số em còn lúng túng,
chưa biết cách thực hiện hoặc chưa tìm được phương án. Đa số các em đã nắm
được kiến thức cơ bản, vận dụng nhưng việc liên kết kiến thức và kĩ năng với
nhau thì chưa thành thạo.
Việc điều tra thực tiễn dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” ở trường phổ
thông chúng tôi nhận thấy việc dạy và học theo quan điểm giao tiếp cũng đã ít
nhiều được GV áp dụng. Theo đó, HS cũng bước đầu có sự hưởng ứng, giờ học
tích cực, sôi nổi, một bộ phận HS đã làm chủ được kiến thức của bản thân. Tuy
còn một số hạn chế trong dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” nhưng chúng tôi tin
rằng với sự đổi mới phương pháp và cách thức dạy học tiếng Việt nói chung và
bài “Nhân vật giao tiếp” nói riêng thì các bài tiếng Việt sẽ trở nên lí thú, bổ ích
và bồi đắp tình yêu tiếng Việt với HS.

16



CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC DẠY HỌC BÀI “NHÂN VẬT GIAO
TIẾP” (NGỮ VĂN 12) THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
2.1. Mục đích của việc dạy học bài “Nhân vật giao tiếp”
Nhân vật giao tiếp là nhân tố quan trọng nhất đối với hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ. Theo đó, dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” có mục đích quan
trọng hoạt động dạy và học tiếng Việt ở trường phổ thông. Bởi lẽ không có
nhân vật, con người không thể tiến hành giao tiếp. Dạy học bài “Nhân vật giao
tiếp” hướng tới những mục tiêu cơ bản sau:
Về kiến thức: HS nhận biết, hiểu đúng các khái niệm NVGT với những
đặc điểm về vị thế xã hội, quan hệ thân sơ của họ đối với nhau, cùng những đặc
điểm khác chi phối nội dung và hình thức lời nói của các nhân vật HĐGT.
Về kĩ năng: Nâng cao năng lực giao tiếp của bản thân và có thể xác định
được chiến lược giao tiếp trong những ngữ cảnh giao tiếp nhất định. Phân tích
các chiến lược giao tiếp để đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp của NVGT.
Về thái độ: Có ý thức vận dụng kiến thức về NVGT trong cuộc sống
hằng ngày.
Mục đích quan trọng khi dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” là hoàn thiện,
nâng cao năng lực giao tiếp của HS; giúp các em thành thạo trong việc giao tiếp
cũng như sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, cụ thể, sáng tạo.
Dạy học bài “Nhân vật giao tiếp” gắn lí thuyết với thực hành, lí thuyết là
cơ sở, là tiền đề để thực hành, việc thực hành giúp hiệu quả hơn. Hơn nữa, dạy
học bài này nhằm phát huy cao độ chủ thể, tích cực, sáng tạo của HS, từ đó
giúp các em có các cuộc giao tiếp trong bài học hiệu quả và trong cuộc sống
sinh hoạt hàng ngày tốt hơn. Từ đó bồi đắp tình yêu tiếng Việt, bảo vệ và giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
2.2. Nguyên tắc thiết kế các hoạt động dạy học bài “Nhân vật giao tiếp”
theo quan điểm giao tiếp
2.2.1. Nguyên tắc vừa sức
Để thiết kế các hoạt động hay trò chơi cho HS trong quá trình dạy học
thì nguyên tắc đầu tiên phải căn cứ vào người học, xác định mục tiêu và nội


17


×