Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đổi mới phương pháp giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.02 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp
đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh"
ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình khoa bảng, có truyền
thống hiếu học, từ nhỏ đã say mê học tập, khao khát tìm tòi cái mới, cái tiến bộ.
Người đã sớm nhận ra rằng muốn cứu nước, phải nâng cao dân trí trước hết là cho
thanh thiếu niên.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, khi bị giam cầm trong nhà lao của chính quyền
Tưởng Giới Thạch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết những vần thơ:
Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền;
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên
Đối với Người, giáo dục đào tạo có một vị trí hết sức quan trọng trong cải
tạo con người cũ, xã hội cũ, xây dựng con người mới, góp phần đắc lực vào công
cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
"Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công
cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Giữa bộn bề công việc của một đất nước mới thoát khỏi chiến tranh, trên
cương vị Chủ tịch nước, Người luôn luôn nhắc nhở những đồng chí, những cán
bộ có trách nhiệm phải thường xuyên quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa cho giáo
dục; bồi dưỡng đạo đức, tri thức cách mạng cho thế hệ trẻ, cho muôn đời sau,
phải tạo mọi điều kiện để mỗi người có thể phát triển toàn diện, bởi con người là
nguồn lực quan trọng để kiến thiết, xây dựng nước nhà. Trong các bài báo, bài


diễn văn đọc tại Đại hội, Hội nghị giáo dục, thư thăm hỏi, chúc mừng, Người
luôn nhấn mạnh đến sứ mệnh thiêng liêng, cao cả của ngành giáo dục. Người viết:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “Dốt thì dại, dại thì hèn”, “Dốt nát cũng là
kẻ địch”,…Trước lúc “đi xa”, trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn:
“Đảng cần phải chăm sóc, giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành


những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.
Nhấn mạnh vai trò, vị trí của giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định và
đưa ra những nội dung giáo dục mang tính toàn diện từ đức, trí, thể, mĩ… Bên
cạnh đó, tuy không có những tác phẩm lớn mang tính văn kiện về giáo dục nhưng
qua những bức thư, những bài nói, bài viết, Người cũng đã chỉ ra những phương
pháp giáo dục thiết thực, cụ thể, phù hợp cho mọi loại đối tượng, các lớp học, cấp
học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Đảng ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, luôn dành sự đầu tư lớn cho
giáo dục. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong những năm qua
thì nền giáo dục của Việt Nam hiện nay còn tụt hậu xa so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, ngoài những nguyên nhân khách quan thì vấn đề phương
pháp giáo dục còn nhiều bất cập là một trong những nguyên nhân chủ quan ảnh
hưởng tới chất lượng giáo dục đào tạo ở nước ta. Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục chính là nhiệm vụ mang tính chiến lược và lâu dài.
Tiếp tục học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách sống và làm việc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ quan trọng cũng là yêu cầu cấp thiết
đối với toàn Đảng, toàn dân. Để đổi mới toàn diện và căn bản nền giáo dục, bên
cạnh việc đổi mới cơ chế quản lý, nội dung chương trình thì đổi mới phương pháp
giáo dục đào tạo giữ vị trí hết sức quan trọng. Những phương pháp giáo dục mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra trở thành những triết lý giáo dục làm cơ sở cho
việc xây dựng và phát triển, đổi mới và hoàn thiện phương pháp giáo dục ở Việt
Nam.

Để làm rõ phương pháp giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như sự
vận dụng trong đổi mới phương pháp giáo dục ở nước ta hiện nay, tôi xin chọn đề
tài : “Đổi mới phương pháp giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài
tiểu luận học phần X.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
• Mục đích nghiên cứu
• Nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu


• Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp luận nghiên cứu
• Phương pháp cụ thể
5. Kết cấu tiểu luận

I.

PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển phương pháp giáo dục truyền thống
của dân tộc Việt Nam, những tinh hoa phương pháp giáo dục của phương Đông,
phương Tây và quan điểm giáo dục của chủ nghĩa Mác – Lênin; xuất phát từ mục
đích, nội dung giáo dục - đào tạo, qua kinh nghiệm thực tiễn dạy học và trực tiếp
đào tạo bồi dưỡng những lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam; Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu lên những quan điểm toàn diện, sáng tạo, độc đáo về phương
pháp giáo dục - đào tạo, có ý nghĩa chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp giáo dục - đào tạo
của nước nhà.
Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý
luận về phương pháp giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết

ngắn gọn, súc tích của Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực.


I.1.

Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản
cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử
dụng trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông
dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên… Nó được coi như "kim chỉ nam" để
lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi
người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết định trong việc chuyển hướng
giáo dục và trở thành đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Các phương pháp giáo dục cụ thể theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, nói đi đôi với làm
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong triết học, trong quy luật nhận thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
vận dụng sáng tạo, nhuần nhuyễn nguyên tắc này trong phương pháp cách mạng
nói chung và phương pháp giáo dục - đào tạo nói riêng. Người chỉ rõ: học đi đôi
với hành, lý luận gắn liền với công tác thực tế; học là cốt để áp dụng vào thực tế.
“Học không phải để nói mép, nhưng biết lý luận mà không thực hành là lý luận
suông. Học là để áp dụng vào việc làm” .
Để công tác giáo dục - đào tạo, huấn luyện và học tập có hiệu quả, đáp ứng
với sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, người nhắc nhở và yêu cầu nhà trường,
người đi học, người dạy học phải coi trọng việc kết hợp giữa học và hành. Học là
để tiếp thu tri thức khoa học, hành là biến những trí thức khoa học đó thành hiện
thực trong cuộc sống. Học và hành có mối quan hệ biện chứng với nhau: “Học để
hành. Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà
không học thì hành không trôi chảy”. Vì vậy, khi dạy và học phải liên hệ với thực
tế trong và ngoài nước, những vấn đề mà thực tế cách mạng hiện nay Đảng và
nhân dân phải giải quyết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy tiêu chuẩn học đi đôi với hành để phân biệt
cách đào tạo giữa các nền giáo dục: “Trường học của ta là trường học xã hội chủ
nghĩa. Trường học xã hội chủ nghĩa là thế nào? Trường học xã hội chủ nghĩa là
nhà trường: Học đi đôi với lao động, lý luận đi đôi với thực hành; cần cù đi đôi
với tiết kiệm” . Đây là những quan điểm về nền giáo dục - đào tạo xã hội chủ
nghĩa của Người, đồng thời thể hiện rõ quan điểm phê phán lối đào tạo kiểu tầm
chương, trích cú, lối đào tạo ấy chỉ tạo ra một lớp người ưa chuộng chữ nghĩa,
sách vở, xa rời cuộc sống, xa rời lao động sản xuất, dẫn đến coi khinh người lao
động.


Trong quá trình chỉ đạo tổ chức nền giáo dục quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng nhà trường lao động, nhà trường gắn
liền với sản xuất, đời sống, song phải lấy mục tiêu chính là giáo dục.
Người căn dặn các cán bộ ngành giáo dục phải chú trọng xây dựng các
trường học vừa học vừa làm, gắn giáo dục với lao động sản xuất. Đưa lao động
vào nhà trường chính là để nhằm đào tạo một thế hệ trẻ vừa có kiến thức văn hoá,
vừa có kiến thức khoa học kỹ thuật, vừa có kỹ năng lao động công nông nghiệp,
có thói quen lao động,sẵn sàng bước vào sự nghiệp xây dựng CNXH. Đó là một
tư tưởng hết sức tiến bộ, khoa học của Người nhằm gắn lý luận với thực tiễn, phát
triển con người toàn diện về kiến thức và kỹ năng.
Giáo dục kỹ thuật tổng hợp, kết hợp giáo dục với lao động và khoa học kỹ
thuật không chỉ góp phần giáo dục nhân cách, góp phần hình thành nhân cách mà
còn giúp các em rèn luyện thể chất để thông minh hơn, khoẻ mạnh hơn, kết quả
học tập cũng sẽ tốt hơn.
Người phê phán tư tưởng tách rời lao động trí óc với lao động chân tay, phê
phán tư tưởng của nhiều thanh niên chỉ muốn làm thầy, ko muốn làm thợ, ko
muốn về nông thôn sản xuất nông nghiệp. “Một số khá đông thanh niên chưa
hiểu thấu rằng tất cả lao động có ích cho xã hội đều là vẻ vang, vì vậy họ chưa
thiết tha yêu nghề, thường “đứng núi này, trông núi nọ”. Nhiều thanh niên nông

thôn chưa hiểu rằng nông nghiệp là cực kỳ quan trọng cho quốc kế dân sinh, vì
vậy mà họ chưa thật thích thú với sản xuất nông nghiệp. Thanh niên ta cần phải
hiểu rằng: Bất kỳ công việc gì, mà ra sức khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt
nhiệm vụ, đều là vẻ vang, đều là anh hùng”
Bên cạnh việc coi trọng phương châm, phương pháp học đi đôi với hành, lý
luận gắn với thực tiễn, Người không quên nhắc nhở mọi người tránh nhận thức
lệch lạc, đòi hỏi trong học tập phải giải quyết tất cả mọi vấn đề của thực tế. Vì
thực tế của cách mạng rất rộng, giải quyết các vấn đề thực tế ấy là cả một quá
trình lâu dài của toàn Đảng, toàn dân. Người còn căn dặn: Khi học tập lý luận thì
nhằm mục đích học hỏi để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc
vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. “Như thế
tất cả những động cơ, mục đích học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho
sạch”.


Theo Hồ Chí Minh, một trong những nội dung rất quan trọng của phương
pháp gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành là:“Người đi huấn luyện phải
huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch những vết xấu xa
trong đầu óc”. Điều đó có nghĩa là người thầy không chỉ đơn thuần trang bị kiến
thức, trí thức, cách vận dụng trí thức, kiến thức đó vào công việc mà còn có trách
nhiệm trực tiếp rèn luyện về tư cách, đạo đức, lối sống, tác phong cho người học,
đồng thời phải là tấm gương cho người học noi theo.
Nói đi đôi với làm là nguyên tắc đầu tiên trong ba nguyên tắc đạo đức cách
mạng, theo quan niệm của Hồ Chí Minh nói thì phải làm, xây đi cùng với chống
và tu dưỡng đạo đức suốt đời. Trong bài giảng “Tư cách một người cách mệnh”
Bác viết:
“Tự mình phải:
Cần kiệm.
Hòa mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.

Cẩn thận mà không nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kêu ngạo.
Nói thì phải làm”.
“Nói thì phải làm” là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư
tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đối với mỗi người để thực hiện được
việc thống nhất giữa lời nói với việc làm phải có nhận thức đúng và quyết tâm
vượt qua chính mình. Có nhận thức đúng nhưng không vượt qua được sự cám dỗ
của lợi ích cá nhân ích kỷ sẽ dẫn đến nói không đi đôi với làm. Để nói đi đôi với
làm, còn cần có sự cố gắng, bền bỉ và quyết tâm, bởi bất kỳ công việc nào, nhiệm
vụ gì, dù lớn hay nhỏ, khó hay dễ, phức tạp hay đơn giản, nhưng nếu không ra
sức phấn đấu thì cũng không thể thành công được.
Nói đi đôi với làm thể hiện bằng kết quả công việc. Kết quả công việc là
thước đo sự cống hiến của mỗi người. Với các cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo
thì lời nói đi đôi với việc làm lại càng quan trọng và cần thiết, vì cán bộ là gốc
của mọi công việc, là những tấm gương để quần chúng noi theo.
Nói đi đôi với làm còn là biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực, trong
sáng của cán bộ, đảng viên, công chức, nêu gương trước nhân dân. Trong thực


I.2.

hành đạo đức “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, về bản chất, “nói đi đôi với làm” không chỉ là
nguyên tắc đạo đức, lẽ sống, phương châm hoạt động mà còn là biểu hiện sinh
động cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với

thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức
của mỗi người.
Phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, nói đi đôi với
làm đã được mọi cấp mọi ngành thực hiện trong quá trình xây dựng nền giáo dục
mới ở Việt Nam. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực trong giáo
dục - đào tạo theo phương châm, phương pháp này. Khi giảng dạy lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin và những vấn đề cách mạng Việt Nam cho cán bộ đảng viên,
Người thấy rõ khả năng, trình độ văn hóa của nhân dân và cán bộ ta còn thấp nên
Người đã Việt hóa, đơn giản hóa, đồng bào hóa nhiều khái niệm trừu tượng của lý
luận Mác - Lênin để cán bộ và đồng bào ai cũng hiểu được. Ví dụ khi giảng giải
cách mạng là gì, Người nói cách mạng là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái lạc
hậu đổi ra cái tân tiến, hoặc Người dùng hình ảnh con đỉa hai vòi để nói về Chủ
nghĩa đế quốc...
Sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn đối tượng và yêu cầu cách
mạng làm cho công tác huấn luyện của Người luôn đạt kết quả cao, phong trào
học tập của toàn dân cũng nhanh chóng phát triển.
Giáo dục phải thiết thực, cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, không sáo rỗng.
Trong Huấn thị về công tác huấn luyện học tập (1950), Bác nêu rõ cách dạy
học: “Cốt thiết thực chu đáo hơn ham nhiều. Việc cốt yếu là phải làm cho người
học hiểu thấu vấn đề”. “Bất kỳ việc gì, chúng ta cũng phải bắt đầu từ gốc, dần
dần đến ngọn, từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng. Chớ nên tham mau, tham nhiều
trong mọi lúc”. Và Bác cũng chỉ ra cách dạy để cho người học hiểu vấn đề một
cách thiết thực: “Hiểu thấu cũng có nhiều cách: có cách hiểu thấu một cách tỉ mỉ,
nhưng dạy theo cách đó thì tốn nhiều thì giờ. Trái lại cũng có cách dạy, theo lối
bao quát mà vẫn làm cho người học hiểu thấu được”. Bác đưa ra thí dụ dạy về
con voi: “muốn dạy cho người ta biết con voi là thế nào thì có thể nói tỉ mỉ bộ
xương của nó ra sao, nó có mấy cái răng, nó sống thế nào, sống được mấy năm,
v.v.. Nhưng nếu chưa thể dạy kỹ như thế được thì cũng có thể nói cho người ta



biết bao quát hình thù của con voi như: mình nó to bằng ba bốn con trâu, nó có
chân lớn như cột nhà, hai tai to như hai cái quạt, một cái vòi và hai cái ngà ở đầu,
v.v.. Như thế, người học không thể lầm con voi với con tôm, con mèo hay con bò
được. Hơn nữa, khi nói đến chuyện săn voi hay bắt voi, người ta cũng không nghĩ
lầm được rằng có thể dùng lưỡi câu mà móc hay dùng roi, dùng gậy mà đánh.
Như thế là người học dùng được sự hiểu biết của mình vào việc làm một phần
nào. Trái lại, nếu thì giờ ít, trình độ còn kém, mà cứ cặm cụi lo nghiên cứu tỉ mỉ
cái ngà voi không chẳng hạn, thì khi trở về lại tưởng lầm con voi là cái ngà,
không ích lợi gì cả”.
Bác phê phán tệ nhồi nhét kiến thức và căn dặn chúng ta: “Huấn luyện phải
thiết thực, sao cho những người đến học, học rồi, về địa phương họ có thể thực
hành ngay. Nhiều đồng chí ta không hiểu cái lẽ rất giản đơn đó. Cho nên họ đã
đưa "thặng dư giá trị" nhồi sọ cho thanh niên và phụ nữ nông dân. Họ đã đưa "tân
dân chủ chủ nghĩa" nhồi sọ các em nhi đồng. Họ đã đưa "biện chứng pháp" nhồi
sọ công nhân đang học quốc ngữ”.
Dạy học phải đạt yêu cầu rõ ràng, dễ hiểu. Quan trọng nhất là cách nói, cách
viết. Phải diễn đạt sao cho quần chúng có thể hiểu được, Bác Hồ đã nói: “Người
tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: viết cho ai xem, nói cho ai nghe? Nếu
không vậy thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho
người ta xem”. Bác dạy: Muốn tuyên truyền quần chúng phải học cách nói của
quần chúng.
Tục ngữ có câu: Học ăn, học nói, học gói, học mở.Nói cũng phải học và phải
chịu khó học mới được. Vì cách nói của dân chúng giản dị, dễ nghe, dễ hiểu. Bác
rất ghét thói ba hoa, rỗng tuếch, dài dòng. Bác phê phán một số người hay nói
chữ: “Tiếng ta có thì không dùng, mà cứ ham dùng chữ Hán. Dùng đúng, đã là
một cái hại, vì quần chúng không hiểu. Nhiều người biết không rõ, dùng không
đúng, mà cũng ham dùng, cái hại lại càng to”. “Tục ngữ nói: "Xấu hay làm tốt,
dốt hay nói chữ". Cái bệnh nói chữ đó đã lây ra, đã làm hại đến quần chúng”.
Người cũng chỉ ra những cách khắc phục,chống thói ba hoa: “ 1. Phải học
cách nói của quần chúng. Chớ nói như cách giảng sách. Mỗi tư tưởng, mỗi câu

nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng.
2. Phải luôn luôn dùng những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ
hiểu.


I.3.

3. Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được. Làm
sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi của mình.
Bao giờ cũng phải tự hỏi: "Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe?".
4. Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết.
5. Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu
tục ngữ: "Chó ba quanh mới nằm. Người ba năm mới nói".
Sau khi viết rồi, phải xem đi xem lại ba, bốn lần. Nếu là một tài liệu quan
trọng, phải xem đi xem lại chín, mười lần.
Làm được như thế - đảng viên và cán bộ ta quyết phải làm như thế - thì thói
ba hoa sẽ bớt dần dần cho đến khi hoàn toàn hết sạch mà công việc của Đảng, tư
cách của cán bộ và đảng viên sẽ do đó mà tăng thêm”.
Phương pháp kết hợp gia đình, nhà trường và xã hội, lấy nhà trường làm
trung tâm.
Môi trường giáo dục thống nhất, lành mạnh là môi trường trong đó có sự kết
hợp đồng đều cả 3 chủ thể giáo dục: Gia đình, nhà trường và xã hội. Cả ba chủ
thể này tạo nên một cơ chế giáo dục thống nhất, tác động, hỗ trợ cho nhau. Bản
chất của sự phối hợp này là đạt được sự thống nhất về yêu cầu giáo dục, khiến
cho định hướng đạo đức của giới trẻ được xác lập đúng đắn và vững chắc.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không
tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Xuất phát từ quan điểm cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hồ Chí Minh cho rằng, giáo dục – đào tạo là
sự nghiệp của toàn dân trong đó Người đòi hỏi phải đặc biệt coi trọng sự phối hợp
giữa gia đình, nhà trường và xã hội, có như vậy, kết quả giáo dục mới hoàn hảo.

Môi trường xã hội, đời sống gia đình là là một trong những nhân tố cơ bản
quyết định đến việc hình thành bản chất, nhân cách con người. Như Mác nói “bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng, cố hữu của một cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ
xã hội”. Cho nên “giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo
dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường
được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong
gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Trong Thư gửi Đại hội giáo dục quốc dân tháng 7-1951, Người viết : “Đại
hội nên chú ý làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với đời sống của nhân dân,


với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc. Làm thế nào để phối hợp
việc giáo dục của trường học với việc tuyên truyền và giáo dục chính trị chung
của nhân dân”.
Bởi Người quan niệm, giáo dục đào tạo là công việc chung của gia đình, nhà
trường và xã hội. Theo Bác, các thầy cô giáo phải gần gũi dân chúng, phải biết
sinh hoạt của nhân dân, yêu nhân dân, yêu học trò, gần gũi nhau, gần gũi cha mẹ
học trò thì mới có thể dạy tốt. Quần chúng nhân dân là nơi cho chúng ta nhiều
kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, học hỏi ở quần chúng là một việc cần làm.
Ngoài ra, việc kết hợp gia đình,nhà trường và xã hội là nhằm dựa vào các lực
lượng xã hội để giáo dục dục thanh thiếu niên thông qua dư luận và các hoạt động
xã hội.
Trong việc gắn giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội, cần chú trọng
phương pháp nêu gương, nhân rộng gương người tốt việc tốt, các điển hình tiên
tiến sẽ tạo nên phong trào thi đua học tập tốt, làm việc tốt. Trong quá trình này,
nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp những tri thức khoa học
làm nền tảng để học sinh tiếp thu những tri thức thực tiễn, hình thành và hoàn
thiện nhân cách.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có hành phúc thì xã hội mới có trật tự

và phát triển. Đó là cái nôi trọng trong giáo dục con cái. Sự giáo dục bằng việc
khuyên răn, dạy bảo con cái những lời hay, lẽ phải và bằng cả việc làm gương của
chính cha mẹ. Gia đình cần phải kết hợp chặt chẽ với nhà trường, vì nhà trường là
nơi trang bị những kiến thức văn hóa cơ bản. Do đó, một môi trường giáo dục
hợp lý là nhà trường sẽ phải thường xuyên thông tin,liên lạc với gia đình để gia
đình các em có thể nắm bắt tình hình học tập rèn luyện của con em mình. Một
môi trường xã hội lành mạnh là điều kiện cần thiết cho việc hình thành và hoàn
thiện nhân cách của học sinh, sinh viên. Xã hội là một môi trường rộng lớn mà ở
đó các cá nhân có mối quan hệ giao tiếp với nhau trong học tập, sinh hoạt, thông
qua các hoạt động đoàn thể, các em được thâm nhập thực tế, từ đó nâng cao ý
thức trách nhiệm của mình với cộng đồng.
Việc kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục được xem là
vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo cho mọi hoạt động giáo dục có điều kiện đạt
hiệu quả tốt. Sự phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường trên sẽ đảm bảo được sự
thống nhất trong nhận thức cũng như trong hành động giáo dục, thúc đẩy quá


I.4.

trình hoàn thiện nhân cách, đào tạo thế hệ trẻ thành những công dân có ích cho
đất nước.
Dạy học phải đi từ dưới lên trên, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, phù hợp với
từng đối tượng
Đây là một trong những quan điểm cơ bản về phương pháp giáo dục - đào
tạo của Hồ Chí Minh. Theo Người, công tác huấn luyện giáo dục muốn có kết quả
phải huấn luyện từ dưới lên trên. Khi ta mới giành chính quyền và trong điều kiện
kháng chiến, nền giáo dục chưa phát triển thì phải biết phát huy mọi người cùng
tham gia công tác huấn luyện. Bằng cách lấy người biết nhiều dạy người biết ít,
người biết ít dạy người chưa biết, phải lấy người cấp dưới lên huấn luyện rồi trở
lại cấp dưới để họ huấn luyện cấp dưới nữa. “Muốn huấn luyện theo lối này thì

phải huấn luyện chu đáo, đừng bôi bác, nếu bôi bác thì càng xuống dưới càng sai
lệch”.
Những tư tưởng trên thực chất Hồ Chí Minh mong muốn giáo dục - đào tạo,
huấn luyện và học tập phải có chương trình, kế hoạch, phương pháp phù hợp với
từng đối tượng, đòi hỏi yêu cầu cao cả đối với người dạy và người học. Người
phê phán cách “tham làm nhiều mà làm không chu đáo”. Không biết “quý hồ tinh,
bất quý hồ đa”. Bất cứ cấp học nào cũng phải bắt đầu từ gốc đến ngọn, từ ít đến
nhiều, từ hẹp đến rộng, từ nông đến sâu, chớ nên tham lam, nhồi nhét một lúc.
Cho nên phải hiểu rõ người học không được chủ quan, tùy tiện, ba hoa, gặp sao
nói vậy, bạ gì viết nấy, phải biết lựa chọn, sắp xếp tài liệu, phải biết dùng các
thuật ngữ, phải biết trình bày cho dễ hiểu, phải biết kết hợp giữa giảng tỉ mỉ với
giảng khải quát. Người nhấn mạnh, phải coi trọng chất lượng, cốt thiết thực, phê
phán cách dạy không tốt như: Tham lam tri thức, đem lý luận khô khan nhét đầy
óc người học, thính dùng chữ Hán, thuật ngữ khó hiểu, nói và viết theo cách
“Tây” nói dài, viết rỗng.
Bác từng nói “muốn cho dạy học không xa rời quần chúng, điều kiện cơ bản
đối với người thầy giáo là phải sát đối tượng, phải đóng giầy theo chân chứ không
phải khoét chân cho vừa giầy”. Trong khi giáo dục thiếu nhi, phải giữ được tính
chất tự nhiên, vui vẻ, hoạt bát của trẻ, không được làm cho các cháu thành ông
già bé”. Với lứa tuổi măng non đó, giữa cái chơi và cái học có sự hỗ trợ, thúc đẩy
lẫn nhau. “trong lúc học cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần cho chúng


I.5.

học”. Vì thế cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn
khổ của người lớn”.
Đối với việc huấn luyện người lớn thì Bác nói: “tài liệu phải lựa chọn, xếp
đặt lại, vì trình độ người học không đều nhau, cần có tài liệu thích hợp với từng
hạng. Tài liệu không thích hợp thì học không có ích lợi gì”.

Bác cũng phê phán tình trạng lớp học quá đông, ảnh hưởng đến chất lượng
dạy và học: “Đông quá thì dạy và học ít kết quả vì trình độ lý luận của người học
chênh lệch, nên thu nhận không đều. Trình độ công tác thực tế của người học
cũng khác nhau, nên chương trình không sát”. Nhận định này của Bác không
những chỉ đúng với các lớp học lý luận ngày trước mà còn đúng ngay cả với các
lớp học phổ thông ngày hôm nay, tình trạng quá tải học sinh ở các lớp học làm
cho chất lượng dạy học bị ảnh hưởng.
Người coi thanh niên là lực lượng có ý chí và nghị lực vượt mọi khó khăn,
luôn xung phong đi đầu trong sự nghiệp chiến đấu và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
coi thiếu niên nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Người coi việc giáo
dục thanh niên là cả một khoa học. Người nói: "Óc của người tuổi trẻ trong sạch
như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ”.
Điều đó đòi hỏi giáo dục thanh niên phải có nội dung, chương trình phù hợp.
Như vậy, trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp
với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ
văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham,
ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo
dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối
tượng giáo dục.
Phải lấy tự học làm cốt, phải nâng cao hướng dẫn việc tự học, tự đào tạo,
phát huy tích cực, chủ động và năng lực tư duy sáng tạo của người học
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định phương pháp dạy và học có hiệu quả nhất
là phải có tính sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo, đòi hỏi cả người
dạy và người học phải áp dụng vào thực tế công tác của mình cho linh hoạt.
Người yêu cầu: “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng, phải
biết tự động học tập, phải đào sâu suy nghĩ, luôn đặt vấn đề tại sao? Phải bảo vệ
chân lý, phải có nguyên tắc, học không được ba phải, giúp đỡ nhau trong học
tập, mạnh dạn phê bình và thật thà tự phê bình, không dấu dốt”. Người dạy:
“Việc cốt yếu phải làm cho người học thấu hiểu vấn đề, không tin một cách mù



quáng vào từng câu trong sách, có vấn đề gì chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra
thảo hội cho vỡ lẽ”. Trong cách tự học, Người chỉ rõ: “Học ở trường, học ở sách
vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót lớn”.
Bởi theo Người, dân ta rất thông minh, rất sáng suốt, nên mọi kinh nghiệm sản
xuất, đánh giặc, vận động quần chúng đều phải học từ dân, có dân là có tất cả.
Phải xác định việc học là suốt đời, “Học không bao giờ cùng, học mãi để tiến bộ
mãi, càng tiến bộ, càng thấy cần phải học thêm”
Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về tự học suốt đời. Vì thế, Người
đã tiếp thu được vốn tri thức đồ sộ của nhân loại cả Đông - Tây - Kim - Cổ, trên
cơ sở đó rút ra nguyên lý phải lấy tự học làm cốt, đã cổ vũ, lôi cuốn toàn dân ta
trong phong trào “Bình dân học vụ” trước kia và ngày nay đang soi sáng chủ
trương xây dựng nước ta thành một xã hội học tập.
1.6. Kế hoạch phát triển giáo dục phải gắn với kế hoạch phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội
Đây chính là nguyên tắc để xây dựng và phát triển ngành giáo dục. Kinh tế
là nền tảng vật chất còn văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Giáo dục là yếu
tố quyết định trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cùng với kiến
thức khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế, ngược lại đến lượt nó, kinh tế và
chính sách kinh tế có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của giáo dục đào tạo
trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới phương pháp, trang thiết bị dạy và
học.
Ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Kinh tế có kế hoạch, giáo dục cũng phải có kế hoạch. Kế hoạch giáo dục phải
gắn liền với kế hoạch kinh tế. Giáo dục phải cung cấp cán bộ cho kinh tế. Kinh tế
tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được. Nếu kinh tế không phát triển thì giáo dục
cũng không phát triển được. Giáo dục không phát triển thì không đủ cán bộ giúp
cho kinh tế phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau. Giáo dục có khó
khăn, giáo dục phải khắc phục. Kinh tế có khó khăn thì kinh tế phải khắc phục.
Chúng ta đồng tâm hiệp lực khắc phục khó khăn, thì kinh tế cũng thành công,

giáo dục cũng thành công”.
Đánh giá vai trò của giáo dục đối với Kinh tế, Người cũng khẳng định:
“không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế”. Tuy
nhiên Người cũng nhắc nhở tâm lý phát triển nóng vội giáo dục, không phù hợp


với điều kiện và hoàn cảnh thực tế: “Kháng chiến phải mấy năm. Vội không
được. Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm nhưng làm
vội không được. Từ đây ra cửa thì thứ nhất là bước thứ nhất, thứ hai mới đến
bước thứ hai rồi thứ ba mới là bước thứ ba. Vội thì ngã. Làm phải có kế hoạch,
có từng bước”.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, giáo dục phải gắn với kế hoạch
phát triển văn hoá. Giáo dục chính là phương tiện, là công cụ để truyền tải những
giá trị văn hoá, giữ gìn, phát huy và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống
cũng như tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Xây dựng một xã hội
văn minh, dân chủ, đảm bảo quyền con người, thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh
thần cho con người bao hàm trong nó là mang đến cho con người những điều kiện
giáo dục tốt nhất để hoàn thiện nhân cách.
Kế hoạch giáo dục gắn với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bởi
vì giáo dục nhằm mục đích giải phóng con người, mang đến sự tự do phát triển
toàn diện về mọi mặt cho con người, khi điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội được
chuẩn bị ở mức tốt nhất thì sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp giáo dục, và
ngược lại, khi giáo dục phát triển ngang tầm thì sẽ tạo động lực – nội lực vô cùng
mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đề cập đến phương pháp giáo dục, theo Người thì không có một phương
pháp nào là tuyệt đối, chung nhất, với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo
dục như phương pháp đối thoại, phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với
thực tiễn, phương pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội... đều nhằm
mục đích "nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng", nâng cao nhận
thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các phương pháp này vừa mang tính

truyền thống, lại vừa hiện đại, vừa hệ thống, khoa học, lại vừa cụ thể, thiết thực,
luôn gắn với đời sống và mang hơi thở của thời đại. Theo Hồ Chí Minh, nêu
gương cũng là một phương pháp giáo dục quan trọng. Người dạy: "Những gương
người tốt làm việc tốt muôn hình, muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng
con người... Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một
trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng,
xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Đây là tư tưởng và sự quan tâm chủ tịch
Hồ Chí Minh đến vấn đề “người tốt, việc tốt”, là một vấn đề đơn giản, dễ nhớ, dễ
làm, dễ gần, dễ thực hiện nhưng không kém phần sâu sắc, nhưng để trở thành "


II.

người tốt", bắt buộc phải tự đòi hỏi mình, tự chế ngự và tự nâng mình lên mới có
thể vượt qua được thói quen, làm những "việc tốt" bình thường nhất, để từ triệu
người tốt, việc tốt sẽ là tiền đề, manh nha cho những cái tốt về sau này. Người
dạy: “Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà mình thì ăn trưa,
ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên truyền một
trăm năm cũng vô ích”. Người còn cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên: “Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang đứng trước vô vàn điều mới mẻ
mà nhiều người dân còn chưa kịp nhận thức và làm quen, hơn nữa, mặt trái của
kinh tế thị trường và sự chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn
biến hòa bình” đang không ngừng gia tăng. Điều đó đòi hỏi cán bộ, đảng viên
phải thực sự chuẩn mực trong phát ngôn, đồng thời, phải bằng hành động thực tế,
chủ động, tích cực biến đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước thành hiện
thực. Cán bộ, đảng viên phải tận tâm, tận lực thực hiện thật tốt cương vị, chức
trách được giao, đi trước, làm gương cho quần chúng noi theo, không nên chỉ hứa
hẹn rồi để đấy theo kiểu “đánh trống bỏ dùi”, “nói cho có” mà phải dám làm, dám

chịu trách nhiệm, làm gì cũng phải nghĩ đến lợi ích của dân, của nước, tránh vì lợi
ích cá nhân mà vi phạm tư cách, đạo đức, lối sống của người cán bộ cách mạng.
Có thể nói rằng, về phương pháp giáo dục của Hồ Chí Minh, Người lấy nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng
các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng trong việc
giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ đội, trí
thức, học sinh, sinh viên… Nó được coi như “nền tảng” để làm tiền đề cho nhận
thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa,
nguyên tắc này có tính chất quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở
thành đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
II.1. Tính tất yếu khách quan của việc đổi mới phương pháp giáo dục đào
tạo ở nước ta hiện nay.


Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói
chung và đổi mới nền giáo dục nước nhà nói riêng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã
có nhiều chủ trương đúng đắn để lãnh đạo, phát triển giáo dục - đào tạo đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Văn kiện Hội nghị lần thứ 2, BCH Trung ương khoá VIII đã xác định nhiệm
vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là "nhằm xây dựng những con
người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân
tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân
tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá
nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ
năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức
khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa

"chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định: "Phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững". "Tiếp tục
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và
học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh,
sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh
phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và
không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã
hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa;
đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập
trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Đẩy mạnh đào tạo nghề đáp ứng


nhu cầu phát triển của đất nước. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết
hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập,
tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”.
Và gần đây nhất, Hội nghị trung ương 8, khoá XI đã ban hành nghị quyết về
đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, trong đó chỉ rõ.




×