Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

Hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.87 KB, 121 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ SƯƠNG

HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ SƯƠNG

HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. LÊ VĂN LONG

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Ngô Thị Sương


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BTP

: Bộ Tư pháp

CP

: Chính phủ

CT

: Chỉ thị

HĐND

: Hội đồng nhân dân

GDPL


: Giáo dục pháp luật

HGCS

: Hòa giải ở cơ sở

MTTQ

: Mặt trận tổ quốc



: Nghị định

THPL

: Thi hành pháp luật

TTG

: Thủ tướng Chính phủ

TW

: Trung ương

UBND

: Ủy ban Nhân dân


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ.....6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hòa giải ở cơ sở................................................. 6
1.2. Vai trò của hòa giải ở cơ sở........................................................................8
1.3. Nội dung của hòa giải ở cơ sở..................................................................10
1.4. Chủ thể hòa giải ở cơ sở...........................................................................20
1.5. Phương thức, trình tự thủ tục hòa giải ở cơ sở.........................................23
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác hòa giải ở cơ sở...............................28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NAM....................................................................................31
2.1. Các yếu tố đặc thù của tỉnh Quảng Nam ảnh hưởng đến công tác hòa giải
ở cơ sở.............................................................................................................31
2.2. Thực tiễn hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Nam........................ 34
2.3. Những kết quả đạt được và nguyên nhân.................................................39
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ..............................................................54
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.........................54
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở...........................59
KẾT LUẬN....................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế chung của hội nhập toàn cầu, Việt Nam có chủ trương xây
dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện công cuộc cải cách toàn diện và sâu sắc
theo quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Sự thay đổi đó tạo nên bộ
mặt mới cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường thì các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột cũng ngày càng ra tăng với
diện mạo mới, đòi hỏi phải được giải quyết bằng một phương thức thích hợp.
Hòa giải ở cơ sở là một hình thức giải quyết hữu hiện được lựa chọn để giải
quyết các mâu thuẫn, tranh chấp.
Hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng là một truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở sẽ góp
phần giữ ổn định trật tự xã hội, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, tình đoàn kết,
tương thân tương ái trong cộng đồng, vun đắp sự hòa thuận, hàn gắn hạnh
phúc cho từng gia đình. Những mâu thuẫn, tranh chấp nếu được dàn xếp, can
ngăn kịp thời của những cán bộ hòa giải sẽ giữ được "tình làng, nghĩa xóm",
giữ được sự bình yên, giải tỏa được bức xúc. Việc thực hiện tốt công tác
HGCS sẽ góp phần tăng cường tình đoàn kết trong nhân dân và phát huy khối
đại đoàn kết toàn dân, có tác dụng tích cực trong việc xây dựng xã hội giàu
mạnh, bình yên, xây dựng nhà nước pháp quyền gắn với xây dựng nông thôn
mới của tổ quốc. Thông qua HGCS, quyền làm chủ của nhân dân được thể
hiện rõ. Với phương châm "lấy dân làm gốc", HGCS kết hợp nhuần nhuyễn
giữa lý và tình, giữa đạo đức và pháp luật, giải quyết các mâu thuẩn, tranh
chấp vừa thấu tình, vừa đạt lý.
Ngày 20/6/2013, Luật Hoà giải ở cơ sở được Quốc hội đã thông qua và
có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014. Sự ra đời của Luật hòa giải ở cơ sở năm
2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đánh dấu một bước phát triển mới
1


quan trọng trong công tác hòa giải ở cơ sở, đáp ứng được yêu cầu của thực

tiễn khi mà các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật trong đời sống của
cộng đồng dân cư ngày càng tăng về số lượng và đa dạng, phức tạp về nội
dung mâu thuẫn, tranh chấp. Việc thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở trên toàn
quốc đã tác động tích cực đến đời sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý toàn diện,
đầy đủ và vững chắc cho hoạt động hòa giải ở cơ sở đi vào nề nếp, thống nhất
và hiệu quả, qua đó khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của công tác hòa
giải ở cơ sở trong đời sống xã hội.
Do đó, việc nghiên cứu công tác HGCS là một yêu cầu cần thiết, qua đó
khẳng định HGCS là một biện pháp quan trọng góp phần duy trì, đảm bảo giá
trị của HGCS trong đời sống xã hội. Những kết quả nghiên cứu về công tác
HGCS có thể là một nội dung tham vấn cho các cơ qua tư pháp và cơ quan
hành chính các cấp trong việc tổ chức hoạt động HGCS sao cho phù hợp.
Trong những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã quan tâm, đẩy mạnh thực
hiện công tác HGCS nên đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả nhất định, công tác hòa giải vẫn còn những hạn chế dẫn
tới hiệu quả thực hiện còn chưa cao... Để Luật Hoà giải ở cơ sở thực sự đi vào
cuộc sống (thúc đẩy sự tham gia của toàn xã hội, bảo đảm tính linh hoạt, mềm
dẻo, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân ở cơ sở,
tiết kiệm thời gian, kinh phí cho nhà nước và nhân dân...) cần có những
nghiên cứu sâu để tổng kết và nhân rộng các mô hình HGCS có hiệu quả
trong thực tiễn. Vì thế, tôi lựa chọn đề tài “Hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam” làm Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật ngành Luật Hiến pháp
và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Luật Hòa giải ở cơ sở là một bước tiến lập pháp quan trọng nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội mang tính tự quản trong cộng đồng dân cư, tăng

2



cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy các giá trị đạo đức, văn hóa truyền
thống tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Đồng thời giữ vững ổn định tình hình
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết trong nhân dân, đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, hội nhập quốc tế.
Có thể điểm qua một số công trình đề cập đến vấn đề HGCS như: Sổ
tay đào tạo giảng viên HGCS, tài liệu vụ phục vụ Đề án 2 “Củng cố, kiện toàn
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác PBGDPL, đáp ứng
yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước” của BTP năm 2012; Hướng dẫn
quản lý công tác HGCS, NXB Tư pháp năm 2007; Cẩm nang bồi dưỡng cho
hòa giải viên cơ sở, NXB Tư pháp năm 2007; Tài liệu tập huấn về Quản lý
công tác HGCS (chương trình hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống
Pháp luật Việt Nam đến năm 2010), 2008; Những nội dung cơ bản của Luật
HGCS, Quách Dương (chủ biên), NXB Tư pháp, Hà Nội – 2013; Quản lý nhà
nước về công tác HGCS, Nguyễn Phương Thảo, NXB Tư pháp, Hà Nội 2012. Một số bài báo, tạp chí đề cập đến vị trí, vai trò và ý nghĩa của công tác
HGCS như: “Thương lượng và hòa giải – các phương thức giải quyết tranh
chấp ngoài tố tụng tư pháp” của Nguyễn Trung Tín trên Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 01(237)/2008; “Một cách làm tốt công tác HGCS” của Ngọc
Hiển, báo Pháp luật Việt Nam, ngày 27/9/2010; “Vai trò và sự phối hợp của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp với các cơ quan tư pháp trong công tác
HGCS”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 6/2009; “Vai trò
của chính quyền các cấp trong công tác HGCS”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số chuyên đề tháng 6/2009... Một số luận văn thạc sĩ: Hòa giải ở cơ sở từ
thực tiễn tỉnh Bình Định; Hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi...
Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu cụ thể và toàn diện về HGCS từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Điều này cho
phép khẳng định, đề tài luận văn không trùng lặp với các công trình đã được

3



công bố trước đây. Do vậy, đó cũng chính là một trong những lý do thôi thúc
học viên lựa chọn thực hiện chủ đề này trong quy mô của luận văn thạc sĩ luật
học, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về HGCS, đánh giá thực
trạng thực hiện công tác HGCS tại tỉnh Quảng Nam, Luận văn đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác HGCS ở nước ta trong điều kiện hiện
nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có các nhiệm vụ để thực hiện mục đích nêu trên:
-

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác HGCS và tiếp tục làm

sáng tỏ một số vấn đề lý luận về HGCS.
-

Nêu và đánh giá thực trạng công tác HGCS trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam, phân tích nguyên nhân của những kết quả và hạn chế.
-

Đưa ra quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác

HGCS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng, cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Về đối tượng nghiên cứu

- Hệ thống các quy định pháp luật về HGCS
- Thực tiễn hoạt động HGCS tại tỉnh Quảng Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu: Tỉnh Quảng Nam;
-

Về thời gian nghiên cứu: Hoạt động HGCS trong 5 năm (từ năm 2014

đến năm 2018).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật. Quan
điểm và kết quả nghiên cứu công tác HGCS tại tỉnh Quảng Nam.
4


Luận văn sử dụng phương pháp khảo sát thực tế, thống kê để thu thập
thông tin; sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để nghiên
cứu các vấn đề lý luận; sử dụng số liệu thực tế phục vụ cho việc đánh giá thực
tiễn, phân tích nguyên nhân của nội dung nghiên cứu, chứng minh tính khả thi
của các giải pháp mà tác giả đưa ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
-

Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể

được khai thác, sử dụng cho việc nghiên cứu về công tác hòa giải ở cơ sở của
các cơ quan tư pháp.
-


Về mặt thực tiễn: Các cơ quan Tư pháp, công chức Tư pháp - Hộ tịch,

hòa giải viên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có thể khai thác, vận dụng những
kết quả nghiên cứu của luận văn để tham mưu đề xuất những giải pháp với cơ
quan có chức năng để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hòa giải ở cơ
sở, vận dụng để triển khai các hoạt động nghiệp vụ về hòa giải ở cơ sở như:
quản lý nhà nước, tập huấn nghiệp vụ, xây dựng các chương trình phối hợp...
để công tác hòa giải được thực hiện tốt hơn trong thời gian đến.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục
gồm các Chương như sau:
-

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hòa giải ở cơ sở.

Chương 2: Thực trạng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
hòa giải


cơ sở.


5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hòa giải ở cơ sở

1.1.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở
Để tìm hiểu về hòa giải ở cơ sở trước hết cần tìm hiểu khái niệm về hòa
giải nói chung. Tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình hòa giải mà
có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải.
Trong khoa học cũng như trong thực tiễn có nhiều quan niệm khác nhau
về hòa giải tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình hòa giải. Một số
luật gia cho rằng hòa giải là chế định pháp luật về hòa giải, coi hòa giải như
một nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh tế, lao động của Tòa án. Còn các nhà thực tiễn coi hòa giải là
những hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những tranh chấp, mâu
thuẫn, bất đồng.
Theo Từ điển tiếng Việt, hòa giải là “hành vi thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa”.
Theo hiệp hội hòa giải Hoa Kỳ thì “Hòa giải là một quá trình, trong đó
bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề
của họ”.
Cũng có quan điểm cho rằng hòa giải là quy trình có tổ chức, trong đó,
với sự giúp đỡ của hòa giải viên thì hai hay nhiều bên tranh chấp cố gắng đạt
được thỏa thuận dàn xếp tranh chấp một cách tự nguyện.
Pháp luật quy định nhiều loại hòa giải như hòa giải trong tố tụng dân sự
của Tòa án, hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, hòa giải trong tố
tụng trọng tài, hòa giải tranh chấp lao động, HGCS; Và trong đó, HGCS là
một hình thức của hòa giải. Hòa giải ở cơ sở trước hết xuất phát từ đặc điểm

6


lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc. Ở Việt Nam, nền kinh tế nông nghiệp lúa
nước với nhu cầu làm thủy lợi, đắp đê, chống lụt, thêm vào đó là nguy cơ giặc
ngoại xâm luôn đe dọa đã khiến cho người Việt cổ sớm hình thành lối sống

cộng đồng, truyền thống đoàn kết, tương thân, thương ái. Trong các làng xã cổ
truyền, người nông dân quen sống với các mối quan hệ xóm làng, huyết thống
ràng buộc nhau một cách chặt chẽ, do đó họ rất coi trọng tình làng, nghĩa
xóm, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Nếu có xích mích, mâu thuẫn, tranh chấp về
quyền lợi, nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, hàng xóm
láng giềng thì họ chủ trương “đóng cửa bảo nhau”, “chín bỏ làm mười”, xóa
bỏ bất đồng, mâu thuẫn, xây dựng cộng đồng hòa thuận, yên vui, hạnh phúc.
Vì vậy, hòa giải được xem là phương án tối ưu để giải quyết xích mích, mâu
thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân…
Luật Hoà giải ở cơ sở ban hành năm 2013 ghi nhận "Hoà giải ở cơ sở là
việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự
nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật
theo quy định của Luật này (Điều 2).
Như vậy, có thể hiểu rằng, hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng
dẫn, giúp đỡ các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với
nhau những vi phạm pháp luật nhằm giữ gìn đoàn kết và tranh chấp nhỏ trong
nội bộ nhân dân, củng cố phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt
đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp
luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Hoạt động hòa
giải được thông qua các hòa giải viên ở các tổ hòa giải.
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải ở cơ sở
HGCS có một số đặc điểm so với các hình thức hòa giải khác, cụ thể
sau:
Thứ nhất, hoà giải là một hình thức giải quyết những tranh chấp giữa các

7


bên theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, trong hoạt động hoà giải, các bên tranh chấp cần đến một bên

thứ ba làm trung gian hoà giải, giúp các bên đạt được thoả thuận, chấm dứt
tranh chấp, bất đồng.
Thứ ba, hoà giải trước hết là sự thoả thuận, thể hiện ý chí và quyền định
đoạt của chính các bên tranh chấp. HGCS là hoạt động tự dàn xếp, thỏa thuận
giữa các bên, giúp đỡ các bên tranh chấp thông cảm hiểu nhau hơn, xóa bỏ
tranh chấp, góp phần giữ gìn ổn định, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở, nối lại
tình cảm gắn bó từ gia đình, làng xóm.
Thứ tư, nội dung thoả thuận của các bên tranh chấp phải phù hợp với
pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân ta.
Việc kết hợp hài hòa giữa những quy định của pháp luật với đạo đức xã
hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân cũng là một trong những đặc
điểm nổi bật khác của HGCS.
Ngoài ra, các yếu tố truyền thống, lịch sử, tâm lý dân tộc cũng là điều
kiện, là tiền đề rất quan trọng cho hòa giải hình thành, tồn tại và phát triển.
Chính vì thế, HGCS ngày càng khẳng định được vai trò, ý nghĩa to lớn của
mình trong đời sống xã hội, được mọi người dân chấp nhận. Những đặc điểm
này làm nên những đặc trưng riêng của HGCS mà những hình thức hòa giải
khác không có.
1.2. Vai trò của hòa giải ở cơ sở
Hòa giải ở cơ sở là một hoạt động mang tính xã hội tự nguyện, tự quản ở
cộng đồng dân cư. Thực tiễn hoạt động hòa giải ở cơ sở thời gian qua đã
khẳng định vai trò, ý nghĩa của công tác này trong việc góp phần hạn chế các
tranh chấp dân sự và phòng ngừa tội phạm, vận động nhân dân sống và làm
việc theo pháp luật, củng cố tình làng, nghĩa xóm, tăng cường đoàn kết trong
cộng đồng dân cư, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy

8


phát triển kinh tế - xã hội. Qua hoạt động hòa giải ở cơ sở cũng góp phần

giảm thiểu, hạn chế các vụ khiếu kiện, tiết kiệm được thời gian, chi phí của
nhân dân, Nhà nước khi phải thụ lý, giải quyết những vụ việc lẽ ra có thể kết
thúc từ cơ sở.
Hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng có vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội. Hòa giải ở cơ sở là một hình thức hòa giải thiết thực,
giúp các bên tự nguyện, giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp có hiệu quả, một
cách nhẹ nhàng, có lý, có tình, góp phần hạn chế các hậu quả xấu có thể xảy
ra, giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân, tương ái trong cộng
đồng.
Ưu điểm của hòa giải ở cơ sở là giải quyết kịp thời ngay từ đầu các mâu
thuẫn, tranh chấp không để tranh chấp trở nên gay gắt, “chuyện bé xé ra to”
bằng các biện pháp giải quyết vừa có lý vừa có tình; những người thực hiện
và tham gia hòa giải là những người gần gũi, quen biết hàng ngày cùng lao
động, sinh hoạt, dễ tạo sự thông cảm giữa các bên. Do đó, thực hiện tốt công
tác hòa giải ở cơ sở sẽ góp phần mang lại những tác động tích cực và ý nghĩa
to lớn trong đời sống xã hội:
Thứ nhất, việc hòa giải những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp ở cơ
sở đã góp phần giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy
những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng,
phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Thứ hai, hòa giải ở cơ sở được thực hiện tốt sẽ góp phần hạn chế các vụ,
việc khiếu kiện vượt cấp, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra cơ quan có thẩm
quyền hoặc Tòa án giải quyết, tiết kiệm thời gian, tiền bạc của nhân dân và
nhà nước.
Thứ ba, hoạt động hoà giải ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng đối với công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Bằng việc vận dụng những quy

9



định của pháp luật để giải thích, phân tích, thuyết phục các bên tranh chấp,
hòa giải viên đã góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật và quan trọng hơn là
cảm hoá, giáo dục ý thức nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật cho các bên để từ
đó hình thành ý thức xử sự phù hợp với quy định pháp luật, chuẩn mực đạo
đức xã hội.
Trong cuộc sống hằng ngày của người dân không thể tránh khỏi những
mâu thuẩn, tranh chấp, những xích mích, va chạm. Những mâu thuẩn đó nếu
không được giải quyết kịp thời có thể sẽ ngày càng một lớn hơn, là nguy cơ
gây ra mất trật tự xã hội, hoặc thậm chí là vi phạm pháp luật về hình sự. Mặc
khác, nếu đợi người dân khiếu nại, khởi kiện đến các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết thì sẽ tốn rất nhiều thời gian, kinh phí. HGCS sẽ giúp giải quyết kịp
thời các mâu thuẩn, gắn kết tình đoàn kết, tình cảm xóm giềng. Bên cạnh đó,
qua hoạt động HGCS sẽ giúp đương sự và những người liên quan cũng như
Nhân dân nâng cao hiểu biết về kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật.
Hơn nữa, thực hiện quy định về công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở
thì những tranh chấp, mâu thuẩn của đương sự nếu được tổ hòa giải ở cơ sở
hòa giải thành và có lập biên bản thì các bên có thể yêu cầu Tòa án công nhận
kết quả đó. Quyết định công nhận có hiệu lực ngay và không bị kháng cáo,
kháng nghị.
Từ các nội dung trên, có thể thấy rằng công tác hòa giải ở cơ sở có vai
trò rất quan trọng, góp phần giảm áp lực đơn thư đến chính quyền và khiếu
kiện ra Tòa án.
1.3. Nội dung của hòa giải ở cơ sở
Tại kỳ họp thứ 5 vào ngày 20/6/2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua
Luật Hòa giải ở cơ sở (có hiệu lực từ 01/01/2014) và thay thế Pháp lệnh về tổ
chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở năm 1998. Nói về HGCS thì đây là văn

10



bản luật có hiệu lực cao nhất, có nhiều quy định phù hợp với tình hình thực tế
hơn so với các văn bản luật trước đây.
1.3.1. Phạm vi hòa giải ở cơ sở
Một trong những điểm mới quan trọng của Luật Hòa giải ở cơ sở so với
Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở là quy định về phạm vi
hoà giải ở cơ sở theo hướng loại trừ, chỉ quy định các trường hợp không được
hòa giải. Mục đích của phương thức này là nhằm bao quát hết các vấn đề phát
sinh cần được hòa giải ở cơ sở ngay cả thời điểm hiện tại và tương lai, các
mâu thuẫn, tranh chấp có tính đa dạng, linh hoạt thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau trong cuộc sống.
Trên cơ sở đó, Điều 3 Luật hòa giải ở cơ sở quy định việc hòa giải ở cơ
sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ
các trường hợp sau:
- Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng;
-

Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo

quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải;
-

Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình

sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính;
-

Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo quy định


pháp luật.
Để làm rõ vấn đề này, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP đã quy định tại Điều
5, cụ thể như sau: Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn,
tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây:
-

Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống,

tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi
chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây
mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác).
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở
11


hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất;
-

Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp

phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ
giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành
viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly
hôn;
-

Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm

đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính;
-


Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây: Không bị

khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 107 của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003
(nay là Điều 57 của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015) và không bị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng
người bị hại không yêu cầu khởi tố theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của
Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 (nay là Khoản 1, Điều 155 của Bộ Luật Tố
tụng hình sự 2015) và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật; vụ án đã được khởi tố, nhưng
sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra theo
quy định tại Khoản 2, Điều 164 của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 (nay là
Khoản 1 Điều 230 của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015) hoặc đình chỉ vụ án
theo quy định tại Khoản 1, Điều 169 của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 (nay
là Khoản 1 Điều 248 của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015) và không bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật;
-

Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị

trấn theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của
Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại
xã, phường, thị trấn hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý
vi phạm hành chính theo quy định tại Chương II Phần thứ năm của Luật
xử lý

12



vi phạm hành chính; cụ thể là biện pháp nhắc nhở và quản lý tại gia
đình.
- Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.
Những trường hợp không hòa giải về cơ bản Nghị định số 15/2014/NĐCP quy định tương tự Luật Hòa giải ở cơ sở, đồng thời làm rõ thêm mâu
thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở quy định tại Điểm d
Khoản 1 Điều 3 của Luật Hòa giải ở cơ sở, bao gồm: Hòa giải tranh chấp về
thương mại được thực hiện theo quy định của Luật Thương mại và các văn
bản hướng dẫn thi hành; Hòa giải tranh chấp về lao động được thực hiện theo
quy định của Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1.3.2. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở
Về cơ bản, Luật Hòa giải ở cơ sở kế thừa các quy định về nguyên tắc hòa
giải của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, đồng thời sửa
đổi, bổ sung một số nguyên tắc cho phù hợp với thực tiễn hiện nay. Các
nguyên tắc này được quy định tại Điều 4 Luật Hòa giải ở cơ sở, cụ thể như
sau:
-

Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên

trong hòa giải ở cơ sở.
-

Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã

hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết,
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và
cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ,
người khuyết tật và người cao tuổi.
-


Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin

đời tư của các bên, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 10
của Luật này.
-

Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi

ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng.
- Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

13


-

Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ

quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi
phạm hành chính, xử lý về hình sự.
1.3.3. Chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở
Luật Hòa giải ở cơ sở bổ sung quy định về chính sách của Nhà nước đối
với công tác hòa giải ở cơ sở, trong đó khuyến khích các bên giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp bằng hình thức hòa giải ở cơ sở và các hình thức hòa giải
thích hợp khác; khuyến khích những người có uy tín trong gia đình, dòng họ,
cộng đồng dân cư tham gia hòa giải ở cơ sở và tham gia các hình thức hòa giải
thích hợp khác; Nhà nước có chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ cho hoạt động
hòa giải ở cơ sở; khuyến khích tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho hoạt

động hòa giải ở cơ sở. Một điểm mới quan trọng của Luật Hòa giải ở cơ sở đó
là quy định Nhà nước có chính sách để phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong
công tác hòa giải ở cơ sở, thể hiện đúng bản chất của hòa giải ở cơ sở là tự
nguyện, tự quản của nhân dân, do nhân dân quyết định.
Để khuyến khích các tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa
giải ở cơ sở, Điều 3 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP đã quy định cụ thể chính
sách đối với các tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ
sở, cụ thể như sau:
-

Được Nhà nước cung cấp thông tin miễn phí về chính sách, pháp luật

liên quan; được khen thưởng khi có đóng góp, hỗ trợ tích cực cho công tác
hòa giải ở cơ sở theo quy định.
-

Tổ chức của Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các

tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác về pháp luật, tổ chức hành nghề luật sư, tổ
chức tư vấn pháp luật hỗ trợ tài liệu phục vụ hoạt động hòa giải ở cơ sở; phổ
biến pháp luật về hòa giải ở cơ sở; hỗ trợ tổ chức tập huấn kiến thức pháp
luật, nghiệp vụ cho hòa giải viên; tạo điều kiện cho thành viên, hội viên của tổ
chức mình tham gia hòa giải ở cơ sở thì được khen thưởng theo quy định.

14


1.3.4. Hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở
Với tính chất là hoạt động tự nguyện, tự quản của cộng đồng dân cư,

Nhà nước chỉ thực hiện quản lý và hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở. Nếu
Nhà nước bao cấp hoàn toàn cho hoạt động này thì sẽ làm mất đi tính xã hội
hóa, tính tự nguyện, tự quản, đi ngược lại với bản chất của hoạt động hòa giải
ở cơ sở. Do đó, tại Điều 6 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định Nhà nước hỗ trợ
một phần kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở để biên soạn, phát hành tài
liệu; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải ở cơ sở; sơ
kết, tổng kết, khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở; chi thù lao cho
hòa giải viên theo vụ, việc và hỗ trợ các chi phí cần thiết khác cho hoạt động
hòa giải ở cơ sở. Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa
tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.
Nhằm cụ thể hóa các quy định trên, đồng thời xác định rõ cơ chế hỗ trợ,
nội dung hỗ trợ và việc lập dự toán ngân sách thực hiện công tác hòa giải ở cơ
sở, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP và Thông tư số 100/2014/TTLT-BTC-BTP
đã quy định cụ thể như sau:
-

Về nguyên tắc hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở, Điều 12

Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định: “Kinh phí cho quản lý nhà nước về
hòa giải ở cơ sở do ngân sách nhà nước bảo đảm theo phân cấp ngân sách
hiện hành. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tự cân đối được ngân
sách bố trí, sử dụng nguồn thu ngân sách của địa phương để hỗ trợ kinh phí
cho công tác hòa giải ở cơ sở. Ngân sách Trung ương chi bổ sung cho các tỉnh
chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ
sở trên cơ sở đề nghị của UBND cấp tỉnh. Việc sử dụng kinh phí hỗ trợ cho
công tác hòa giải ở cơ sở được thực hiện theo phân cấp ngân sách hiện hành.”
-

Về nội dung hỗ trợ kinh phí cho tổ hòa giải và hòa giải viên, Điều 13


Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định: “Chi hỗ trợ để mua văn phòng phẩm;
mua, sao chụp tài liệu phục vụ hoạt động của tổ hòa giải; tổ chức các cuộc
họp, sơ kết, tổng kết hoạt động của tổ hòa giải. Chi thù lao cho hòa giải viên

15


theo vụ, việc; chi hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh
hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải.”
-

Về lập dự toán ngân sách thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở, Thông tư

số 100/2014/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn việc lập dự toán ngân sách thực hiện
công tác hòa giải ở cơ sở như sau:
Lập dự toán ngân sách thực chi cho hoạt động quản lý nhà nước về hòa
giải ở cơ sở: Hằng năm, Bộ, ngành, đoàn thể trung ương và các địa phương
căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình và nhiệm vụ được giao theo quy
định của Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành, các
Chương trình, Đề án, Kế hoạch về hòa giải ở cơ sở đã được phê duyệt, xây
dựng kế hoạch các nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở của năm và
hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý ban hành kế
hoạch để làm căn cứ lập dự toán ngân sách; Căn cứ kế hoạch thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, các cơ quan, tổ chức, đơn vị dự toán
kinh phí chi tiết cùng với dự toán chi thường xuyên của cơ quan, tổ chức, đơn
vị mình gửi cơ quan tài chính cùng cấp để tổng hợp trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt giao dự toán ngân sách hàng năm. Việc lập dự toán kinh phí thực
hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn
thi hành Luật này; Các Bộ, ngành được giao nhiệm vụ chủ trì thực hiện Đề án
đã được phê duyệt, căn cứ vào mục tiêu, kế hoạch thực hiện Đề án lập dự toán

(phần kinh phí do trung ương bảo đảm) tổng hợp chung trong dự toán của Bộ,
ngành mình gửi Bộ Tài chính để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt và bố trí vào dự toán ngân sách hàng năm của Bộ, ngành chủ trì Đề án;
Các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ chủ trì thực hiện Đề án các cấp ở
địa phương, căn cứ vào mục tiêu, kế hoạch thực hiện Đề án lập dự toán thực
hiện các nhiệm vụ của Đề án tổng hợp chung trong dự toán của cơ quan, tổ
chức gửi cơ quan tài chính cùng cấp xem xét, tổng hợp trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt và bố trí vào dự toán ngân sách hàng năm để bảo đảm triển
khai thực hiện.

16


Về lập dự toán kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của tổ hòa giải và thù lao
cho hòa giải viên, căn cứ vào nhiệm vụ công tác hòa giải trong năm kế hoạch
và chế độ, chi tiêu tài chính hiện hành, công chức Tư pháp - Hộ tịch lập dự
toán chi hỗ trợ cho hoạt động của tổ hòa giải và thù lao cho hòa giải viên, gửi
UBND cấp xã xem xét, tổng hợp báo cáo UBND cấp huyện để xem xét, tổng
hợp báo cáo UBND cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh quyết
định, hỗ trợ kinh phí hoạt động của tổ hòa giải và thù lao cho hòa giải viên.
Về lập dự toán kinh phí hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi
ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải,
hàng năm, căn cứ thực tế hỗ trợ của năm trước, UBND cấp huyện lập dự toán
kinh phí hỗ trợ để tổng hợp vào dự toán ngân sách cấp mình, trình cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật về ngân sách
nhà nước và thực hiện phân bổ cho UBND cấp xã để chi trả tiền hỗ trợ theo
quyết định của UBND cấp huyện.
-

Đối với kinh phí ngân sách trung ương hỗ trợ cho công tác hòa giải ở


cơ sở của các tỉnh chưa, tự cân đối được ngân sách theo quy định tại Khoản 1
Điều 6 Luật Hòa giải ở cơ sở thì hằng năm, trên cơ sở tổng hợp dự toán ngân
sách thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn, UBND tỉnh tổng hợp dự
toán đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ theo quy định tại Khoản 2 Điều 2
Thông tư liên tịch này (bao gồm cả kinh phí thực hiện do ngân sách địa
phương bảo đảm và phần đề nghị ngân sách trung ương bổ sung có mục tiêu
cho địa phương) gửi Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp;
Thời hạn các tỉnh gửi đề nghị ngân sách trung ương bổ sung có mục tiêu
cho địa phương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước về thời hạn báo
cáo dự toán ngân sách nhà nước hằng năm (trước ngày 20 tháng 7); nếu quá
thời hạn gửi báo cáo theo quy định thì Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính không
chịu trách nhiệm tổng hợp nhu cầu đề nghị hỗ trợ kinh phí.
Bộ Tư pháp tổng hợp dự toán đề nghị ngân sách trung ương bổ sung có
mục tiêu cho địa phương trong năm kế hoạch gửi Bộ Tài chính thẩm định

17


trình cơ quan có thẩm quyền quyết định theo quy định của Luật Ngân sách
nhà nước. Sau khi cấp có thẩm quyền phê duyệt dự toán, Bộ Tài chính thông
báo kinh phí ngân sách trung ương bổ sung có mục tiêu cho địa phương thực
hiện công tác hòa giải ở cơ sở trong dự toán giao hàng năm của địa phương.
-

Về điều kiện được hưởng thù lao và thủ tục thanh toán thù lao cho hòa

giải viên
+ Điều kiện được hưởng thù lao của hòa giải viên: Theo quy định tại
Điều 14 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP, để được hưởng thù lao hòa giải viên

phải đáp ứng các điều kiện sau: Vụ, việc được tiến hành hòa giải và đã kết
thúc theo quy định tại Điều 23 của Luật Hòa giải ở cơ sở và hòa giải viên
không vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 10 của Luật Hòa giải ở cơ sở.
+ Mức hưởng thù lao: Theo quy định của Thông tư số 100/2014/TTLTBTC-BTP thù lao khi thực hiện vụ, việc hòa giải được chi với mức tối đa là
200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải.
+ Thủ tục thanh toán thù lao cho hòa giải viên được quy định cụ thể tại
Điều 15 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP như sau: Tổ trưởng tổ hòa giải lập hồ
sơ đề nghị thanh toán thù lao cho hòa giải viên, bao gồm: Giấy đề nghị thanh
toán thù lao của hòa giải viên có ghi rõ họ, tên, địa chỉ của hòa giải viên; tên,
địa chỉ tổ hòa giải; số tiền đề nghị thanh toán; nội dung thanh toán (có danh
sách các vụ, việc trong trường hợp đề nghị thanh toán thù lao cho nhiều vụ,
việc); chữ ký của hòa giải viên; chữ ký xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải và
xuất trình Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở để đối chiếu khi cần thiết.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, UBND cấp
xã xem xét, quyết định và trả thù lao cho hòa giải viên thông qua tổ hòa giải;
trường hợp quyết định không thanh toán cho hòa giải viên thì phải trả lời bằng
văn bản và nêu rõ lý do. Tổ hòa giải thực hiện trả thù lao cho hòa giải viên
theo quyết định của UBND cấp xã trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận
được thù lao.
- Về việc hỗ trợ hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến

18


sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hòa giải: Hòa giải viên khi gặp tai
nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe trong khi đang thực hiện hòa giải
hoặc trên đường đi và về từ nơi ở đến địa điểm thực hiện hòa giải trên tuyến
đường và trong khoảng thời gian hợp lý sẽ được hỗ trợ các khoản theo quy
định tại Điều 17 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP như sau: Chi phí cần thiết, hợp
lý cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút;

thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; nếu thu nhập thực tế của hòa giải viên
không ổn định hoặc không thể xác định được thì áp dụng cách tính theo thu
nhập bình quân hàng ngày của người làm công ăn lương chia theo khu vực
thành thị, nông thôn, loại hình kinh tế ngoài nhà nước trong thời gian cứu
chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút.
Gia đình của hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện
hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ một lần bằng tiền để chi phí cho việc
cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc hòa giải viên trước khi chết; người tổ chức
mai táng được hỗ trợ chi phí cho việc mai táng.
+

Mức hỗ trợ: Điều 4 Thông tư số 100/2014/TTLT-BTC-BTP quy định

việc hỗ trợ chi phí y tế cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị
mất hoặc giảm sút đối với hòa giải viên bị tai nạn trong khi thực hiện hoạt
động hòa giải ở cơ sở (bao gồm cả trường hợp hòa giải viên bị tai nạn được
cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc trước khi chết) được thực hiện như sau: Đối
với người bị tai nạn có tham gia bảo hiểm y tế thì việc thanh toán chi phí y tế
cho cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút đối với
người bị tai nạn được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế;
đối với người bị tai nạn không tham gia bảo hiểm y tế ngân sách nhà nước hỗ
trợ chi phí y tế cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất
hoặc giảm sút bằng mức hưởng chi phí khám bệnh, chữa bệnh của đối tượng
tham gia bảo hiểm y tế được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo quy định tại
Điểm d Khoản 1 Điều 22 của Luật bảo hiểm y tế.
Hỗ trợ thu nhập thực, tế bị mất hoặc bị giảm sút đối với hòa giải viên bị

19



×