Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4 0 đến tình trạng thất nghiệp của việt nam (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.25 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
---------***--------

TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ 2

TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
ĐẾN TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP CỦA VIỆT NAM HIỆN
NAY

Nhóm: 5
Lớp: KTE402.1
Khóa: 56
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Hồng

Hà Nội, tháng 3 năm 2019

1


DANH MỤC BẢNG BIỂU

2


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Khoa học và công nghệ là một bộ phận nguồn lực không thể thiếu trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội, thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo cả chiều rộng và chiều sâu. Ngày nay, khoa
học công nghệ ngày càng tiến bộ và phát triển với tốc độ vũ bão từ đó cũng tạo ra cơ hội lớn để


đem lại đột phá cho nền kinh tế, xã hội của đất nước. Chúng ta đang đứng trước thềm một cuộc
cách mạng sẽ làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc, và liên hệ với nhau. Chúng ta
vẫn chưa nắm bắt được đầy đủ tốc độ và phạm vi ảnh hưởng của cuộc cách mạng mới này. Khả
năng hàng tỷ người được kết nối thông qua các thiết bị di động vốn sở hữu những tính năng chưa
từng có trong tốc độ xử lý, dung lượng lưu trữ và tiếp cận các kiến thức là không giới hạn. Hoặc
nghĩ về sự hội tụ đáng kinh ngạc của những đột phá công nghệ mới nổi, bao gồm các lĩnh vực
trên quy mô rộng lớn có thể kể đến như trí thông minh nhân tạo (AI), rô bốt, mạng lưới vạn vật
kết nối internet (Internet of things – IOT), các phương tiện không người lái, công nghệ in 3D,
công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và máy tính lượng tử.
Cuộc cách mạng đã, đang và sẽ tác động không ngừng đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam và đặc
biệt là ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn nhân lực của Việt Nam.
Một Việt Nam với ưu thế lao động rẻ, dồi dào sẽ không còn là lợi thế cạnh tranh trong thời
đại công nghệ số nữa. Chính vì thế vấn đề đặt ra là làm sao để hạn chế tác động làm tăng tỷ lệ
thất nghiệp hiện nay cũng như lối thoát nào cho hàng loạt lao động tay nghề thấp bị sa thải khi có
sự xuất hiện của máy móc công nghệ hiện đại? Vì vậy nhóm lựa chọn đề tài: “ Tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến tình trạng thất nghiệp của Việt Nam hiện nay” với mong
muốn đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và
nâng cao chất lượng lao động.

3



CHƯƠNG 1. KHÁI
QUÁT CHUNG VỀ
CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0
1.1. Sự ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Trải qua chiều dài lịch sử, nhiều cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) trên thế giới
đã tạo ra những thay đổi sâu sắc trong sản xuất, tiêu dùng và kết cấu xã hội. Từ trước tới

nay, thế giới đã chứng kiến 3 cuộc CMCN lớn. CMCN lần thứ nhất diễn ra tại Vương quốc
Anh vào cuối thế kỷ XVIII, khi phát minh ra động cơ hơi nước và ứng dụng vào việc cơ
giới hóa các ngành sản xuất. CMCN lần thứ hai bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX ở khu vực
châu Âu và Bắc Mỹ khi năng lượng điện được sử dụng để sản xuất hàng loạt với quy mô
lớn. CMCN lần thứ ba bắt đầu khoảng thập kỷ 70 của thế kỷ XX ảnh hưởng rộng lớn trên
toàn cầu cùng với sự phát triển của máy tính, các thiết bị điện tử và công nghệ thông tin
được sử dụng để tự động hóa sản xuất.
Tới ngày nay, Cuộc CMCN lần thứ 4 (The Fourth Industrial Revolution) đang được
hình thành trên nền tảng của CMCN lần thứ 3, đó là cuộc cách mạng số, đã bắt đầu xuất
hiện từ giữa thế kỷ trước. Cuộc cách mạng này có đặc trưng là sự kết hợp các công nghệ
giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học. Các công nghệ số với
phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên ngày càng phức tạp hơn,
được tích hợp nhiều hơn và vì vậy đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế toàn cầu.
Công nghiệp 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ
thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; với những công nghệ đang và sẽ
có tác động lớn như công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công
nghệ tự động hóa, robot…

1.2. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến nền kinh tế
Đặc trưng lớn nhất của công nghiệp 4.0 là tính kết nối giữa các chủ thể và chu trình
kinh tế nhờ vào sự phát triển của hạ tầng công nghệ thông tin và Internet, mà đỉnh cao là
mạng lưới vạn vật kết nối.
Tính kết nối này đang tạo ra một xu hướng mới thường được gọi với khái niệm
“kinh tế chia sẻ”. Theo đó, các mô hình chia sẻ nguồn lực trực tiếp giữa cá nhân với cá
nhân được hiện thực hóa nhờ nền tảng công nghệ thông tin và Internet, hướng tới mục tiêu
tối ưu hóa nguồn lực toàn xã hội.
Nói một cách khác, công nghiệp 4.0 đang xóa nhòa khoảng cách giữa thế giới thực
với thế giới ảo thông qua các công nghệ tiên tiến, sự đổi mới, sáng tạo không ngừng.

5



Đặc biệt, mức độ ảnh hưởng, lan tỏa của cuộc cách mạng này diễn ra trên quy mô
toàn cầu, với tốc độ nhanh hơn những gì đã xảy ra từ trước đến nay và dự báo sẽ làm thay
đổi toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị trên toàn thế giới.
Nó sẽ mang đến cơ hội tốt để Việt Nam bứt phá nhưng cũng là thách thức làm chủ
công nghệ - một thách thức không nhỏ đối với toàn bộ nền kinh tế.

1.2.1. Cơ hội
Theo PGS.TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, công nghiệp 4.0
sẽ giúp các doanh nghiệp tăng năng suất, tính linh hoạt và hiệu quả, rút ngắn thời gian đưa
sản phẩm ra thị trường, từ đó tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Cùng với đó,
người tiêu dùng sẽ có được lợi ích từ việc tiêu dùng các sản phẩm chất lượng cao hơn, giá
cả cạnh tranh hơn và đặc biệt là được cá nhân hóa theo ý muốn.
CMCN 4.0 cũng đang mang lại cơ hội cho nền kinh tế số, sản xuất và dịch vụ thông
minh, các loại hình nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, dịch vụ tài chính - ngân
hàng, logistic thông minh... giúp tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí quản lý, chi phí
sản xuất, mang lại lợi ích to lớn cho Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Nổi bật gần đây là quy định xóa bỏ sổ khám bệnh giấy và thay bằng sổ khám bệnh
điện tử hay ích lợi rõ rệt từ việc áp dụng khai bảo hải quan đện tử không chỉ giảm thời gian
khai báo xuất nhập khẩu từ mà còn giúp giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp…
CMCN mới mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ,
năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu; tạo ra sự thay đổi lớn về mô
hình kinh doanh bền vững hơn và cơ hội cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; mang
lại tiềm năng cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hóa bằng
cách đi tắt, đón đầu, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao hơn. Đồng thời nó cũng mở ra
cơ hội cho Việt Nam để phát triển mở rộng các ngành nghề ứng dụng khoa học công nghệ
cao đặc biệt là các kĩ sư thông tin…

1.2.2. Thách thức


Mỗi cuộc chuyển đổi cách mạng công nghiệp đều đặt ra yêu cầu phải thay đổi kỹ
năng để đáp ứng điều kiện làm việc mới và cuộc cách mạng 4.0 cũng không phải ngoại lệ.

6


Tuy nhiên, nếu không có cách tiếp cận đúng và bắt kịp nhịp độ phát triển của thế giới
và khu vực, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về công nghệ, tình
trạng dư thừa lao động kỹ năng thấp và sự bất bình đẳng trong xã hội.
Bên cạnh đó, sự liên kết và gắn kết trong thời đại CMCN 4.0 dẫn tới vấn đề biên giới
mềm, quyền lực mềm, vấn đề an ninh không gian mạng và an ninh phi truyền thống, tội
phạm công nghệ cao xuyên quốc gia, từ đó đòi hỏi cần có sự ứng phó chủ động và kiểm
soát tốt để bảo đảm chủ quyền và an ninh cho người dân và đất nước.
CMCN 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam
cần phải có những đổi mới mạnh mẽ: Xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ cho nền
kinh tế số, các mô hình sản xuất và dịch vụ thông minh; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ,
giải pháp về quản trị công quốc gia và phát triển các mô hình sản xuất, dịch vụ thông minh;
phát triển cơ sở hạ tầng kết nối số; đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao; cải
cách hành chính; nâng cao năng lực cạnh tranh...

CHƯƠNG 2.

TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG

NGHIỆP 4.0 ĐẾN TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam
2.1.1. Quy mô thị trường lao động
Theo báo cáo điều tra Lao động việc làm quý 2/2018 của Tổng cục Thống kê, dân

số từ 15 tuổi trở lên ước tính đạt gần 72,5 triệu người, trong đó hơn 55,1 triệu người thuộc
lực lượng lao động (số này không bao gồm người Việt Nam sống ở nước ngoài trong giai
đoạn tham chiếu điều tra).
Đến quý 2 năm 2018, cả nước có trên 54,0 triệu lao động có việc làm và khoảng
1,10 triệu lao động thất nghiệp. Nếu dựa theo số giờ làm việc, cả nước đã có hơn 743,8
nghìn lao động thiếu việc làm. Số lao động thiếu việc làm giảm nhưng không đáng kể so
với quý trước, (khoảng - 45,1 nghìn người). Trong đó, 84,4 % lao động thiếu việc làm hiện
sinh sống ở khu vực nông thôn.
Trong quý 2 năm 2018, tỷ lệ thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên là 2,0%. Trong đó, tỷ lệ
thất nghiệp thành thị đứng ở mức 2,95%, cao hơn 1,4 điểm phần trăm so với khu vực nông
thôn (1,54%). So với quý 1 cùng năm, khác biệt thành thị nông thôn về tỷ lệ này có xu
hướng tăng thêm.

7


Tỷ lệ thất nghiệp thanh niên 15-24 tuổi gần như không thay đổi so với quý 1 năm
2018 (hiện đạt 7,10% so với 7,07% theo tuần tự). Số lao động thất nghiệp thanh niên hiện
đã chiếm tới 46,5% tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Trong đó, tỷ trọng khu vực thành
thị thấp hơn khu vực nông thôn (41,6% và 58,4%). Lao động thanh niên thiếu việc làm
chiếm 20,8% (tương đương 154,4 nghìn thanh niên) trong tổng số lao động thiếu việc làm
cả nước.

8


Hình 1. Phân bố phần trăm lực lượng lao động phân theo nhóm tuổi và thành thị/
nông thôn quý 2/2018

Hình 2. Tỷ lệ thất nghiệp theo quý năm 2017 và 2018

(Tổng hợp từ Báo cáo Lao động việc làm của Tổng Cục Thống kê quý 2/2018)
Tuy nhiên bên cạnh lực lượng lao động đã qua đào tạo, nguồn nhân lực chưa qua
đào tạo chiếm một tỷ lệ khá cao (78%). Đây thực sự là rào cản, hạn chế lớn của nhân lực
Việt Nam trong cuộc CMCN 4.0 này. Đồng thời, những hạn chế này đã đưa đến nhiều hệ
lụy khác như năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh cũng như giá trị nguồn nhân
lực Việt Nam trên thị trường lao động không cao.

9


Hình 3. Tỷ lệ lực lượng lao động Việt Nam năm 2017 phân theo trình độ chuyên môn
kỹ thuật
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Điều tra Lao động việc làm 2017)

2.1.2. Chất lượng lực lượng lao động
Lao động hiện nay của chúng ta mới chỉ tập trung vào các phân khúc lao động phổ
thông, lao động bậc thấp và bậc trung. Do đó, ở từng nhóm ngành cụ thể vẫn thiếu hụt lao
động chất lượng cao, bản thân các doanh nghiệp cũng phải cạnh tranh gay gắt để thu hút
lao động. Đơn cử như những ngành liên quan đến công nghệ thông tin, công nghệ cao,
công nghệ sạch, công nghệ xanh, công nghệ tái tạo vẫn đang “khát’ nhân lực ở phân khúc
cao. Theo như dự báo, trong vòng 5 năm tới, nước ta sẽ thiếu hụt lượng lớn lao động về
công nghệ thông tin (CNTT), chuyên viên cấp cao khi nguồn nhân lực trong nước mới chỉ
đáp ứng được từ 60-70% nhu cầu của thị trường. Trong báo cáo về mức độ sẵn sàng cho
nền sản xuất trong tương lai do Diễn đàn Kinh tế Thế giới mới đây công bố, Việt Nam
thuộc nhóm các quốc gia chưa sẵn sàng cho cuộc CMCN 4.0, chỉ xếp thứ 70/100 về nguồn
nhân lực và 81/100 về lao động có chuyên môn cao.
Trong 1 số lĩnh vực như tài chính ngân hàng, kiểm toán, nhà hàng khách sạn, chúng
ta cũng vẫn đang rất thiếu đội ngũ chuyên viên cấp cao, CEO, nhà quản lý, phải thuê lao
động nước ngoài. Một số ngành nghề hiện nay có nhu cầu lớn nhưng các trường trong
nước lại chưa thể đào tạo như tự động hóa về máy học, xử lý số lớn…

Theo “Báo cáo Lao động và việc làm” quý 2/2018 của Tổng cục Thống kê, kết quả
điều tra Lao động việc làm cho thấy, chỉ có 3,0% trong tổng số hơn 11,75 triệu lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật - CMKT (bao gồm cả đào tạo chuyên nghiệp và nghề từ 3
tháng trở lên) đã coi công việc hiện tại là tạm thời. Thêm vào đó, 5 ngành/nghề đào tạo của
người lao động có trình độ CMKT khi đánh giá công việc hiện tại là việc làm tạm thời theo
thứ tự chiếm tỷ trọng cao nhất là Kinh doanh và quản lý – 20,5%, Khoa học giáo dục và

10


đào tạo giáo viên – 20,0%, Công nghệ kỹ thuật -14,3%, Sức khỏe – 9,3% và Dịch vụ vận
tải – 7,7%.

2.2. Tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới nguồn nhân lực Việt Nam
2.2.1. Thách thức dư thừa đối với lao động phổ thông có trình độ chuyên môn
thấp
Theo các chuyên gia kinh tế, cách mạng công nghệ 4.0 sẽ khiến lực lượng lao động
trẻ dồi dào, chi phí thấp của Việt Nam không còn là ưu thế. Thậm chí, 86% lao động của
một số ngành sẽ có nguy cơ mất việc làm.Những ngành nghề bị tác động nhiều nhất
thường là những ngành thâm dụng lao động như dệt - may, da - giày, công nhân trong các
nhà máy, nhân viên thu ngân...
Việt Nam đang ở thời kỳ “dư lợi dân số” hay “dân số vàng”, với hơn 50% dân số
trong độ tuổi lao động, nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp. Trong báo cáo năng lực
cạnh tranh toàn cầu 2015 - 2016, các chỉ số cấu phần liên quan tới đổi mới sáng tạo như:
năng lực hấp thụ công nghệ, mức độ phức tạp của quy trình sản xuất, chất lượng của các tổ
chức nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo sau cấp phổ thông, đều ở thứ hạng thấp.
Lao động Việt Nam thiếu chuyên môn, chưa được đào tạo, các kỹ năng được trang
bị không phù hợp với đòi hỏi của thị trường và nhiều lao động phải đào tạo lại. Nhân sự
cao cấp của Việt Nam so với các nước trong khu vực vẫn còn khoảng cách khá lớn. Trình
độ lao động của Việt Nam còn hạn chế về kỹ năng nghề đang gây khó khăn trong việc tiếp

thu ứng dụng, trình độ khoa học công nghệ khi tham gia hội nhập.
Nghiên cứu của Đại học Oxford và Tập đoàn tư vấn McKensey đã đưa ra dự báo
50% công việc tại các nước phát triển sẽ được thay thế bởi các quy trình tự động hóa trong
15 năm tới. Tỷ lệ này sẽ còn cao hơn ở các nước đang phát triển như Việt Nam, vì giá trị
gia tăng của lực lượng lao động trong nước hiện rất thấp so với mức trung bình của thế
giới. “Những ưu thế về lực lượng lao động trẻ dồi dào và chi phí thấp của Việt Nam sẽ
không còn là thế mạnh”.
Ngoài những tác động đa chiều, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách
mạng công nghiệp 4.0) đã, đang làm thay đổi nhanh chóng cơ cấu lao động và thị trường
lao động. Các hệ thống tự động hóa sẽ thay thế dần lao động thủ công trong toàn bộ nền
kinh tế, máy móc và trí tuệ nhân tạo thay thế sức người, nhu cầu sử dụng nhân lực trình độ
cao tăng lên trong khi nhu cầu sử dụng lao động kỹ năng thấp ngày càng giảm. Điều này sẽ
tạo áp lực lớn đối với thị trường lao động, các quốc gia đang phát triển sẽ đối mặt với tình
trạng dư thừa lao động và gia tăng thất nghiệp. Theo dự báo, “trong một số lĩnh vực, với sự
xuất hiện của rô-bôt, số lượng nhân viên sẽ giảm đi còn 1/10 so với hiện nay, theo đó, 9/10
nhân lực còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Lao động giá rẻ không còn là lợi
thế cạnh tranh của các thị trường mới nổi ở khu vực Mỹ La-tinh và châu Á. Đặc biệt, cuộc

11


cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động trình độ thấp
mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được
trang bị những kỹ năng mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0.

2.2.2. Thách thức thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, nhạy bén với sự
phát triển không ngừng của công nghệ
CMCN 4.0 yêu cầu nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao, trong khi đó,
nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam hiện nay lại thiếu hụt cả về số lượng và kỹ
năng tay nghề. CMCN 4.0 là cuộc cách mạng số nhưng nhân lực chất lượng cao trong các

ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật máy tính, tự động hóa… của Việt Nam đang quá ít.
Theo tính toán của các chuyên gia, nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin tăng thêm 47%
mỗi năm, trong khi đó số sinh viên ngành công nghệ thông tin ra trường lại chỉ tăng
8%/năm. Trong số nhân lực ấy, không phải tất cả đều có chất lượng cao, đáp ứng được yêu
cầu của nhà tuyển dụng. Một nghiên cứu mới đây cho thấy, có tới 72% số sinh viên ngành
công nghệ thông tin không có kinh nghiệm thực hành, 42% số sinh viên thiếu kỹ năng làm
việc nhóm.
Tại một số diễn đàn, hội thảo về CMCN 4.0 và nguồn nhân lực mới nhất, không ít
doanh nghiệp phàn nàn đang gặp khó khăn trong khâu tuyển dụng hoặc lao động được
tuyển vào không đáp ứng được yêu cầu công việc mà phải qua đào tạo, tập huấn tại doanh
nghiệp. Thống kê mới nhất cho thấy, trong 350 trường đại học ở Việt Nam, chỉ có 12
trường có nhóm giảng viên được trang bị kiến thức giảng dạy bằng phương pháp STEM
(tức là trang bị cho người học những kiến thức, kỹ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh
vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học). Điều đáng nói, trong số 12 trường đại học
có nhóm giảng viên được trang bị kiến thức giảng dạy bằng phương pháp STEM không
phải trường nào cũng đào tạo được đầy đủ và đúng quy trình để có được nguồn nhân lực đã
được chuẩn hóa.
Lực lượng lao động thiếu các kỹ năng cần thiết như làm việc nhóm, giải quyết vấn
đề, kỹ năng tin học, ngoại ngữ, đạo đức nghề nghiệp chưa cao, thiếu ý thức trách nhiệm và
chậm thích nghi với môi trường mới, năng lực đổi mới và sáng tạo khoa học và công nghệ
của lao động có trình độ cao còn nhiều yếu kém.

2.2.3. Thách thức đối với đào tạo mới và đào tạo lại nhân lực
Theo ước tính của Tổ chức Lao động quốc tế, trong tương lai, những lao động bị
mất việc làm do sự phát triển của robot và công nghệ tự động hóa sẽ dịch chuyển sang
những ngành mới này. Tuy nhiên, không phải dễ dàng khi chuyển đổi ngành nghề, nhất là
những ngành mới đòi hỏi nhiều tri thức.
Việc đào tạo mới và đào tạo lại không phải câu chuyện một sớm một chiều mà là câu
chuyện của hiện tại và cả tương lai. Làm sao để vừa giải quyết được tình trạng dư thừa lao
động tay nghề thấp và thiếu hụt nhân lực tay nghề cao là thách thức lớn đối với không chỉ

đào tạo lại mà còn là đào tạo mới.

12


Tốc độ thay đổi trong giáo dục cũng đang gia tăng. Người ta ước tính rằng gần 50%
kiến thức môn học trong năm đầu tiên của 4 năm học kỹ thuật của một sinh viên sẽ trở nên
lỗi thời khi ra trường.
Ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đánh giá, với cuộc cách
mạng này, những ngành gắn với lao động thủ công sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất, tiếp theo là
các ngành gắn với quá trình tự động hóa. Ông Thiên nhận định thêm, nguy cơ gần nhất có
thể thấy là ngành lái xe. Theo đó, trước tiên các lái xe taxi có thể bị loại khỏi cuộc chơi
trong khoảng 20 năm tới khi những loại xe ô tô tự động xuất hiện ngày càng nhiều. Còn
với ngành lắp ráp điện tử, rô-bốt cũng sẽ dần thay thế. Chính vì vậy mà vấn đề thách thức
là sự chuyển mình nhanh chóng theo sự thay đổi của vòng quay công nghệ.

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ
GIẢI PHÁP NHẰM
HẠN CHẾ TÁC
ĐỘNG TIÊU CỰC
CỦA CUỘC CÁCH
MẠNG CÔNG
NGHIỆP 4.0 ĐẾN
TÌNH TRẠNG THẤT
NGHIỆP CỦA VIỆT
NAM
3.1. Chủ động đón đầu xu thế và yêu cầu của thị trường lao động
Vòng quay công nghệ chắc chắn sẽ còn tiếp diễn liên tục không ngừng nghỉ. Công
nghệ 4.0 ngày hôm nay mai sau có thể là 5.0…Chính vì thế áp lực thích ứng nhanh với sự
thay đổi của công nghệ cũng như đón đầu xu thế và yêu cầu của thị trường chính là chiếc

chìa khóa giải quyết sự tác động tới nguồn nhân lực.
Điều này đặt ra yêu cầu lớn đối với các cơ sở đào tạo và ngay cả chính bản thân
người lao động. Các cơ sở đào tạo không thể vẫn sử dụng phương pháp cũ, thiếu tính
tương tác, thiếu thực tiễn của mô hình sản xuất mới để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng sự
phát triển và ứng dụng nhanh chóng của các công nghệ hiện đại từ cuộc CMCN 4.0. Kết
quả sẽ dẫn đến nguy cơ tụt hậu và đào thải rất cao.
Hệ thống đào tạo cả nước cần sớm đổi mới nội dung và chương trình đào tạo nhằm
đáp ứng trước những thay đổi từ thực tiễn. Ví dụ, trong lĩnh vực công nghệ thông tin, một

13


số chuyên ngành và kỹ năng, kiến thức mới cần được các trường nghiên cứu, bổ sung như:
Cơ điện tử; công nghệ thông tin, trong đó đặc biệt chú trọng lĩnh vực khoa học dữ liệu, an
ninh, an toàn thông tin... Đặc biệt, đổi mới phương thức đào tạo và quản trị đại học, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào trong hoạt động giảng dạy và nâng
cao năng lực và chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý. Để đáp ứng yêu cầu đào
tạo trong môi trường mới, đội ngũ giảng viên giáo phải có những năng lực mới, năng lực
sáng tạo và do đó đòi hỏi phải có những phẩm chất mới trên cơ sở chuẩn hóa, thông qua
các hoạt động đào tạo, tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn.
Bên cạnh hoạt động đào tạo, cần tích cực tham gia công tác nghiên cứu khoa học để
nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao
tại cơ sở, đặc biệt chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác…

3.2. Đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu lao động trong ngắn hạn và dài hạn

Hiện trạng nguồn nhân lực
lượng, trình độ

Đánh giá và nâng cao


Dự báo nhu cầu lao động (quy mô, cơ cấu, chất

Xây dựng kế hoạch, chiến lược

Yếu tố ảnh hưởng
Nhu cầu lao động

Đây là nội dung cần được đặc biệt quan tâm, bởi cuộc CMCN 4.0 sẽ có tác động rất
lớn tới cơ cấu của nền kinh tế, khả năng suy giảm, thậm chí mất đi của nhiều ngành nghề
cũng như sự xuất hiện mới của những ngành nghề trong tương lai là hoàn toàn có thể xảy
ra, điều này sẽ dẫn tới những thay đổi rất lớn trong cơ cấu việc làm.
Trung tâm Quốc gia dự báo và thông tin thị trường lao động đã phối hợp với trường
Đại học Maryland (Hoa Kỳ) và Trường Đại học kinh tế quốc dân áp dụng các mô hình dự
báo cung - cầu lao động, xây dựng mô hình và dự báo lực lượng lao động, nhu cầu việc
làm theo nghề đến năm 2020. Trung tâm dự báo ngắn hạn hàng năm về việc làm theo nghề,
xây dựng biểu nghề cho từng tỉnh, thành phố và cả nước; đánh giá mức độ cung đáp ứng
cầu lao động trong những năm tới; tham gia tổ chức thu thập thông tin, xây dựng và quản
lý cơ sở dữ liệu thị trường lao động; quản lý và vận hành cổng thông tin điện tử việc làm,
báo cáo đánh giá hàng năm xu hướng việc làm…”
Định hướng tăng cường công tác dự báo thị trường lao động được đặt ra là: Hoàn
thiện mô hình dự báo dài hạn và ngắn hạn phù hợp với điều kiện Việt Nam; hoàn thiện hệ
thống thông tin thị trường lao động, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia thị trường lao động
đáp ứng yêu cầu phân tích và dự báo; giao nhiệm vụ cho các Trung tâm giới thiệu việc làm

14


thực hiện nhiệm vụ dự báo thị trường lao động phục vụ xây dựng chiến lược, kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Để thực hiện định hướng trên, cần tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp: Nâng cao trình
độ, năng lực cho cán bộ làm công tác dự báo; phối hợp với các tổ chức, chuyên gia quốc tế
trong thực hiện phân tích, xây dựng mô hình dự báo thị trường lao động phù hợp với điều
kiện Việt Nam; hoàn thiện hệ thống chính sách về thị trường lao động, chú trọng phát triển
nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, thành lập mạng thông tin quản lý nguồn nhân lực gồm hệ
thống thông tin về giáo dục đào tạo, hệ thống thông tin thị trường lao động; đẩy mạnh xã
hội hóa để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực; tăng đầu tư phát
triển cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn vốnđầu tư toàn xã hội. Cần tăng
cường hợp tác quốc tế để phát triển thị trường lao động, mở rộng đa dạng hóa các mối
quan hệ song phương và đa phương cấp Chính phủ; kiến nghị các Bộ Nội vụ, Tài chính tạo
điều kiện tốt hơn cho Trung tâm Quốc gia dự báo và thông tin thị trường lao động được
tăng thêm biên chế, tăng diện tích chỗ làm việc, đầu tư trang thiết bị cần thiết cũng như
kinh phí hoạt động không thường xuyên; từng bước hoàn thiện hệ thống thông tin thị
trường lao động và cơ sở dữ liệu thị trường lao động.

3.3. Chú trọng sự kết hợp 3 “nhà” trong đào tạo nhân lực có chuyên môn cao
Các trường đại học ở Việt Nam cần học tập kinh nghiệm đào tạo của các trường đại
học ở nước ngoài trong việc xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo gắn rất chặt với
doanh nghiệp (DN) để đào tạo theo đơn đặt hàng. Nhờ những trung tâm đó, sinh viên được
học tập ở môi trường rất thật, giúp cho sinh viên ra trường có thể bắt nhịp ngay với công
việc; đồng thời các DN liên kết với các trường để tìm nguồn nhân lực tương lai.
Cần có chính sách thỏa đáng để tạo nguồn lực và khai thác có hiệu quả nguồn lực
mới, nhất là trong những ngành mũi nhọn về công nghệ của quốc gia; nâng cao chất lượng
hoạt động của các vườn ươm công nghệ và DN công nghệ cao; có chính sách hỗ trợ hình
thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các cơ sở đào tạo về
công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và chuyển giao công
nghệ. Đồng thời, Nhà nước, DN và các trường đại học cần tăng cường thúc đẩy sự phát
triển một số ngành chọn lọc, đặc biệt là công nghệ thông tin.
Hoạt động của trung tâm đổi mới sáng tạo ở trường phải thiết thực và đi cùng với
nhịp thở cuộc sống, thoát ly lý thuyết thuần tuý. Từ đây, cần xây dựng môi trường dạy và

học mà phải gắn rất chặt với môi trường kinh doanh, với thực tiễn đặt hàng của xã hội…
Nhà trường cũng cần trang bị cho học viên, nghiên cứu sinh các kỹ năng cần thiết
như: giao tiếp, nghiên cứu tài liệu nước ngoài, sử dụng công nghệ thông tin, sự sáng tạo,
thích nghi, nắm bắt được xu thế phát triển của xã hội… nhằm đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ
giữa đào tạo với sử dụng, đáp ứng yêu cầu đang đặt ra. Việc lựa chọn nguồn đi đào tạo, bồi
dưỡng không chỉ đặt lên hàng đầu tiêu chí về nhận thức mà còn phải rất coi trọng đến các
vấn đề ngoại ngữ, tin học, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực lãnh đạo, quản
lý.

15


Đặc biệt, nhà trường cần chủ động kết nối với các doanh nghiệp để tạo cơ hội và
định hướng cho sinh viên nỗ lực phấn đấu vừa hock vừa thực tập, cọ sát với môi trường
thực tế ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Bên cạnh đó có những hội chợ việc làm
do DN và nhà trường tổ chức, buổi gặp mặt chia sẻ kinh nghiệm với các chuyên gia trong
lĩnh vực đào tạo, những thế hệ đi trước đã và đang hoạt động tại các DN để mang tới cho
sinh viên những kiến thức thực tế và định hướng nghề nghiệp kịp thời.

3.4. Đào tạo lại lao động phổ thông có trình độ chuyên môn thấp
Để tận dụng tốt thời cơ và vượt qua những nguy cơ, thách thức từ cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0, vấn đề khai thác nguồn lực con người, nhất là xây dựng, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, cụ thể là đào tạo lại lao động phổ thông có trình độ chuyên môn
thấp là vấn đề đang đã được đặt ra đối với Việt Nam. Đối với Việt Nam, từ trước đến nay,
nền kinh tế vẫn dựa nhiều vào các ngành sử dụng lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên
thiên nhiên, trình độ của người lao động còn lạc hậu. Đây là một trong những thách thức
lớn nhất khi đối diện với cuộc CMCN 4.0.
Để biến những thách thức thành cơ hội, người lao động sẽ cần những kỹ năng mới để
có thể tìm được cơ hội việc làm. Về đào tạo nghề: Đào tạo, chuyển hướng cho một bộ phận
bị mất việc do áp dụng công nghệ mới; phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các trường

dạy nghề và đào tạo chuyên nghiệp. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường
đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước.
Ngoài kỹ năng nghề nghiệp cần được trang bị nhiều hơn những kỹ năng và trình độ
như ứng dụng công nghệ thông tin, giao tiếp hiệu quả, lắng nghe tích cực và tư duy phê
phán, khả năng nhận thức có tính sáng tạo và lập luận toán, giải quyết vấn đề. Theo đó
người lao động sẽ phải nâng cao trình độ chuyên môn, nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của
công nghệ và sản xuất.
Chẳng hạn, người lao động sẽ đóng vai trò là những người giải quyết vấn đề một
cách sáng tạo khi khắc phục một lỗi, sự cố hoặc để tối ưu hóa các quy trình sản xuất. Điều
này đòi hỏi người lao động phải có các kiến thức về hệ thống, quy trình, phương pháp và
công nghệ phù hợp. Các kỹ năng liên quan đến công nghệ thông tin như lập trình, kỹ năng
liên ngành, khai thác dữ liệu lớn, an toàn thông tin, an ninh mạng kỹ năng kỹ thuật để xử lý
các phương tiện kỹ thuật số; kỹ năng sử dụng các phương tiện truyền thông một cách hợp
lý và hiệu quả; các năng lực STEM; khả năng xử lý thông tin phức tạp và quản lý dữ liệu...
là các kỹ năng quan trọng của người lao động trong cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh
đó các kỹ năng mềm như tự quản lý và tự tổ chức, kỹ năng giao tiếp, tương tác và giải
quyết vấn đề, quản lý dự án... cũng rất quan trọng.

16


KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra cho Việt Nam rất nhiều cơ hội để mở rộng
sự đa dạng các ngành nghề, hiện đại hóa trong sản xuất và sử dụng con người một cách
hiệu quả hơn nhưng để đạt được những thành tựu và mục tiêu đã đề ra thì trước tiên phải
chuẩn bị sẵn sàng và hoàn thiện hơn để thích nghi nhanh chóng hơn với sự chuyển mình
mạnh mẽ, liên tục của công nghệ. Đặc biệt, về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay,song
song với những việc làm mới được tạo ra đòi hỏi trình độ chuyên môn chất lượng cao ngày
càng phát triển là sự mất đi và thay thế nguồn nhân lực phổ thông tay nghề thấp bằng máy
móc công nghệ hiện đại. Lối thoát nào cho lao động phổ thông trong thời đại số? Hướng đi

nào cho nguồn nhân lực tương lai đang ngồi trên ghế nhà trường? Sự chủ động, khả năng
thích ứng và học hỏi không ngừng sẽ là chiếc chìa khóa cho nguồn nhân lực? Để làm chủ
công nghệ, đứng vững trong dòng chày không ngừng ấy, Việt Nam sẽ phải nỗ lực hơn nữa
để nâng cao “chất” trong nguồn nhân lực chứ không thể dựa vào “ lượng” như trước đây
nữa.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Ban Chấp hành Trung ương (2016), Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 về



một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế;TS.
Chu Thị Bích Ngọc - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Chính phủ (2017), Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/09/017 về đào tạo, bồi



dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
Thủ tướng Chính phủ ( 2011), Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 phê
duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020

• Tài liệu Hội nghị khoa học “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ


cách mạng công nghiệp 4.0” năm 2018
Tạp chí tài chính ( />



luan/nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-viet-nam-trong-cuoc-cach-mang-congnghiep-40-142571.html )
Báo mới ( />


cau-cua-cach-mang-cong-nghiep-4-0/c/29607747.epi )
Dân trí ( />


viet-nam-2018102207432216.htm )
Báo mới_ “ Tăng cường công tác dự báo thị trường lao động”



( />Nghịch lý lượng và chất ( />Báo cáo về lao động việc làm quý 2 năm 2018 của tổng cục thống kê
(file:///C:/Users/lecuc/Desktop/Bao%20cao%20LDVL_Quy%202_final.pdf)
Báo mới_ “Cách mạng công nghiệp 4.0 có nguy cơ khiến 86% lao động ngày dệt
may mất việc” ( />Tạp chí cộng sản_ “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam hiện



nay dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
( />Tạp chí tài chính_ “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam dưới





tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0” ( />



×