Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luan van thac si phuong phap van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.17 KB, 107 trang )

Trờng đại học s phạm Hà Nội
Khoa ngữ văn
**************
Lê thị thu hằng
những biện pháp tích cực hoá
hoạt động tự học của học sinh
trung học phổ thông qua giờ
học tác phẩm văn chơng
luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành: Phơng pháp dạy học Ngữ văn
Ngời hớng dẫn khoa học
Tiến sĩ Nguyễn Viết Chữ
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


Hà Nội, tháng 10/ 2009
Lời cảm ơn!
Trong quá trình triển khai thực hiện đề tài Những biện pháp tích cực hoá
hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông qua giờ học tác phẩm văn ch-
ơng, tác giả khoá luận đã thờng xuyên nhận đợc sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các
thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Phơng pháp dạy
học Ngữ văn và Tiến sĩ Nguyễn Viết Chữ ngời hớng dẫn trực tiếp.
Tác giả luận văn xin đợc bày tỏ sự biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất
tới các thầy, cô.
Rất mong sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 10 năm 2009
Tác giả luận văn
Lê Thị Thu Hằng
Lê Thị Thu Hằng
3


Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan : Luận văn thạc sĩ với đề tài Những biện pháp tích cực
hoá hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông qua giờ học tác phẩm văn
chơng là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng cá nhân
mình !
Hà Nội, tháng 10 năm 2009
Ngời cam đoan
Lê Thị Thu Hằng
Lê Thị Thu Hằng
4
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


Những chữ viết tắt trong luận văn
Giáo viên : GV
Học sinh : HS
Trung học phổ thông: THPT
Sách giáo khoa : SGK
5
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


Mục lục
Mở đầu
8
Nội dung

14
Chơng 1: Tự học và vấn đề tích cực hoá hoạt động tự
học cho HS THPT
14
1.1. Tự học
14
1.1.1. Một số quan niệm tiêu biểu về tự học
14
1.1.2. Khái niệm tự học
14
1.1.3. ý nghĩa tự học với mỗi ngời
16
1.1.4. Khả năng tự học của con ngời
17
1.1.5. Khả năng tự học của HS THPT
18
1.2. Vấn đề tích cực hoá hoạt động tự học cho HS THPT
22
1.2.1. Quan niệm về sự tích cực trong tự học của HS THPT
22
1.2.2. Tầm quan trọng của việc tích cực hoá hoạt động tự học cho HS THPT
24
1.2.3. Những điều kiện để tích cực hoá hoạt động tự học cho HS THPT
26
1.2.4. Những hoạt động dạy học nhằm tích cực hoạt động hoá tự học cho HS
THPT
28
Chơng 2: Tự học trong môn văn và việc tích cực hóa
hoạt động tự học cho HS THPT qua bài học tác phẩm
văn chơng

32
2.1. Tự học trong môn văn
32
2.1.1. Môn Văn ở nhà trờng trung học phổ thông
32
2.1.2. Tự học trong môn văn
33
2.1.3. Những thuận lợi của bài học tác phẩm văn chơng với việc tích cực hoá hoạt
động tự học cho HS THPT
38
2.1.4. Những khó khăn của bài học tác phẩm văn chơng với việc tích cực hoá
hoạt động tự học cho HS THPT.
39
2.2. Một số biện pháp tích cực hoá hoạt động tự học cho HS THPT qua bài
học tác phẩm văn chơng
4o
2.2.1. Thay đổi thói quen chuẩn bị bài trớc tiết học cho HS
4o
2.2.2. Hớng dẫn HS phơng pháp tự học tác phẩm văn chơng
43
2.2.3. Thiết kế giáo án theo hớng hình thành thói quen tự học
47
2.2.4. Tổ chức HS làm việc theo nhóm
49
2.2.5. Dạy mà học
52
6
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ



2.2.6. Hớng dẫn HS tự kiểm tra, đánh giá kết quả lĩnh hội tác phẩm
56
2.3.7. Khuyến khích và nghiêm khắc
56
3.2. Định hớng thiết kế
56
3.3. Thiết kế thể nghiệm
56
3.3.1. Chí Phèo (Nam Cao)
57
3.3.2. Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
76
Kết luận
94
Tài liệu tham khảo
95
Phần mở đầu
7
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


1. lí do chọn đề tài
1.1. Tự học là vấn đề thời sự trong xã hội và giáo dục hiện tại cũng nh tơng
lai. Đó là thói quen quan trọng với mỗi ngời để học tập suốt đời.
Trớc tình hình hội nhập quốc tế hiện nay, một yêu cầu cấp bách đặt ra với nền
giáo dục nớc ta là phải không ngừng đổi mới, hiện đại hoá nội dung và phơng pháp dạy
học. Mục đích cuối cùng là làm sao để từng cá nhân, từng công dân tự mình có ý thức
tạo đợc một cuộc cách mạng học tập (Phan Trọng Luận) trong bản thân.
Cố Thủ tớng Phạm Văn Đồng đã từng nói: Cái quan trọng nhất là rèn luyện bộ
óc, rèn luyện phơng pháp suy nghĩ, phơng pháp học tập, phơng pháp tìm tòi, phơng

pháp vận dụng kiến thức, phơng pháp vận dụng tốt nhất bộ óc của mình.. GS Phan
Trọng Luận khi chủ biên sách Phơng pháp dạy học văn cũng viết: Muốn tác phẩm
trở thành một yếu tố thực sự trong cơ chế dạy học văn, tác phẩm phải chuyển hoá từ
một tác phẩm bên ngoài thành đối tợng hứng thú, quan tâm của bản thân HS và
...Trong dạy học văn, nếu cái chủ quan của HS cha gặp cái chủ quan của nhà văn thì
cha có hiệu quả học văn. Muốn thực hiện đợc những điều trên, ta phải phát huy đợc
năng lực tự học cho các em, chúng ta phải có cách dạy khác, phải dạy cho HS biết suy
nghĩ bằng trí óc của mình (Nghiên cứu giáo dục, số 28, 1973).
Định hớng đổi mới phơng pháp dạy và học đã đợc xác định trong Nghị quyết
Trung ơng 4 khoá VII (1 1993), Nghị quyết Trung ơng 2 khoá VIII (12 1998) và
đợc cụ thể hoá trong Luật Giáo dục (12 1998) cũng nh trong các Chỉ thị của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Luật Giáo dục, điều 24.2 đã ghi: Phơng pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm từng lớp
học, môn học; bồi dỡng phơng pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
Nhà trờng phải giúp HS thay đổi t tởng và phơng pháp học tập phù hợp với yêu
cầu của thời đại ngày nay. Muốn học tập không ngừng, học tập cả đời thì phải biết cách
tự học, biết phát huy cao độ tiềm năng của bản thân. Vì vậy, tự học là một vấn đề cốt
lõi thuộc mục tiêu của giáo dục hiện đại.
Nếu chúng ta tiếp cận đợc mục đích của giáo dục ai ai cũng đợc học hành và đ-
ợc học thờng xuyên suốt đời thì nền giáo dục sẽ tạo ra đợc một nguồn sức mạnh to
8
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


lớn. Chính vì vậy, mục đích cuối cùng phải đạt của giáo dục là HS phải biết cách tự
học.
1.2. Do sự thay đổi chơng trình SGK với việc nhấn mạnh vào tự học.
Cốt lõi của cuộc cách mạng phơng pháp hiện nay là xây dựng năng lực tự học
cho ngời học. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, sự thách thức trớc nguy

cơ tụt hậu đang đòi hỏi đổi mới giáo dục, trong đó căn bản là đổi mới phơng pháp dạy
và học. Đây không phải vấn đề của riêng nớc ta mà là vấn đề đang đợc quan tâm ở mọi
quốc gia trong chiến lợc phát triển nguồn nhân lực.
Hiện nay, giáo dục nớc ta đã có một số cải cách để nâng cao chất lợng giáo dục,
trong đó có việc thay đổi chơng trình SGK. Thay vì chú trọng kiến thức, đi theo lôgic
của ngời soạn, các nhà biên soạn đã chú trọng tới hệ thống kĩ năng và logic hiểu của
HS. Cách trình bày sách và hệ thống câu hỏi đều nhằm mục đích giúp HS có thể tự học
qua việc tự đọc SGK. Giảng dạy tác phẩm văn chơng đợc thay thế bằng đọc hiểu tác
phẩm văn chơng. Chính vì vậy, dạy học văn cũng phải thay đổi phơng pháp cho phù
hợp SGK, trong đó chú trọng tới việc hình thành thói quen tự học cho HS.
1.3. HS THPT ít có thói quen tự học. Các giờ dạy học tác phẩm văn chơng
tự sự hiện đại cha phát huy đợc năng lực tự học của HS.
HS THPT cha ý thức đợc tầm quan trọng của tự học. Hiện nay, trong nhà trờng
THPT đang xảy ra thực trạng HS không hứng thú với học tập hoặc mải mê học thêm ở
ngoài, không có thời gian tự học. ở trên lớp, các em cũng bị biến thành những cái
máy nghe, không đợc tự mình tiếp cận kiến thức. Điều này là mối nguy hiểm tiềm
tàng. Nếu HS không tự học thì kiến thức cung cấp bao nhiêu cũng là vô ích.
Thực tế dạy học văn nói chung và dạy tác phẩm tự sự hiện đại nói riêng vẫn chịu
ảnh hởng nặng nề của phơng pháp giáo điều, cha phát huy đợc năng lực tự học. Dạy
học văn vẫn theo lối thuyết trình, kết quả đánh giá tuỳ thuộc vào khả năng tái hiện lợng
kiến thức nhiều hay ít theo lời thầy giảng hoặc theo SGK, khả năng độc lập, tìm tòi của
HS không có cơ hội phát triển.
ở bài học tác phẩm văn chơng tự sự hiện đại, phơng pháp thuyết trình truyền
thống vẫn chiếm đa số các bài dạy. Chính vì vậy, dẫn tới tình trạng HS thờ ơ với bài
giảng, thụ động, ngại t duy, làm mất khả năng tự học, tự nghiên cứu. Điều đó đòi hỏi
9
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


phải đổi mới phơng pháp dạy học nhằm khắc phục tình trạng thụ động trong tiếp nhận

tri thức. Làm thế nào để tiếp cận đợc mục đích của giáo dục? Làm thế nào để phát huy
hết tiềm năng, để có khả năng đối mặt đợc với nhiều tình huống và biết làm việc đồng
đội? Trớc những thách thức của thời đại làm thế nào để phát huy đợc năng lực tự học,
tự nghiên cứu của ngời học là những vấn đề cụ thể của bài toán giáo dục. [6; tr.3].
Vì vậy, đặt vấn đề hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua bài học tác
phẩm tự sự hiện đại là việc làm cần thiết, phù hợp với xu thế đổi mới phơng pháp giáo
dục. Nó đáp ứng mục tiêu giáo dục nh Nghị quyết II của Ban chấp hành Trung ơng
Đảng khoá VIII đã ghi: Đổi mới mạnh mẽ phơng pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp t duy sáng tạo của ngời học, phát triển mạnh phong
trào tự học, tự đào tạo thờng xuyên và rộng khắp trong toàn dân.
Tuy thực trạng giáo dục còn nhiều khó khăn nhng ta vẫn có nhiều tiền đề để
hiện thực hoá vấn đề luận văn đa ra. Về lí luận; tự học đã, đang đợc quan tâm nghiên
cứu. Dạy HS tự học là một phơng phơng pháp dạy học tích cực, đã xuất hiện và đợc
tổng kết ở nhiều quốc gia trên thế giới. Về thực tiễn, cả GV và HS đều tiềm tàng sự tích
cực, sáng tạo và khả năng tự học.
Nh vậy, việc rèn luyện thói quen tự học cho HS THPT qua bài học tác phẩm tự
sự hiện đại nằm trong mục tiêu của giáo dục hiện đại, đồng thời góp phần đổi mới ph-
ơng pháp dạy học văn. Từ đó, giúp HS có thói quen tự học, biết vận dụng các kĩ năng
đó vào học tập trong nhà trờng và trong suốt cuộc đời.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có nhiều tác giả, công trình nghiên cứu về vấn đề này. Điều đó chứng tỏ đây
là vấn đề quan trọng, đã đợc nhiều nền giáo dục lu tâm từ lâu.
2.1.ở nớc ngoài
Tại Cộng hoà dân chủ Đức trớc đây, nhóm tác giả do R.Retzke chủ biên đã viết
cuốn Học tập hợp lí. Trong đó, các tác giả đề cập tới vấn đề bồi dỡng năng lực tự
nghiên cứu cho HS mới vào trờng. Cũng tại đây, trong tài liệu Nghiên cứu học tập nh
thế nào, tác giả HeBơcSmit man đã trình bày một số vấn đề về phơng pháp nghiên
cứu và tự học để đạt kết quả cao. Năm 1982, Tự học nh thế nào của Rubakin
(Nguyễn Đình Côi dịch) đã ra đời. Đây là một tài liệu quý, rất có ích cho bạn đọc trong
10

Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


việc tự học tập, nâng cao kiến thức toàn diện. Sau đó ít lâu, cuốn Phơng pháp dạy và
học tập hiệu quả của Carl Rogers do Cao Đình Quát dịch đã giải đáp cho GV và HS
câu hỏi: dạy - học cái gì và dạy - học nh thế nào?
2.2. ở trong nớc
Từ năm 1973, cố Thủ tớng Phạm Văn Đồng đã nhắc nhở chúng ta: Phải suy
nghĩ, phải tìm tòi, phải sáng tạo, phải xây dựng một phơng pháp giảng dạy văn thích
hợp.... Từ đó, quán triệt cách dạy, cách học tích cực hơn, hớng về phía ngời học nhiều
hơn.
Ngày 6/1/1998, cuộc hội thảo: Nghiên cứu và phát triển tự học tự đào tạo
đợc tổ chức tại Hà Nội. Trong hội thảo này, Bộ trởng Bộ Giáo dục & Đào tạo cùng các
nhà nghiên cứu, các giáo s đầu ngành đã có những ý kiến, quan điểm nhấn mạnh tầm
quan trọng của tự học. Bộ trởng Nguyễn Thị Bình phát biểu : Năng lực tự học tự
đào tạo đều tiềm ẩn trong mỗi con ngời. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trờng lớp
với quan tâm tự học tự đào tạo thì đó là con đờng ngắn nhất để tạo ra nội lực cần thiết
cho sự phát triển một con ngời và cho đất nớc.
Ngay sau hội thảo, có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, các giáo s về vấn
đề này. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 2/1998 đã đăng tải một số bài viết trong hội
thảo nh: Tự học chìa khoá vàng của giáo dục của GS Phan Trọng Luận, Vì năng
lực tự học sáng tạo của HS của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân. Liên tiếp trong các số tạp
chí sau đó là hàng loạt các bài viết về tự học: Khơi dậy và phát huy năng lực tự học
sáng tạo của ngời học trong giáo dục và đào tạo (Thái Văn Long), Vị trí của tự học,
tự đào tạo trong quá trình dạy học, giáo dục và đào tạo (GS Trần Bá Hoành), Hồ Chí
Minh với vấn đề tự học (GS Đăng Quốc Bảo). Ngoài ra, xuất hiện một số cuốn sách đề
cập tới lĩnh vực này nh Tôi tự học (Nguyễn Duy Cần), Tự học là một nhu cầu của
thời đại (Nguyễn Hiến Lê), Luận bàn về kinh nghiệm tự học (GS Nguyễn Cảnh
Toàn). Các cuốn sách này đã đúc kết kinh nghiệm quý báu của các tác giả về tự học.
Sau khi tạp chí Tự học của trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học ra đời, có

nhiều nhà khoa học và công trình nghiên cứu đã tham gia luận bàn về vấn đề này nh:
Quá trình dạy tự học (Nguyễn Cảnh Toàn), Dạy học giải quyết vấn đề (Vũ Văn
Tảo), Phơng pháp giáo dục tích cực lấy ngời học làm trung tâm (Nguyễn Kì). Các tác
11
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


giả đã cung cấp lí thuyết về tự học, thiết kế một số bài học cụ thể, tuy nhiên các cuốn
sách còn nặng về lí thuyết mà cha đi vào biện pháp cụ thể. Năm 2002, GS Nguyễn
Cảnh Toàn cho xuất bản cuốn Học và dạy cách học nhằm cụ thể hoá lí thuyết của
cuốn Quá trình dạy tự học.
Ngoài ra, trong cuốn áp dụng dạy và học tích cực trong môn văn học, nhóm
tác giả: GS Trần Bá Hoành, TS Nguyễn Trí, PGS Cao Đức Tiến, TS Nguyễn Trọng
Hoàn đã nhấn mạnh : nội dung dạy học phải tập trung vào HS, không chỉ quan tâm tới
lí thuyết mà còn phải chú trọng các kĩ năng thực hành vận dụng kiến thức, năng lực
phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn.
GS Phan Trọng Luận cũng viết một số bài về vấn đề tự học: Tự học chuyện
cũ mà mới, Dạy cho sinh viên tự học và học sáng tạo. Các bài viết đã nêu lên sức
mạnh to lớn của tự học với mọi ngời và các biện pháp giúp sinh viên tự học.
Nh vậy, có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về tự học. Tuy nhiên, hầu hết
các bài viết đều nặng về lí thuyết, cha đi cụ thể vào tìm hiểu biện pháp giúp HS tự học
trong giờ tác phẩm văn chơng. Sau khi khảo sát các công trình nghiên cứu, chúng tôi
nhận thấy Những biện pháp tích cực hoá hoạt động tự học của học sinh trung học phổ
thông qua giờ học tác phẩm văn chơng là vấn đề mới, cha có công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu.
3. Mục đích nghiên cứu
Xác lập các hoạt động, những biện pháp tích cực hoá hoạt động tự học của học
sinh trung học phổ thông qua giờ học tác phẩm văn chơng. Qua đó, góp phần nâng cao
chất lợng dạy học văn ở nhà trờng phổ thông.
4. Phạm vi nghiên cứu

Nội dung: Những biện pháp tích cực hoá hoạt động tự học của học sinh trung
học phổ thông qua giờ học tác phẩm văn chơng.
T liệu: trong nớc
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực trạng của việc tích cực hoá hoạt động tự học
của học sinh trung học phổ thông qua giờ học tác phẩm văn chơng.
12
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


- Đề xuất biện pháp để tích cực hoá hoạt động tự học của học sinh trung học phổ
thông qua giờ học tác phẩm văn chơng.
- Thể nghiệm vận dụng các biện pháp tích cực hoá hoạt động tự học của học
sinh trung học phổ thông qua giờ học tác phẩm văn chơng.
6. Phơng pháp nghiên cứu
- Tổng hợp lí luận
- Phân tích
- Thực nghiệm
7. Đóng góp của khoá luận
Góp phần đổi mới phơng pháp dạy học văn ở trờng THPT
Chỉ ra những thao tác cụ thể để GV thực hiện những biện pháp tích cực hoá hoạt
động tự học của học sinh trung học phổ thông qua giờ học tác phẩm văn chơng.
8. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Khoá luận gồm 3 chơng:
Chơng 1: Tự học và vấn đề tích cực hoá hoạt động tự học cho HS THPT
Chơng 2: Tự học trong môn văn và việc tích cực hóa hoạt động tự học cho HS
THPT qua bài học tác phẩm văn chơng
Chơng 3: Thiết kế thể nghiệm bài học tác phẩm văn chơng
Phần Nội dung
Ch ơng 1

Tự học và vấn đề hình thành
thói quen tự học cho HS THPT
13
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


1.1. Tự học
1.1.1. Một số quan niệm tiêu biểu về tự học
Tự học là gì? Các nhà nghiên cứu: Nguyễn Cảnh Toàn, Phan Trọng Luận,
Nguyễn Trọng Hoàn,...đều cố gắng đi tìm một kiến giải thoả đáng về khái niệm này.
Nhóm 1: Có tác giả cho rằng tự học là một hình thức tổ chức dạy học. Hoạt
động tự học có thể diễn ra dới sự tổ chức, điều khiển của GV nh trong các PP dạy học
tích cực hoặc có thể diễn ra dới sự điều khiển gián tiếp của GV nh một hình thức tổ
chức dạy học trong mối quan hệ với các hình thức khác.
Nhóm 2: Có tác giả lại xem hoạt động tự học nh là một phơng thức tự đào tạo, tự
nâng cao trình độ học vấn của ngời học. PGS Lê Khánh Bằng cho rằng: Tự đi tìm lấy
kiến thức có nghĩa là tự học. TS Hà Thị Đức khẳng định: Tự học là hình thức hoạt
động cá nhân, do bản thân ngời học nỗ lực thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ học tập
trên lớp hay ngoài lớp , có thể diễn ra khi còn đang học, khi đã ra trờng và trong suốt cả
cuộc đời [14, tr.12]. TS Lê Ngọc Trà cho rằng bản chất của tự học là tự làm việc với
chính mình, nghiên cứu tài liệu, trao đổi với bạn bè, với nhóm và đợc thầy khơi gợi, h-
ớng dẫn.
Đây đều là các ý kiến đúng về khái niệm tự học. Nó cho ta cái nhìn rõ hơn về
khái niệm này để từ đó lấy làm cơ sở xây dựng phơng pháp dạy học tích cực.
1.1.2. Khái niệm tự học
Trong hệ thống ý kiến nh trên, tác giả luận văn nhất trí với hệ thống ý kiến thứ
hai. ở đó, ta xem tự học nh một phơng thức tự đào tạo. Có thể lấy ý kiến của Giáo s
Nguyễn Cảnh Toàn để chính xác hoá khái niệm này: Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, ) và có khi
cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ,

tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (nh trung thực, nhẫn nại, khách quan, có chí
tiến thủ, không ngại khó ngại khổ, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó
khăn thành thuận lợi, ) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại,
biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. [15; tr.59-60)
Nh vậy, để sử dụng hình thức tự học, ngời học chủ yếu phải tự học bằng SGK, các
tài liệu học tập liên quan và kế hoạch, điều kiện, phơng tiện của mình để đạt đợc mục
14
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


tiêu học tập. Bản chất của nó là ngời học biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào
tạo.
Tự học có những đặc điểm sau [8; tr.9]:
Tự học có tính độc lập cao và mang đậm màu sắc cá nhân
Tự học có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học
Tự học có tính mục đích
Tự học có tính đối tợng
Tự học vận hành theo nguyên tắc gián tiếp
Tự học có chu trình nh sau:
1. Tự nghiên cứu.
2. Tự thể hiện.
3. Tự kiểm tra, tự điều chỉnh.
Đây là một chu trình liên tục, diễn ra theo hình xoắn ốc mà ở đó điểm kết thúc
của chu trình này là điểm khởi đầu của chu trình khác. Sau mỗi chu trình kiến thức của
ngời học lại đợc nâng lên một tầm mới.
Tự học có các mức độ nh sau :
Mức độ 1: Có SGK và có GV giáp mặt một số tiết trong ngày, trong tuần. GV và
HS nhìn mặt nhau và có thể trao đổi thông tin trực tiếp bằng lời nói trực tiếp, chữ viết
trực tiếp ngay trên bảng, trên giấy, bằng ánh mắt, nét mặt, cử chỉ. Bằng hình thức thông
tin trực tiếp không qua máy móc, HS học giáp mặt với GV trên lớp và về nhà tự học có

hớng dẫn. Đây là mức độ tự học đơn giản nhất.
Mức độ 2: Có SGK và có GV ở xa hớng dẫn bằng tài liệu hoặc các phơng tiện
viễn thông khác. Hớng dẫn tự học chủ yếu là hớng dẫn t duy, hớng dẫn tự phê bình
trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức. Đây là tự học có hớng dẫn.
Mức độ 3: Có SGK rồi ngời đọc tự đọc lấy mà rút ra kiến thức, kinh nghiệm về t
duy. HS phải tự mình vận dụng nội lực của bản thân để giải quyết công việc học tập.
Đây là tự học ở mức độ cao nhất.
Tóm lại, tự học là hoạt động của cá nhân ngời học. Xác định rõ điều này để ta
thấy rõ hơn vai trò chủ động của ngời học. Dạy học dù có hay đến đâu cũng không thể
thay thế đợc việc tự học của học sinh. GV giỏi đến mấy cũng không thể làm hộ học
15
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


sinh. Tự học cũng là công việc khó khăn, phải trải qua nhiều mức độ, nhiều đòi hỏi.
Phấn đấu đạt đợc mức độ tự học cao nhất là mục tiêu cần đạt tới của ngời học.
1.1.3. ý nghĩa của tự học đối với mỗi ngời
Tự học có vai trò quan trọng với con ngời. Lịch sử đã chứng minh rằng có nhiều
tấm gơng thành công do tự học. Các danh nhân, nhà văn hoá, nhà chính trị, nhà khoa
học lớn thành công đều do tự học. Bác Hồ đã từng căn dặn chúng ta: Cách học tập,
phải lấy tự học làm cốt, phải biết tự động học tập . Lênin nói: Học, học nữa, học
mãi. Anhxtanh cũng nói: Kiến thức chỉ có đợc qua t duy của con ngời . Gibbon
khẳng định: Mỗi ngời đều phải nhận hai thứ giáo dục, một thứ do ngời khác truyền
cho, một thứ quan trọng hơn - do chính mình tạo lấy.
Tự học là con đờng khắc phục nghịch lí: Học vấn thì vô tận mà tuổi học đờng thì
có giới hạn. Dù cố gắng thì thời gian ngồi trên ghế học đờng cũng có giới hạn nghiêm
ngặt của nó. Không phải ai cũng có điều kiện học tập chính quy ngay lập tức. Tự học,
tự bổ túc kiến thức, cập nhật hoá thông tin là con đờng tất yếu. Nếu không tự mình sẽ
vô hiệu hoá chính mình.
Tự học là con đờng cứu giúp cho mỗi con ngời trớc mâu thuẫn giữa khát vọng

học vấn cao đẹp với hoàn cảnh ngặt nghèo của cuộc sống cá nhân. Không phải ai cũng
đợc may mắn đến trờng. Vậy họ phải lấy tự học để bù đắp. Nhiều vĩ nhân đã thành đạt
từ trong cuộc đấu tranh vơn lên bằng con đờng tự học.
Tự học là con đờng thử thách, rèn luyện và hình thành ý chí cao đẹp của mỗi ngời
trên con đờng lập nghiệp. Không ai thành đạt mà không có chí lớn. Tự học là biểu hiện
chí lớn lập nghiệp của mỗi con ngời trên con đờng hoà nhập vào cộng đồng. Có nhiều
ngời thành đạt nhờ tự học nh các giáo s, nhà giáo nhân dân Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Trí
Viễn, Lê Đình Kị, Có ng ời là giáo s danh tiếng nhng vốn liếng chỉ bắt đầu từ lớp mời.
Có ngời cha hề đi tu nghiệp tại nớc ngoài lần nào nhng kết quả tự học đã đợc nhà nớc
công nhận và phong tặng các danh hiệu cao quý.
Tự học là con đờng tạo ra tri thức bền vững cho mỗi con ngời trên con đờng học
vấn thờng xuyên của cả cuộc đời. Tâm lí học đã nhấn mạnh đến tính năng động của
chủ thể trong nhận thức hiện thực khách quan. S phạm học hiện đại cũng đề cao
nguyên lí: học là công việc của từng cá thể. Tri thức thu nhận đợc qua quá trình tự lực
16
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


t duy mới là tri thức bền vững. Quá trình tự học khác với quá trình học thụ động, nhồi
nhét kiến thức. Quá trình tự học diễn ra theo đúng quy luật của hoạt động nhận thức.
Kiến thức tự học là kết quả của sự hứng thú, tìm tòi, của lựa chọn. Kiến thức tự học bao
giờ cũng vững chắc, bền lâu, thiết thực và nhiều sáng tạo.
Tự học đang trở thành chìa khoá vàng trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay.
Tốc độ thông tin ở cấp vũ trụ, nhu cầu luân chuyển tri thức diễn ra dữ dội đòi hỏi mỗi
thành viên trong cộng đồng phải có khả năng thích ứng, hoà nhập, tự khẳng định cá
nhân trong guồng máy văn hoá, kinh doanh, lập nghiệp. Điều đó đòi hỏi mỗi thành
viên phải không ngừng tự bổ túc tri thức bằng con đờng tự học. Tự học là con đờng tự
khẳng định, là con đờng sống và thành đạt của những ai muốn vơn lên đỉnh cao trí tuệ
của thời đại thông tin siêu tốc ngày nay.
Tự học - chiếc chìa khoá vàng cần đợc mài sáng thêm trong giai đoạn công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc hiện nay. Tự học là con đờng dân chủ hoá giáo dục và
khoa học một cách có hiệu lực nhằm phát huy, tận dụng tiềm năng to lớn của mỗi
thành viên trong sự nghiệp đi nhanh, đón đầu lên đỉnh cao khoa học công nghệ hiện
đại. Muốn mỗi ngời có thể đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá thì phải huy động
tiềm năng của mỗi công dân. Tự học, tự vơn lên trong cuộc sống và hoạt động xã hội
của bản thân là con đờng tích luỹ và đầu t chất xám, trí tuệ cho sự nghiệp chung của
đất nớc trong vận hội mới ngày nay.
Tóm lại, tự học là vấn đề then chốt của giáo dục đào tạo, là vấn đề có ý nghĩa văn
hoá, khoa học, xã hội và chính trị sâu sắc.
1.1.4. Khả năng tự học của con ngời
Trong luận án: Hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua bài học văn học
sử, ThS Vũ Thị Sáu đã khẳng định: ai cũng có thể tự học có kết quả, trừ những ngời bị
khuyết tật tâm thần. Khả năng tiềm ẩn đó đã trở thành tài nguyên quý của loài ngời.
Có thể lấy nhiều ví dụ để chứng minh cho khả năng tự học của con ngời. Từ xa
ông cha ta đã có truyền thống hiếu học. Xã hội thời đó cha có các trờng chuyên nghiệp
nhng vẫn có những ngời tài thuộc đủ chuyên môn khác nhau: thầy thuốc, thầy giáo,
nhà quân sự, Họ đều thành nghề và thành tài nhờ con đ ờng tự học chứ không phải
17
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


nhờ vào lối học khoa cử thời đó. Trong số đó không ít những ngời bình thờng nh nh các
ông đồ đi thi không đỗ nên ở nhà tự học mà trở thành thầy thuốc, thầy giáo giỏi.
Thời chiến tranh, đất nớc ta chìm trong khó khăn, không có đủ thời gian và điều
kiện để đào tạo học sinh nhng chúng ta vẫn yên tâm về chất lợng HS tốt nghiệp phổ
thông. Để đạt đợc điều đó, phần lớn là do công tự học của HS.
Tự học không phải là công việc khó khăn với mọi ngời, không phải chỉ ngời tài
mới làm nổi. Bản thân mỗi con ngời khi ý thức đợc về vai trò của tự học và tự tin vào
năng lực bản thân đều có thể bắt tay vào thực hiện.
1.1.5. Khả năng tự học của HS THPT

Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả giáo trình Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí
học s phạm do Lê Văn Hồng chủ biên (NXB ĐHQGHN 2001) và Luận án Hình
thành thói quen tự học cho HS THPT qua bài học văn học sử của ThS Vũ Thị Sáu, ta
có thể khẳng định: bớc vào THPT, HS có sự nhảy vọt về tâm sinh lí. Bên cạnh sự lớn
mạnh về thể chất, các em dần phát triển hoàn thiện về năng lực trí tuệ, khả năng học
tập, khả năng tự nhận thức cũng nh tâm lí cảm thụ nghệ thuật và năng lực văn.
1.1.5.1. Năng lực trí tuệ của HS THPT
Tính chủ định phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức.
Về tri giác: đã có tính mục đích. Quan sát đã chịu sự điều khiển của hệ thống tín
hiệu thứ hai và không tách khỏi t duy ngôn ngữ.
Về ghi nhớ: ghi nhớ có tính chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ.
Vai trò của ghi nhớ trừu tợng, ghi nhớ có ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. HS đã tạo đợc
sự phân hoá trong ghi nhớ. Các em biết tài liệu nào cần ghi nhớ từng câu, từng chữ, tài
liệu nào cần hiểu mà không cần nhớ.
HS có khả năng t duy lí luận, t duy trừu tợng một cách độc lập sáng tạo. T duy
của các em chặt chẽ, có căn cứ và nhất quán hơn. Những đặc điểm đó tạo điều kiện cho
HS thực hiện thao tác t duy, nắm đợc các mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và trong
xã hội.
Tóm lại, ở HS THPT những đặc điểm chung của con ngời về mặt trí tuệ thông th-
ờng đã đợc hình thành và còn tiếp tục đợc hoàn thiện. Việc giúp HS phát triển hết khả
năng nhận thức là việc quan trọng của GV.
18
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


1.1.5.2. Đặc điểm hoạt động học tập
Hoạt động học tập của HS THPT đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ
cao hơn nhiều. Muốn nắm đợc chơng trình một cách sâu sắc đòi hỏi phải có t duy lí
luận. HS càng trởng thành, kinh nghiệm sống càng phong phú. Các em ý thức đợc rằng
mình đang đứng trớc ngỡng cửa cuộc đời. Do vậy, thái độ có ý thức của các em với

hoạt động học tập càng phát triển. Hứng thú nhận thức của HS THPT mang tính chất
rộng rãi, sâu và bền vững hơn so với HS THCS. Thái độ học tập đợc thúc đẩy bởi động
cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, ý nghĩa xã hội của môn học.
Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định của quá trình
nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của HS THPT trong hoạt động học tập.
1.1.5.3. Đặc điểm nhân cách, vốn sống
Tự ý thức phát triển.
Sự hình thành tự ý thức ở HS THPT là một quá trình lâu dài, trải qua những mức
độ khác nhau. Khi lên THPT, quá trình phát triển tự ý thức ở HS diễn ra mạnh mẽ, sôi
nổi và có tính đặc thù riêng. Các em có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm
tâm lí của mình theo quan điểm về mục đích cuộc sống và hoài bão của mình. Các em
quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lí, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng.
Đặc điểm quan trọng là sự tự ý thức của các em xuất phát từ yêu cầu cuộc sống
và hoạt động, địa vị trong tập thể, những mối quan hệ với thế giới xung quanh. Nó buộc
HS phải ý thức đợc nhân cách của mình.
Nội dung của tự ý thức cũng phức tạp. HS không chỉ nhận thức về cái tôi trong
hiện tại mà còn nhận thức về cái tôi trong xã hội, trong tơng lai. Các em có thể hiểu
mình ở những phẩm chất nhân cách bộc lộ rõ, cao hơn là những phẩm chất phức tạp,
biểu hiện những quan hệ nhiều mặt của nhân cách. HS không chỉ có nhu cầu đánh giá
mà còn có thể đánh giá sâu sắc về chính mình và ngời cùng sống.
Sự hình thành thế giới quan
Suốt thời gian học tập ở phổ thông, HS đã lĩnh hội đợc những tâm thế, thói quen
đạo đức nhất định. Dần dần, những điều đó đợc ý thức và quy định vào các hình thức,
các tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi xác định. Nhng chỉ đến giai đoạn này, khi nhân
cách đã đợc phát triển tơng đối cao thì các em mới xuất hiện nhu cầu đa những tiêu
19
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


chuẩn, nguyên tắc, hành vi đó vào một hệ thống hoàn chỉnh. Khi đã có đợc hệ thống

quan điểm riêng HS không chỉ hiểu về thế giới khách quan mà còn đánh giá đợc nó,
xác định đợc thái độ với thế giới .
Giao tiếp
Cùng với sự trởng thành nhiều mặt, quan hệ phụ thuộc vào cha mẹ đợc thay bằng
quan hệ bình đẳng, tự lập. Trong giao tiếp nhóm, HS thể hiện rõ sự mở rộng phạm vi
giao tiếp và sự phức tạp hoá hoạt động riêng của mình.
1.1.5.4. Tâm lí cảm thụ nghệ thuật và năng lực Văn
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ
Hứng thú với nghệ thuật của HS đã ổn định và sâu sắc hơn. Các em đợc tiếp xúc
với nhiều loại hình nghệ thuật. Nhu cầu thởng thức, đánh giá nghệ thuật ngày một tăng.
Năng lực cảm thụ cái đẹp của HS phát triển cao hơn và đạt đợc nhiều bớc tiến mới. HS
muốn tìm hiểu thế giới xung quanh, muốn bồi bổ phẩm chất, vẻ ngoài của mình để
mình trông đẹp hơn trong mắt ngời khác.Vì thế, trong học văn, HS THPT đã có khả
năng thởng thức, nhận biết và lí giải cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chơng. Các em
đã có sự cảm nhận riêng, đã đa ra đợc một số nhận xét độc đáo khi lĩnh hội tác phẩm
văn chơng. Nó chứng tỏ sự độc lập, nhu cầu tự khẳng định cao và sự nhạy bén khi các
em đứng trớc vẻ đẹp của tác phẩm văn chơng. Cách nhìn nhận, đánh giá về sự vật cũng
đã tinh nhạy, sâu sắc hơn. Các em đã biết đánh giá cái đẹp trong tác phẩm văn chơng ở
các mức độ nông sâu khác nhau.
Năng lực t duy văn học
HS biết phát hiện vấn đề, nhận thức, lí giải vấn đề một cách có khoa học, dựa
trên sự hiểu biết về lí luận. Các em có thể lĩnh hội các hình thức nghệ thuật ớc lệ đa
dạng, các xung đột tâm lí xã hội phức tạp, những kiểu kết cấu tinh vi. HS có thể t duy
trừu tợng, óc tởng tợng tái hiện phát triển.
Năng lực diễn đạt
Việc sử dụng ngôn ngữ của HS tiến bộ lên nhiều. Các em có thể diễn đạt những
gì mình hiểu, làm ngời khác hiểu những gì mình cần truyền đạt. Năng lực diễn đạt tốt
không chỉ giúp HS hoàn thành các bài làm văn mà còn có tác dụng trong cuộc sống và
20
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ



nhiều môn học khác. Đây là năng lực ngày càng hoàn thiện hơn trong quá trình HS tiếp
cận các tác phẩm văn chơng, trong quá trình đọc sách, tài liệu và giao tiếp.
Với những đặc điểm trên ta nhận thấy HS THPT vô cùng nhạy cảm và đang trong
thời kì hoàn thiện mọi mặt. Các em có nhu cầu cao về hiểu biết và nhận thức. Hơn nữa,
với khả năng học tập và trí tuệ nh vậy, các em hoàn toàn có thể tiến hành hoạt động tự
học, tự nghiên cứu, nhất là trong môn văn.
Tự học là khái niệm không xa lạ với mọi ngời. Đó chính là hoạt động tự lực của
cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ học tập, từ đó tạo ra bớc phát triển mới cho bản thân
mình. Bất kì ai cũng đã và sẽ trải qua việc tự học bởi tự học có ý nghĩa quan trọng với
mỗi con ngời. Kiến thức nhân loại mênh mông nhng không phải ai cũng có điều kiện
học tập chính quy. Tự học còn là con đờng chiếm lĩnh tri thức sâu sắc nhất. Hơn nữa,
trong mỗi con ngời đều tiềm tàng khả năng tự học, chỉ có điều ta có ý thức và biết vận
dụng nó không.
Với HS THPT cũng vậy. Tự học là công việc cần thiết ngay cả khi đợc học tập
chính quy. Càng luyện rèn việc tự học sớm càng tốt. Phải bỏ đi thành kiến HS THPT
cha đủ năng lực tự học, tự nghiên cứu. Đó là suy nghĩ sai lầm. Các em đã có đủ các tiền
đề tâm sinh lí để thực hiện việc tự học. Nhất là với HS ngày nay, khả năng trí tuệ, học
tập của các em đều nâng cao. Môi trờng đa thông tin cũng trợ giúp nhiều trong công
tác tự học.
Tuy vậy, có một thực tế, tiềm năng trí tuệ của HS cha đợc khai thác hết. Không
phải HS không có khả năng mà do các em cha có điều kiện để phát huy. Do đó, sinh ra
sự thiếu tự tin ở chính bản thân mình, làm cho quá trình học tập và rèn luyện năng lực
phẩm chất nhân cách của HS cha đợc nh mong muốn. Vì vậy, phải tạo điều kiện tốt
nhất để HS phát huy hết khả năng độc lập, sáng tạo của mình. HS vốn là một chủ thể
tích cực, nhanh nhạy, tự giác nên cần có sự huy động một cách có cơ sở khoa học phù
hợp với quy luật cảm thụ của văn học, những năng lực chủ quan của bản thân HS chủ
động, tích cực tham gia vào quá trình giảng dạy. Đó là công việc phù hợp với lứa tuổi
HS THPT đồng thời cũng là con đờng đổi mới phơng pháp dạy học.

1.2. Tích cực hoá hoạt động tự học cho HS THPT
1.2.1. Quan niệm về sự tích cực trong tự học của HS THPT
21
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


Đó là một loại hoạt động ổn định, trở thành nhu cầu của con ngời. Tích cực
trong tự học của HS là việc các em thờng xuyên tự mình nghiên cứu tài liệu, tự
mình phát hiện kiến thức, tự mình nắm bắt kiến thức, tự mình dàn ý hoá vấn đề, tự
mình vận dụng chuyển hoá kiến thức dới sự định hớng, điều khiển của GV. Tích
cực trong tự học là cơ sở vững chắc cho sự phát triển tự học, tự nghiên cứu suốt cả
cuộc đời với những đòi hỏi cao hơn, khắt khe hơn.
Tích cực trong tự học ở HS có những biểu hiện sau [16; tr.271]
- Các em rất chú ý học, hăng hái tham gia vào mọi hoạt động học tập tại lớp (phát
biểu ý kiến, ghi chép,...).
- Các em hoàn thành tốt bài tập đợc giao; có đọc, làm thêm các bài tập khác.
- Các em ghi nhớ tốt những điều đã học, hiểu bài, có thể trình bày lại nội dung
bài theo ngôn ngữ riêng.
- Các em hứng thú trong học tập, có quyết tâm vợt khó khăn trong học tập.
- Các em có thói quen vận dụng kiến thức vào thực tiễn và tỏ ra sáng tạo trong
học tập.
Về mức độ tích cực tự học của HS, ta có thể dựa vào những biểu hiện sau:
- HS tự giác học tập chứ không phải bị ép buộc bởi các nhân tố khác: gia đình,
bạn bè, xã hội,...
- Thực hiện yêu cầu của GV bằng hết khả năng.
- Sự tích cực học tập thờng xuyên, liên tục, ngày càng theo xu hớng tăng dần.
- HS có nghị lực trong học tập, tỏ ra kiên trì, vợt khó.
Muốn hình thành đợc sự tích cực trong tự học cho HS cần phải trải qua một quá
trình lâu dài với sự tác động của nhiều yếu tố cả nội và ngoại lực. Phải luyện tập một
cách từ từ. Không thể mong ngay lập tức HS đã có những biểu hiện tự học nh trên. Mỗi

biểu hiện đều cần một quá trình rèn luyện. Do vậy, GV phải có một kế hoạch lâu dài và
toàn diện khi phối hợp hoạt động gia đình, nhà trờng, xã hội. Bản thân HS cũng nên
xác định cho mình một thái độ học tập tích cực. Coi hình thành đợc thói quen tự học
cho HS là kết quả, mục tiêu của việc đào tạo. Có nh vậy, việc học tập, giảng dạy mới
không rơi vào sự gò ép.
Có thể mô hình hoá quá trình tự học của HS nh sau [11; tr.84]
22
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


Sơ đồ cấu trúc quá trình học tập
1.2.2. Tầm quan trọng của việc tích cực hoá hoạt động tự học cho HS THPT
Tự học có vai trò quan trọng với việc hình thành kiến thức, lối sống cho HS.
Tự học sẽ tạo ra một nhịp sống mới cho HS. Trong tự học, tính độc lập của HS sẽ
đợc phát huy cao độ. Quá trình tìm tòi tri thức sẽ lôi cuốn HS, tạo cơ sở cho HS làm
chủ đợc tri thức, lối sống và hành vi của mình. T duy của HS sẽ đợc phát triển theo
chiều hớng tốt. HS đợc lôi cuốn vào niềm đam mê khám phá, phát hiện và sáng tạo. Từ
hạnh phúc vì phát hiện ra chân lí các em sẽ thay đổi thói quen ỷ lại. Tự học giúp HS
phân bố thời gian làm việc hợp lí, tạo điều kiện để làm việc khoa học và sống có ích
hơn.
Tự học sẽ hình thành ở HS một phong cách lao động tốt. Thế kỉ XXI là thế kỉ của
nền công nghệ thông tin. Nếu HS không thích ứng với nhịp sống của xã hội, không đáp
ứng đợc yêu cầu của xã hội về phân bố nhân lực thì sẽ bị đào thải. Biết cách tự học, HS
sẽ rèn đợc thói quen làm việc độc lập, khoa học làm tiền đề cho công việc lao động mai
sau. HS sẽ hình thành phong cách lao động tự chủ, quyết đoán, tự tin trong suy nghĩ,
làm việc, sáng tạo - một phong cách của con ngời lao động hiện đại.
Tự học sẽ tạo bớc đệm cho nghề nghiệp và sự hoà nhập trong tơng lai. Theo thống
kê, trong 10 năm trở lại đây, trên 80% HS THPT khá giỏi đều vào các trờng đại học và
sẵn sàng đơng đầu với những khó khăn trên con đờng lập nghiệp. Những HS ngay từ
khi học phổ thông đã biết tự học chắc chắn sẽ thành đạt hơn trong cuộc sống. Thực tế

đã chứng minh không ít những tấm gơng thành đạt đều biết nghiên cứu từ những năm
còn thơ ấu.
Tự học góp phần thể hiện nhân cách trởng thành và tính độc lập, tự chủ cao trong
học tập của HS THPT. Việc phát triển năng lực học tập, năng lực t duy cho HS THPT là
vấn đề đáng quan tâm ở mọi quốc gia. Trong điều kiện và hoàn cảnh hiện nay học tập
bằng phơng pháp ghi nhớ và tái hiện tỏ ra không còn hiệu quả cao nữa. Tính độc lập,
sáng tạo của HS không đợc kích thích, khơi gợi. Cần phải có một cách thức đào tạo
khác để phát huy sự chủ động của HS, tự học là một trong những cách đó. Vào thế kỉ
23
Hoạt động nhận thức
Kết quả của hoạt
động nhận thức
Lời nói sinh
động của GV
Thực hiện công
tác thực hành và
làm thí nghiệm.
SGK
Tài liệu khoa
học.
Hoạt động lao
động
Thái độ với việc học
tập (hứng thú, tinh
thần trách nhiệm)
Sự chú ý có tính chủ
định,lòng ham hiểu
biết, say mê.
Hoạt động trí tuệ:
Lĩnh hội tài liệu.

Thông hiểu tài liệu.
Ghi nhớ kiến thức.
Luyện tập,vận dụng
kiến thức vào thực
tiễn.
Ôn tập,khái quát hoá,
hệ thống hoá kiến
thức đã học.
Tự kiểm tra
Biểu tượng
Thông hiểu
Nắm vững sự kiện,
khái niệm.
Hình thành kĩ năng,
kĩ xảo, thói quen.
Hệ thống hoá kiến
thức.
Phát hiện mức độ
nắm vững kiến thức
Sự phát triển của HS:
Hình thành quan điểm, niềm tin
Phát triển năng khiếu, thiên tư
Nguồn kiến thức
ttttttttttttttttttttttthức
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


XXI , cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ phát triển cha từng thấy. Muốn
thích nghi với hoàn cảnh xã hội mới, con ngời không thể hạn chế sự học trong phạm vi
trờng học. Thời gian học ở lớp, ở trờng bao giờ cũng có hạn trong khi tri thức thì vô

tận. Giải quyết mâu thuẫn này không có cách nào khác là phải tự mình học kiến thức,
cách học. Jean Piaget đã chỉ rõ: Mục đích của tự chủ trí tuệ không phải là biết nhắc lại
hay bảo tồn những chân lí đã có. Vì một chân lí mà ngời ta tái xuất chỉ là một nửa chân
lí. Đó là phải học cách chiếm lĩnh bản thân mình cái chân lí đó. Việc chú trọng đến
vai trò của HS chính là đổi mới phơng pháp dạy học theo hớng tiến bộ . Cố Thủ tớng
Phạm Văn Đồng đã từng căn dặn: Chơng trình SGK phải đảm bảo dạy cho HS những
nguyên lí cơ bản, toàn diện về các mặt đức dục, trí dục, mĩ dục, đồng thời tạo cho các
em điều kiện phát triển óc thông minh, khả năng độc lập suy nghĩ sáng tạo. Coi trọng
yếu tố con ngời tức là ta đã đề cao sức năng động, sáng tạo của tuổi trẻ. Tự học còn là
con đờng, là hành trang gắn liền với sự phát triển nhân cách của mỗi con ngời, đặc biệt
với HS THPT.
Tác phong nghiên cứu của HS THPT sẽ tạo nên sự nhịp nhàng, đồng bộ để đổi
mới triệt để phơng pháp dạy học theo nguyên tắc s phạm hớng vào ngời học. Muốn đổi
mới phơng pháp dạy thì phải đổi mới phơng pháp học của HS. Bên cạnh việc thụ hởng
sự giáo dục, hớng dẫn của thầy cô giáo, HS phải nỗ lực vợt bậc trong việc tiếp nhận
kiến thức. Nó không nằm ngoài khả năng tìm tòi, sáng tạo của HS. Đó có thể chỉ là các
thao tác giản đơn nhằm khắc sâu kiến thức nh su tầm tài liệu, so sánh đối chiếu hay từ
những vấn đề cụ thể mà rút ra ý nghĩa, bản chất của sự vật, hiện tợng. Học sinh ngày
nay rất năng động, lại thêm sự hỗ trợ của công nghệ thông tin làm khả năng tự học của
HS đợc nâng cao. Sự đổi mới phơng pháp hai chiều sẽ kích thích quan hệ tơng tác giữa
GV và HS để xác định sự phù hợp, tơng ứng của hành động. Quá trình dạy học còn là
quá trình nhận thức. Đổi mới phơng pháp không thể tách rời nội dung tri thức. Vận
dụng linh hoạt cách thức tự học để tìm hiểu nội dung tri thức sẽ giúp HS có cái nhìn
toàn diện hơn về giá trị của nó.
Tóm lại, hình thành thói quen tự học cho HS có vai trò to lớn về nhiều phơng
diện. Nó không chỉ giúp HS tiếp thu kiến thức tốt hơn, hình thành phong cách sống
năng động mà còn giúp đổi mới phơng pháp dạy học theo nguyên tắc hớng vào HS.
24
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ



1.2.3. Những điều kiện để tích cực hoá hoạt động tự học cho HS THPT
1.2.3.1. Xây dựng một môi trờng tự học hợp lí
Tại nhà, HS phải sắp xếp cho mình một không gian tự học riêng. Tốt nhất là học
tại phòng riêng, nếu không ít nhất HS cũng phải có góc học tập cá nhân. Góc học tập
phải yên tĩnh, tránh xa mọi yếu tố gây nhiễu nh: truyền hình, ca nhạc, điện tử,... để HS
tập trung cao nhất vào việc tự học. Góc học tập nên đầy đủ phơng tiện học tập và bài trí
gọn gàng, đơn giản. Có đợc môi trờng nghiên cứu khi làm việc độc lập ở nhà, HS sẽ
có điều kiện thả mình trong những phút giây tởng tợng, liên tởng, có thời gian so sánh
đối chiếu giữa văn bản này với văn bản khác để tìm ra những kiến giải hợp lí. [9;
tr.85].
Tại trờng THPT, GV phải tạo đợc môi trờng, không khí tự học trong mỗi giờ
học, mỗi HS. Môi trờng này có đợc do công sức đóng góp của cả GV và HS trong quá
trình học tập. HS sẽ đợc làm quen với phong cách học tập tự lực và cách phơng pháp tự
học. Các em có thể trao đổi kiến thông tin cần thiết với nhau hoặc với GV, cao hơn là
việc trình bày kết quả tự học của mình trớc bạn bè, GV. Đây là công việc khó khăn,
cần có thời gian lâu dài để tiến hành nhng nó vô cùng cần thiết với việc hình thành thói
quen tự học cho HS. Nếu GV có ý thức, nỗ lực liên tục ngay trong từng hoạt động nhỏ,
môi trờng tự học cho HS tại nhà trờng sẽ hình thành.
1.2.3.2. Sử dụng thời gian hợp lí cho tự học
Tại nhà, HS nên sắp xếp khoảng thời gian phù hợp cho việc tự học. Việc đi học
thêm ở ngoài không thể thay thế đợc tự học, thậm chí nó còn phản tác dụng nếu HS học
quá nhiều, không chú ý tới tự học. Bản thân HS cũng phải có ý thức xây dựng cho mình
thời gian biểu hợp lí và có ý thức tự học. Các em có thể làm việc độc lập với SGK, sách
tham khảo, tìm hiểu trớc những vấn đề liên quan tới văn bản sắp học nh: cuộc đời tác
giả, hoàn cảnh sáng tác, đề tài nhân vật,... Nếu biết sử dụng thời gian tự do vào chuẩn
bị bài, ôn bài, nghiên cứu thì HS sẽ nhận đợc những thông tin bổ ích có lợi cho quá
trình học tập lâu dài, hình thành thói quen tự học đồng thời thấy say mê môn văn hơn.
Tại nhà trờng, GV nên tạo ra những khoảng thời gian rỗng cho HS nghiên cứu.
Thời gian ấy có thể chỉ là 5 đến 10 phút trớc khi vào bài mới. Song cũng có thể là 15

phút để HS giải quyết những câu hỏi hớng dẫn tự học của GV. Thời gian cho công việc
25
Lê Thị Thu Hằng Luận văn thạc sĩ


nghiên cứu có thể đợc GV đan cài trong giờ đọc văn cụ thể với các phơng pháp dạy học
khác. Nhiều khi đứng trớc một tình huống có vấn đề, GV có thể dừng lại để nêu vấn đề
và yêu cầu HS suy nghĩ giải quyết. Nếu vấn đề khó, GV có thể gợi ý cho HS về nhà tự
giải quyết. [9; tr.86].
1.2.3.3. Kết hợp điều độ giữa học tập và nghỉ ngơi
Bộ óc của HS không phải là cái máy tính để GV nạp dữ liệu liên tục. Hiện tợng
HS học quá tải còn diễn ra quá nhiều. Khi phải chịu sức ép lớn của thi cử, học hành, HS
không thể có niềm say mê học tập, thậm chí học tập với HS trở thành cơn ác mộng.
Có học tập phải có nghỉ ngơi. Khi học nên tập trung hết sức để đạt hiệu quả cao nhất,
sau đó nghỉ ngơi thoải mái, không lo lắng tới bài học nữa. Học ra học, chơi ra chơi là
cách sống và làm việc hiệu quả, khoa học nhất.
HS có thể kết hợp điều độ giữa học tập và nghỉ ngơi qua việc cân bằng giấc ngủ,
bằng các hoạt động vui chơi giải trí hay thay đổi các hoạt động trí tuệ. Vấn đề này có
liên quan tới quá trình chăm sóc sức khoẻ cho HS tại gia đình đồng thời là sự tiếp cận
sinh tồn đối với giáo dục.
1.2.3.4. GV phải là ngời có năng lực hớng dẫn, nhận xét và thẩm định kết quả tự
học của HS
Nhà trờng và GV có nhiệm vụ thông qua giáo dục đánh thức các tiềm năng của
HS, khơi dậy, phát triển cái nội lực đó. GV phải dạy cho HS từng bớc tự học, tự đọc
sách, tìm tòi, tra cứu,phát hiện cái mới. Thông qua sự hớng dẫn của GV, HS sẽ phát
huy tính tích cực, chủ động của mình để tiếp nhận tri thức và phát triển nhân cách cho
phù hợp thời đại. Xã hội Việt Nam đang có những sự chuyển mình. Nhiều vấn đề,
nhiều kiến thức, nhiều quan niệm mới hôm qua còn đợc chấp nhận, hôm nay đã có thể
không còn thích hợp nữa. Trong lúc đó, mục tiêu giáo dục không phải chỉ nhằm đào tạo
nghề nghiệp trớc mắt cho con ngời mà phải đào tạo con ngời thích ứng linh hoạt với

những hoàn cảnh, nghề nghiệp, những công việc luôn thay đổi sau này. Đó chính là
những con ngời thạo việc, năng động, sáng tạo, biết lo cho bản thân, biết cống hiến cho
cộng đồng. [9; tr.89]. Những con ngời năng động, sáng tạo đó là sản phẩm của các
GV có năng lực chuyên môn và phẩm chất tốt đẹp. GV phải giữ vai trò định hớng, đề
26

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×