Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.74 KB, 71 trang )

THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP
MÔN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TG & VN
Câu hỏi trắc nghiệm: Những nhận định sau đây đúng hay sai?
Lý giải vì sao, phân tích và chứng minh?
1. Nhà nước Văn Lang- Âu Lạc (696 – 682)(208 -179) TCN ra đời dựa trên chế
độ sở hữu tư nhân về ruộng đất phát triển triệt để và phân hóa xã hội sâu sắc.
2. Chiến tranh là yếu tố duy nhất thúc đẩy nhà nước Văn Lang Âu Lạc ra đời sớm.
3. Thời Văn Lang Âu Lạc ở Việt Nam chưa có Pháp luật thành văn.
4. Nhà nước phong kiến Trung Quốc và Việt Nam đều thiết lập và tồn tại dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất.
5. Nho giáo là cơ sở tư tưởng chính trị pháp lý duy nhất của nhà nước và pháp
luật PKVN.
(Nhà nước Phong kiến VN chỉ được thiết lập dựa trên cơ sở tư tưởng Nho giáo)
6. Nguyên tắc “Tôn quân quyền” được vận dụng một cách triệt để trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam qua các triều đại.
7. Nhà nước phong kiến Việt Nam thời Hậu Lê (1428 -1788) là nhà nước Quân
chủ quan liêu chuyên chế.
8. Các Bộ luật Phong kiến VN đều là các bộ luật tổng hợp.
9. Bên cạnh Bộ luật, pháp luật PKVN còn có các bộ Hội điển và các VBQPPL
đơn hành như: Chiếu, Dụ, Chỉ, Sắc, Lệnh, Chuẩn; các văn bản như Chế, Cáo,
Biểu, Tấu, Sớ, Châu Bản.
10. Hệ thống Ngũ hình trong bộ Quốc triều hình luật (QTHL) thời Hậu Lê tiếp thu
một cách chọn lọc, sáng tạo hệ thống Ngũ hình của pháp luật phong kiến Trung
Quốc.
11. Tính phổ biến là một đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt
Nam.
12. Trọng trưởng, trọng nam, trọng đích là nguyên tắc cơ bản của Luật thừa kế tài
sản thờ cúng (Hương hỏa, Tự sản) trong pháp luật Phong kiến Việt Nam.
13. Trong quy định của Luật thừa kế triều Lê, con gái trưởng được quyền thừa kế


Hương hỏa.
14. Tính dân tộc và tính xã hội nổi trội là đặc điểm của nhà nước và pháp luật
PKVN.
15. Chế độ sở hữu Nhà nước, làng xã và tư nhân luôn được coi trọng trong
PLPKVN.
16. Nguyên tắc Bát nghị, chiếu cố đối với người già, trẻ em, người tàn tật, người
dân tộc là một giá trị tiến bộ của cổ luật Việt Nam.
17. Nguyên tắc chịu trách nhiệm hình sự liên đới là một trong những nguyên tắc cơ
bản của cổ luật Việt Nam.
Câu hỏi lý thuyết:
1. Phân tích nguyên tắc và các biện pháp cải cách bộ máy nhà nước triều Lê Thánh
Tông ở cấp Trung ương và Địa phương (Đạo và cấp Xã) (1460 – 1497).
2. Đặc điểm của Hình phạt trong pháp luật PKVN.
3. So sánh hình phạt trong QTHL và HVLL.
4. Phân tích và chứng minh những quy định trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình
của PLPKVN bảo vệ một số quyền của người phụ nữ.


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

5. Phân tích và chứng minh những quy định trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình
của PLPKVN thể hiện nguyên tắc không tự do, bất bình đẳng, đề cao quyền của
người gia trưởng.
6. Những giá trị đặc sắc của Nhà nước và Pháp luật phong kiến Việt Nam.
Câu hỏi tổng quát:
7. Sự vận dụng học thuyết phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước tư sản thời cận hiện đại (Early Modern – Modern history) và đương đại
(Contemporary).
8. Sự kết hợp những yếu tố Phong kiến và yếu tố Tư sản trong nhà nước và pháp luật
Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp (1884 – 1945).

9. Những bài học, những giá trị lịch sử và tương lai của nhà nước và pháp luật VN
cùng với các nước Đông Nam Á; Các nước lớn (Anh, Pháp, Mỹ; Nga, Trung
Quốc; Đức, Italy, Nhật; Canada, Australia, Ấn Độ) cùng với các nước và các
Châu lục trên thế giới trong tiến trình lịch sử cổ đại, trung đại, cận hiện đại và
đương đại.
Vị trí vai trò và tương lai của Liên hiệp quốc - UN (United Nations – 193/247), cùng
với các tổ chức, hiệp hội, các liên minh khu vực (EU, Asean, APEC,…) và toàn cầu
(PAO, WHO, WTO, WB, ILO, IPU, UNICEF, UNESCO, INTERPOL,…)
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP - 2017
MÔN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TG & VN
1. Nhà nước Văn Lang- Âu Lạc (696 -179 TCN) ra đời dựa trên chế độ sở hữu
tư nhân về ruộng đất phát triển triệt để và phân hóa xã hội sâu sắc ?
Nhận định trên là S… bởi vì: Nhà nước Văn Lang- Âu Lạc (696 -179 TCN) ra
đời dựa trên chế độ sở hữu công về ruộng đất, xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sinh
hoạt, công cụ lao động và vũ khí; chế độ sở hữu tư nhân ruộng đất chưa hình thành và
sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc. Xã hội mới chỉ phân chia thành các tầng lớp có
quyền lợi, địa vị khác nhau; cơ cấu phân tầng xã hội chưa đến mức đối kháng giai cấp,
đẳng cấp như ở Hy Lạp La Mã và một số các nước Trung Đông.
Về chế độ sở hữu: sở hữu công về ruộng đất công xã (kẻ, chiềng chạ) chiếm ưu
thế; sở hữu tư về công cụ lao động, đồ dùng vật dụng, sản phẩm lao động, vũ khí nhà
ở phát triển chậm chạp. Nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước Văn Lang - Âu Lạc
đã chuyển sang kinh tế sản xuất với công cụ lao động bằng đồng sắt chiếm ưu thế.
Nông nghiệp đóng đóng vai trò chủ đạo, cùng với các ngành kinh tế bổ trợ như chăn
nuôi, trồng trọt, thủ công nghiệp, xuất hiện các ngành nghề như gốm, dệt, sơn, mây tre
đan, luyện kim đồng sắt đạt trình độ khá cao. Trống đồng Đông Sơn và các di vật khảo
cổ đã chứng minh thời kỳ này đã xuất hiện chế độ tư hữu về nhà ở, công cụ lao động,
sản phẩm lao động, đồ dùng vật dụng, vũ khí, nhạc khí, đồ trang sức, song chưa có
chế độ tư hữu về ruộng đất, thương mại chưa phát triển, chưa có tiền tệ lưu thông.
Nhìn chung, đặc thù kinh tế Văn Lang - Âu Lạc mang tính phương Đông và đậm nét
đặc thù của khu vực nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á. Yêu cầu của công cuộc trị

thủy trong nền nông nghiệp lúa nước đã duy trì chế độ sở hữu công về ruộng đất làng
xã lâu dài bền vững. Chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất phát triển không triệt để và
luôn bị kiểm soát kiềm chế bởi nhà nước.
Về phân hóa xã hội, gia đình trong xã hội Văn Lang - Âu Lạc là gia đình nhỏ, còn
nhiều tàn dư của chế độ mẫu hệ. Làng xóm (Kẻ, chiềng, chạ - Công xã nông thôn) là


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

cơ cấu xã hội quan trọng của nhà nước trong quản lý dân cư từ cơ sở. Vùng đồng bằng
Bắc bộ và bắc Trung bộ có 15 bộ lạc, trung tâm là Văn Lang. Xét trên góc độ giai cấp
đã có sự phân tầng xã hội về tài sản và địa vị: chủ yếu gồm 3 tầng lớp: Quý tộc, Lạc
dân và Nô tỳ. Tầng lớp thủ lĩnh quý tộc được cộng đồng suy tôn, kính trọng (Kinh
Dương Vương, Lạc Long quân, Âu Cơ, Hùng Vương và Thục Phán An Dương
Vương, Lạc hầu, Lạc tướng); Lạc dân (người dân trồng lúa) là lực lượng lao động
chính trong xã hội; Nô tỳ chủ yếu phục dịch trong các gia đình quý tộc. Mâu thuẫn xã
hội chưa sâu sắc đến mức đối kháng giai cấp như ở các Nhà nước chiếm hữu nô lệ
Phương Tây. Tính cách biệt đẳng cấp giữa các giai cấp, tầng lớp chưa sâu sắc như xã
hội Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, và Trung Hoa cổ đại.
2. Chiến tranh là yếu tố duy nhất thúc đẩy nhà nước Văn Lang Âu Lạc ra đời
sớm. (S)
Nhận định trên là S… bởi vì:
Nhà nước Văn Lang Âu Lạc ra đời khi nền kinh tế chưa đạt đến trình độ tư hữu
phổ biến, chưa xuất hiện chế độ tư hữu về ruộng đất và xã hội chưa hình thành giai
cấp đối kháng. Cũng như các nhà nước phương Đông khác, sự ra đời nhà nước Văn
Lang - Âu Lạc còn do sự tác động của nhu cầu trị thủy và chiến tranh chống xâm
lược.
Những yếu tố thúc đẩy sự ra đời sớm của nhà nước Văn Lang Âu Lạc
* Công cuộc trị thuỷ - thủy lợi là yếu tố thường xuyên tác động đến sự ra đời
của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc ở Việt Nam: Như chúng ta đã biết nước Việt cổ

xưa nằm trong phạm vi không gian chủ yếu là châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả
và sông Chu. Cư dân Việt cổ là cư dân sinh sống bằng nghề trồng lúa nước, là cư dân
sông nước ở nhà sàn đi thuyền độc mộc. Công cuộc chinh phục núi rừng, sông biển đã
tạo cho người Lạc Việt, Âu Việt một sức sống bền bỉ, kiên cường. Sông Hồng đổ từ
vùng núi cao xuống biển với độ dốc lớn, lũ lụt, hạn hán luôn là nguy cơ đe doạ cộng
đồng. Dân gian thường có câu ca như: Trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa,
trông gió, trông ngày, trông đêm. Trông cho chân cứng đá mềm, trời yên biển lặng
mới yên tấm lòng hoặc "Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy
bát cơm đầy”, “lụt thì lút cả làng". Các nguồn tư liệu truyền thuyết cũng phản ánh
công cuộc chinh phục thiên nhiên trị thủy của "Sơn Tinh” .Thủy Tinh dâng nước cao
bao nhiêu thì Sơn Tinh lại dâng núi cao lên bấy nhiêu. Chỉ có sức mạnh đoàn kết của
cả cộng đồng mới có thể chinh phục được nguồn nước tưới tiêu cho nền kinh tế nông
nghiệp trồng lúa nước và tự thân nền kinh tế của Việt cổ đã buộc người Việt đoàn kết
từ rất sớm. Họ dựa vào nhau, cùng tôn "Người tuấn kiệt lên làm tướng" cùng chinh
phục thiên nhiên, phát triển kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và bảo vệ cộng
đồng.
* Công cuộc chống xâm lược đã có tác động trực tiếp đến sự ra đời của Nhà
nước Văn Lang - Âu Lạc ở Việt Nam: Truyền thuyết, thư tịch cổ và khảo cổ học đều
chứng minh cho điểm đặc thù này. Các truyền thuyết Thánh Gióng, An Dương Vương
xây thành Cổ Loa, các ghi chép của cổ sử Trung Quốc và Việt Nam về giặc Ân, giặc
Man, giặc Thục, giặc Hồ tôn và điển hình là công cuộc chống đế chế Tần.
Dựa trên những điều kiện căn bản cho sự ra đời Nhà nước sơ khai đã được định
hình trong lịch sử như: kinh tế sản xuất, nguồn thu thuế lµ sản phẩm nông nghiệp, đã


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

xuất hiện tư hữu về tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng và vũ khí; đã có sự phân chia
đẳng cấp giữa tầng lớp thống trị thế tập với tầng lớp bị trị bình dân; đã có đủ các điều
kiện về lãnh thổ về dân cư và sự liên minh Bộ lạc với vai trò của các thủ lĩnh quân sự.

Sử liệu cũng đã khẳng định sự ra đời của Nhà nước Văn Lang -Âu Lạc như sau: "Đến
đời Trang Vương nhà Chu (696 - 682)TCN ở bộ Gia Ninh cóngười lạ dùng ảo thuật
áp phục được các Bộ lạc, tự xưng là Lạc Vương (Hùng Vương) đóng đô ở Văn Lang,
hiệu nước là Văn Lang, phong tục thuần hậu chất phát, chính sự dùng lối kết gút
(Việt sử lược).
Cũng theo các nguồn sử liệu “Hùng nhường ngôi choThục”“Hùng bị Thục
đánh đuổi mà lên thay”“ThụcPhán làcháu ngoại vua Hùng”Thục Phán có đủ sức
mạnh về quân sự để chống xâm lược Tần thắng lợi, sau dời đô về Phong Khê xây
thành Cổ Loa là trung tâm Nhà nước Âu Lạc. Thục Phán có các tướng văn võ tài năng
như Cao Lỗ, Nồi Hầu, Đinh Toán. Nhà nước Âu Lạc có quân đội hùng hậu, có vũ khí,
có kinh thành cố thủ còn lại di tích đến ngày nay. Theo cổ sử Trung Quốc, năm (217 –
214) TCN đế chế Tần mở rộng xâm lược xuống phương Nam người Âu Việt ẩn mình
trong núi, họ dựa vào kẻ, chiềng, chạ và núi rừng hiểm trở chống xâm lược Tần thắng
lợi. Tướng Tần là Đồ Thư bị giết chết, quân Tần thây phơi máu chảy hàng mấy chục
vạn. Khảo cổ học cũng đã chứng minh thành Cổ Loa với thành cao, hào sâu và hàng
vạn mũi tên đồng là một căn cứ phòng thủ mang tính quân sự khá điển hình.
Như vậy, trong khoảng 1000 năm trước công nguyên, xã hội Việt Nam thời cổ
đại đã có một bước phát triển mới với những điều kiện (nguyên nhân) cơ bản về kinh
tế xã hội cho sự ra đời Nhà nước sơ khai. Tuy nhiên quá trình phát triển kinh tế và sự
phân hoá xã hội diễn ra khá chậm chạp, kéo dài hàng nghìn năm và không triệt để.
Thế lực kinh tế, quyền lực xã hội của tầng lớp quý tộc chưa tạo nên sự đối kháng giai
cấp, chưa cách biệt hoàn toàn với các tầng lớp bình dân và nô tỳ. Sự ra đời Nhà nước
Văn Lang - Âu Lạc còn do sự tác động của công cuộc trị thuỷ, làm thủy lợi trong nền
kinh tế nông nghiệp lúa nước và yêu cầu của công cuộc đấu tranh tự vệ chống xâm
lược bảo vệ cộng đồng bộ lạc. Những yếu tố này không những tác động trực tiếp đến
sự hình thành Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc mà còn ảnh hưởng đếnbản chất, hình
thức, chức năng của Nhà nước Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử. Nhà nước Âu
Lạc trong thời đại Thục Phán An Dương Vương là một bước phát triển mới của Nhà
nước Văn Lang do sự tác động của công cuộc tự vệ chống xâm lược. Sự ra đời Nhà
nước Văn Lang - Âu Lạc đã đặt nền móng vững chắc cho những giá trị cơ bản của quá

trình hình thành phát triển Nhà nước và Pháp luật phong kiến Việt Nam sau này.
3. Thời Văn Lang Âu Lạc ở Việt Nam chưa có Pháp luật thành văn. (Đ)
Nhận định trên là Đ… bởi vì:
Qua sự phản ánh gián tiếp của truyền thuyết dân gian và sử sách cổ, có thể đưa ra
nhận định về Pháp luật của Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc như sau:
- Pháp luật tập quán: Tập quán pháp giữ vai trò chủ đạo và phổ biến nhất. Trước
hết, đó là một số tập quán vốn có từ thời nguyên thuỷ và được bảo đảm thực hiện
không chỉ bằng sự tự nguyện mà cả bằng biện pháp cưỡng chế của quyền lực nhà
nước. Tập quán pháp này điều chỉnh nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, như quan hệ sở
hữu, chiếm hữu và sử dụng ruộng đất, các quan hệ về trật tự an toàn xã hội... Loại tập
quán thứ hai mà từ trước đến nay ít được nhắc tới là tập quán chính trị, được hình


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

thành trong quá trình vận hành bộ máy nhà nước và điều hành xã hội, như tập quán
truyền ngôi của vua và các chức quan cho con cái, tập quán cống nạp, “ăn ruộng"... Lệ
của công xã nông thôn cũng là một loại tập quán pháp, khi những lệ đó được nhà nước
mặc nhiên thừa nhận và được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của tổ
chức công xã. Công xã nông thôn vừa là cơ sở kinh tế-xã hội của nhà nước, vừa mang
tính tự quản nên các lệ của công xã nông thôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời
sống chính trị xã hội bấy giờ.
Về quan hệ hôn nhân gia đình và chế độ hôn nhân một vợ một chồng, các truyền
thuyết Sơn Tinh-Thuỷ Tinh, Tiên Dung, Chử Đồng Tử, Trầu cau... cho thấy, hôn nhân
được cử hành qua hôn lễ, con gái được cưới về nhà chồng và cũng đã có việc thách
cưới, người con gái cũng có vai trò chủ động trong hôn nhân và vẫn được tôn trọng
trong gia đình... Về quan hệ tài sản, qua tài liệu khảo cứu về mộ táng, người chết cũng
được chia tài sản, điều đó chứng tỏ người sống khi ra ở riêng đã được phân chia tài
sản. Về quan hệ sở hữu ruộng đất, ruộng đất thuộc quyền sở hữu chung của cả công
xã, còn các thành viên chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng. Về hình phạt, người phạm

trọng tội có thể bị phạt lưu đày, sau khi thụ hình xong có thể được phục hồi quyền lợi
(truyền thuyết Mai An Tiêm) hoặc có thể bị giết chết (truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng
Thuỷ)...
- Pháp lệnh khẩu truyền: (Lệnh miệng) Ý chí của người thống trị đối với xã hội
nhiều khi được ban ra bằng miệng và không được ghi bằng văn bản. Trong truyền
thuyết dân gian có những câu: Vua truyền rằng..., vua ban rằng... Những mệnh lệnh đó
được đảm bảo thực hiện bằng cả sự cưỡng chế nên đó là luật pháp. Cũng theo truyền
thuyết dân gian, những lệnh miệng của vua thường được sứ giả truyền đi các nơi. Ở
các cấp chính quyền địa phương, hình thức pháp luật khẩu truyền thường được dùng
để giải quyết những vụ việc cụ thể hoặc đột xuất, như thăng quan bãi chức, xử tội, tổ
chức chống giặc... Trong điều kiện tổ chức nhà nước còn đơn giản, việc điều hành bộ
máy nhà nước còn chưa phức tạp, khi mà uy tín của vua và quý tộc quan liêu còn lớn
thì hình thức pháp luật khẩu truyền chắc chắn là có hiệu lực và phổ biến. Ngay đến cả
sau này, trong thời kì phong kiến, tuy luật pháp thành văn được phát triển nhưng hình
thức pháp luật khẩu truyền vẫn xuất hiện thường ngày từ vua chúa, quan lại.
- Pháp luật thành văn: Người Việt cổ thời Văn Lang Âu Lạc chưa tìm thấy chữ
viết và Pháp luật thành văn. Mặc dù hiện nay vẫn chưa rõ thời đại Hùng Vương đã có
chữ viết hay chưa, nên cũng chưa biết là thời bấy giờ có pháp luật do bộ máy cai trị
ban bố hay không. Tuy nhiên, có thể giả định rằng, khi phạm vi lãnh thổ của nhà nước
đã được mở rộng hơn nhiều so với các thị tộc, bộ lạc thì nhất định phải có cách thức
thể hiện và truyền mệnh lệnh của người chỉ huy bằng các dấu hiệu đặc thù, ngắn gọn
và cụ thể. Các hình thức biểu hiện đó có thể rất phong phú, sinh động và đó sẽ là đề
tài thú vị cho sự nghiên cứu để tìm lời giải đáp.
Về nội dung pháp luật của nhà nước Văn Lang-Âu Lạc cũng chỉ được phản ánh
một cách gián tiếp, mơ hồ trong truyền thuyết dân gian và thư tịch cổ, trong đó, giữa
luật lệ và phong tục tập quán còn chưa được phân định rõ nét. Tuy nhiên, qua các
truyền thuyết dân gian và thư tịch cổ có thể thấy một số loại quan hệ cơ bản trong xã
hội đã được pháp luật điều chỉnh như:
Tóm lại, Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc đã có pháp luật nhưng đó là hình thức pháp
luật sơ khai và chủ yếu là tập quán pháp, còn mang đậm tàn dư của chế độ nguyên



THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

thuỷ và như Việt sử lược nhận xét, đó là xã hội có "phong tục thuần hậu chất phác".
4. Nhà nước phong kiến Trung Quốc và Việt Nam đều thiết lập và tồn tại dựa
trên chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất ?
Nhận định trên là S… bởi vì:Nhà nước phong kiến Trung Quốc thiết lập và tồn tại
dựa trên chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất. Còn nhà nước phong kiến Việt Nam
thiết lập và tồn tại dựa trên chế độ sở hữu tư nhân ruộng đất vừa và nhỏ - tiểu tư hữu.
Phong kiến Trung Quốc: Chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và chế độ công
hữu đất đai là cơ sở tồn tại và phát triển của nhà nước trong suốt tiến trình lịch sử (221
TCN – 1911). Từ thời Tây Chu, Đông Chu Xuân Thu chiến Quốc đã dần xuất hiện chế
độ tư hữu ruộng đất của các vương hầu quý tộc. Trải qua các triều đại từ nhà Tần,
Hán, Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, chế độ sở hữu tư nhân ở Trung Quốc
luôn tồn tại và phát triển với quy mô lớn. Nguyên nhân từ lãnh thổ rộng lớn, chính
sách ruộng đất của nhà nước và chế độ thừa kế theo nguyên tắc trọng nam, trọng
trưởng (Đích tử, Đích tôn) theo nội tộc. Theo sử liệu, ruộng đất tập trung vào trong tay
các điền trang vương hầu, quý tộc, đại địa chủ: thời Tần Hán Trương Vũ có hơn 400
khoảnh đất (1 khoảnh = 100 mẫu đất), Lương Ký ruộng đất chu vi hơn 1000 dặm; thời
Đường Lý Tịch có 1000 khoảnh, Lư Tùng Nguyên được mệnh danh là “ông nhiều
ruộng”, Lý Bành Niên là “ông nghiện đất”; thời Nguyên có chủ ruộng có tới 20 000
khoảnh, ruộng tư chiếm đa số; thời Minh có sự can thiệp của nhà nước tập quyền, giới
hạn ruộng đất “Hạn điền” theo biên độ sở hữu tư lớn là từ 100 khoảnh đến tối đa 1000
khoảnh, song thực tế cuối Minh sang nhà Thanh sở hữu tư đại địa chủ lên đến 10000 20000 khoảnh. Trải qua các triều đại, nhà nước pháp luật TQ bảo vệ sở hữu công tư về
ruộng đất.
Phong kiến Việt Nam:Chế độ sở hữu tư nhân ruộng đất vừa và nhỏ (Điền sản - thổ
canh, thổ cư), cùng với chế độ công hữu đất đai của nhà nước và làng xã với lãnh thổ
quốc gia thuộc Bắc bộ, Trung bộ sau mở vào Nam bộ là cơ sở tồn tại và phát triển của
nhà nước phong kiến Việt Nam (968 – 1884). Từ thời Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Mạc, Lê –

Trịnh đến triều Nguyễn, chế độ sở hữu ruộng đất luôn được nhà nước điều chỉnh bằng
một số chính sách. Thời Lý, nhà nước thừa nhận quyền sở ruộng đất với những quy
định về mua bán tài sản ruộng đất (Điển mại, đoạn mại, điển cố). Thời Trần, năm
1254, nhà nước quy định về “bán ruộng cho dân với giá mỗi diện là 5 quan tiền”.
Năm 1266, quy định về lập Điền trang tư, chủ điền trang là những người trong hoàng
tộc. Năm 1400 – 1407, Hồ Quý Ly ban hành “Chính sách hạn điền”. Năm 1428, Lê
Thái Tổ ban “Phép quân điền”. Đàng Trong mở rộng quyền sở hữu đất đai cho các
“Đại điền chủ”, với hàng trăm mẫu ruộng (1công đất Nam bộ = 10.000 m 2; 1 sào Nam
bộ = 1000 m2). Triều Nguyễn thời Gia Long, Minh Mệnh thử nghiệm “Quân điền chế”
ở Quy Nhơn Bình Định, sau không thực hiện vì không hiệu quả. Đơn vị đo lường
ruộng đất thường tính theo mẫu, sào, thước, tấc. Sở hữu điền sản công (nhà nước và
Làng xã) và tư (thổ canh, thổ cư), là cơ sở của chính sách thuế đinh điền. Luật thừa kế
quy định chia đều điền sản cho các con đã góp phần cùng với quân điền trong chế độ
ruộng đất công làng xã kiềm chế sở hữu ruộng đất thời phong kiến ở Việt Nam luôn ở
quy mô vừa và nhỏ.
5. Nho giáo là cơ sở tư tưởng chính trị pháp lý duy nhất của nhà nước và pháp
luật PKVN.


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

(Nhà nước Phong kiến VN chỉ được thiết lập dựa trên cơ sở tư tưởng Nho
giáo) (S)
Nhận định trên là S… bởi vì: Bên cạnh Nho giáo còn có các tư tưởng chính trị
pháp lý khác phù hợp với dân tộc Việt Nam và được kết hợp hài hòa trong nghìn năm
Quân chủ.
Tư tưởng Nho giáo
Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ thế kỉ đầu Công nguyên và trong suốt
thời kì Bắc thuộc. Dưới thời Lý – Trần, cùng với Phật giáo, Nho giáo đã góp phần
hình thành đường lối cai trị “thân dân” của hai triều đại này. Đến thời Hậu Lê, Nho

giáo giành được địa vị thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính trị - pháp lí chính
thống của nhà nước phong kiến Việt Nam. Từ đó, những nội dung và quan điểm chính
trị - pháp lí cơ bản của Nho giáo trở thành khuôn vàng thước ngọc để giai cấp phong
kiến xây dựng các thiết chế chính trị và luật pháp.
* Nội dung cơ bản của Nho giáo
Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức. Nội dung cơ bản về đạo đức của Nho
giáo trong hơn 2000 năm phát triển là Ngũ luân và Ngũ thường (luân thường). Trên ba
cấp độ quốc gia, gia đình, xã hội, Nho giáo đề cao Ngũ luân (vua tôi, cha con, chồng
vợ, anh em, bè bạn) và dùng thuyết âm dương để xác lập trật tự trên dưới giữa các chủ
thể trong các quan hệ đó. Ngũ luân là quan trọng nhất trong đạo đức Nho giáo và
trung hiếu là hai đức hàng đầu trong ngũ luân. Ngũ thường là năm đức Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín và đức Nhân được coi là gốc của Ngũ thường. Vì vậy, Nho giáo rất
chú trọng tới việc tu thân theo đạo luân thường và coi đó là gốc của chính trị. Tu
thân là để tề gia, để thiết lập trật tự gia đình gia trưởng phong kiến làm cơ sở cho
đạo trị quốc và là tiền đề cho trật tự xã hội. Như vậy, đạo đức Nho giáo đã xác lập
chế độ tông pháp gia trưởng làm cơ sở cho chế độ quân chủ chuyên chế.
* Quan điểm chính trị - pháp lí cơ bản của Nho giáo
Trước hết, quan điểm Thiên mệnh của Nho giáo cho rằng Trời là đấng hoá công
sinh ra muôn vật, sinh ra dân: “Trời giúp kẻ hạ dân, dựng ra vua”. (1) Trời chọn người
thông minh và có đức để trao cho mệnh trời, thay trời trị dân. Người đó thường được
gọi là Thiên tử. Quan điểm thiên mệnh đã thần bí hoá vương vị và vương quyền, đặt
cơ sở cho sự kết hợp vương quyền với thần quyền. Đồng thời, quan điểm thiên mệnh
cũng đặt ra cho nhà vua trách nhiệm rất lớn trước dân chúng. Nhận mệnh trời, nhà
vua phải kính trời, kính trời thì phải yêu dân. Ở khía cạnh này, quan điểm thiên
mệnh có ý nghĩa tích cực và là yếu tố kiềm chế quyền lực của nhà vua.
Thứ hai, quan điểm Tôn quân quyền của Nho giáo đề cao địa vị duy nhất, chí tôn
và thiêng liêng của nhà vua: “Trời không có hai mặt trời, trăm họ không có hai vua
thiên tử”;(2) đề cao quyền uy tối thượng và đòi hỏi tập trung toàn bộ quyền lực nhà
nước và quyền lực nhà nước tối cao vào nhà vua: “Chỉ có vua có thể ban phúc, ra uy,
ban bổng lộc”.(3)

Thứ ba, quan điểm chính danh của Nho giáo hàm chứa ba yêu cầu đối với mỗi cá
nhân trong bộ máy Nhà nước: Địa vị đạt được phải chính đáng, địa vị phải tương xứng
với tài đức, danh nào phận ấy. Đồng thời, quan điểm chính danh cũng xác lập trật tự
1().Xem: Kinh thư, Nxb. VHTT, Hà Nội, 2004, tr. 285.
2().Xem: Mạnh Tử, in trong Tứ Thư, Nxb. QĐND, Hà Nội, 2003, tr. 709.
3().Xem: Kinh thượng thư, Sđd, tr. 297.


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

trên dưới theo danh phận rất nghiêm ngặt ở cả ba cấp độ gia đình, xã hội và quốc gia.
Thứ tư, quan điểm Pháp tiên vương của Nho giáo cho rằng các bậc quân vương
“nên theo phép cũ của các ông, cha mình mà ứng dụng theo thời. Dân trị, hay loạn là ở
đó. Hãy theo những việc đã làm của ông cha”. (4) Quan điểm này là lực cản làm Nhà
nước phong kiến Việt Nam chậm đổi mới đường lối cai trị cho phù hợp với xu hướng
phát triển của thời đại.
Từ những nội dung và quan điểm chính trị-pháp lí cơ bản đó, về phương thức cai
trị, Nho giáo chủ trương Đức trị, lấy việc tu thân, giáo hoá dân bằng lễ nhạc là chủ
yếu. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều xuất phát từ tư tưởng Nho giáo để xây
dựng các thiết chế nhà nước và pháp luật và hoạch định đường lối cai trị của mình.
Dưới thời Nguyễn, vua Thiệu Trị đưa ra bốn phương châm cai trị là: Kính thiên,
Pháp tổ, Cần chính, Ái dân.
Bên cạnh Nho giáo là tư tưởng Pháp trị
Là học thuyết cai trị ra đời ở Trung Quốc từ thời kì Xuân thu – Chiến quốc, với ba
yếu tố Pháp, Thế, Thuật, nội dung cơ bản của học thuyết pháp trị thể hiện ở những
điểm chính yếu sau: Dùng pháp luật làm công cụ trị nước, pháp luật phải phù hợp với
điều kiện xã hội, thực thi pháp luật phải nghiêm minh và công khai, mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật.Bậc làm vua phải củng cố địa vị độc tôn và đề cao uy
quyền, phải thâu tóm toàn bộ quyền lực nhà nước để bảo đảm cho pháp luật được thi
hành. Bậc làm vua phải có thuật cai trị như thuật dùng người, thuật kiểm tra giám sát,

thuật thưởng phạt…Tư tưởng pháp trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc xây dựng các
thiết chế Nhà nước và pháp luật và hoạch định đường lối cai trị của Nhà nước phong
kiến Việt Nam. Lê Thái Tổ từng hạ lệnh rằng “Từ xưa đến nay, trị nước phải có pháp
luật, người mà không có pháp để trị thì loạn. Cho nên bắt chước đời xưa đặt ra pháp
luật…”(5) để dạy các quan và dân chúng chớ có phạm pháp. Lê Thánh Tông đề cao tư
tưởng thượng tôn pháp luật trong hoạt động cai trị của vua quan phong kiến: “Pháp
luật là phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi phải tuân theo”. (6)
Tư tưởng từ bi hỉ xả của đạo Phật cũng ảnh hưởng đến chính sách của nhà nước Lý
Trần
Đạo Phật được truyền bá vào nước ta từ đầu Công nguyên và đến thế kỉ II, ở Việt
Nam đã có tổ chức tăng đoàn và chùa tháp. Tư tưởng luân hồi, giải thoát và từ bi hỉ xả
của đạo Phật gần gũi với tín ngưỡng và nguyện vọng của cư dân Việt. Trong hơn mười
thế kỉ Bắc thuộc, Phật giáo đã có những đóng góp to lớn cho phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc. Vào đầu thời kì phong kiến độc lập, với xu thế giải Hán hoá, đạo Phật
có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị-tín ngưỡng của các triều đại phong kiến
Việt Nam, giúp các triều đại thống nhất được tín ngưỡng, thống nhất nhân tâm – điều
kiện cần thiết để thống nhất đất nước, xây dựng nhà nước tập quyền. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực chính trị còn ở mức hạn chế bởi giáo lí đạo Phật là
học thuyết chủ yếu hướng tới thiền tâm cho con người.
Các tư tưởng truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành từ trong cội nguồn của
Lịch sử
Quy luật phát triển cơ bản của lịch sử Việt Nam là dựng nước đi đôi với giữ nước
4().Xem: Kinh thượng thư, Sđd, tr. 360.
5().Xem: Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb. VHTT, Hà Nội, 2004, tập 2, tr. 88.
6().Xem: Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, tr. 259.


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

đã hun đúc nên tư tưởng yêu nước truyền thống và độc lập tự chủ. Tư tưởng truyền

thống đó luôn tương tác với tư tưởng chính trị pháp lí chính thống của Nhà nước
phong kiến Việt Nam. Ở Việt Nam, trung quân phải ái quốc; đại nghĩa là phải biết đặt
quyền lợi của dân tộc, của quốc gia lên trên quyền lợi của gia tộc, dòng họ. Những
hành vi chính trị của Thái hậu Dương Vân Nga, của Quốc công Tiết chế Trần Hưng
Đạo… thể hiện sâu sắc điều đó. Tư tưởng truyền thống ấy còn được thể hiện trong tư
tưởng và chính sách cai trị nghiêm khắc của Lê Thánh Tông: “Một thước núi, một tấc
sông của ta không nên vứt bỏ. Nếu… dám lấy một thước một tấc đất của Thái Tổ mà
đút mồi cho giặc thì phải tội tru di”. (7) Đồng thời với các tư tưởng truyền thống, cấu
trúc xã hội truyền thống “nhà – làng – nước” đã góp phần hình thành thế ứng xử chính
trị hoà đồng, mềm dẻo giữa làng và nước.
Như vậy, hình thành trên cơ sở kinh tế-xã hội có những đặc trưng riêng và luôn có
sự tương tác giữa tư tưởng chính trị-pháp lí chính thống với các tư tưởng chính trịpháp lí truyền thống và phi chính thống khác, đường lối cai trị của Nhà nước phong
kiến Việt Nam là đường lối cai trị kết hợp giữa đức trị với pháp trị. Vua Gia Long đã
tổng kết khái quát đường lối cai trị đó trong lời tựa của bộ Hoàng Việt luật lệ: “Bậc
thánh nhân cai trị thiên hạ bằng hình phạt và đức hoá, hai việc ấy xưa nay chưa để
lệch lạc bao giờ”.(8)
6. Nguyên tắc Tôn quân quyền được vận dụng một cách triệt để trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam qua các triều đại ?
Nhận định trên là S… bởi vì:
Tôn quân quyền là một trong những học thuyết chính trị - pháp lý quan trọng
của nhà nước phong kiến Trung Quốc có ảnh hưởng đến Việt Nam. Học thuyết này do
Khổng Tử đề xướng, Mạnh Tử phát triển thành một học thuyết hoàn chỉnh. Học thuyết
cho rằng: quyền chủ tể của thiên hạ chỉ giành cho một người là Đế hoặc Vương. Quân
quyền ảnh hưởng tới cả thiên hạ nên người nắm quân quyền phải có chính nghĩa, thiện
thì được thiên mệnh, bất thiện thì mất thiên mệnh. Nguồn gốc quân quyền của đế
vương là do Thiên mệnh. Nguồn gốc của Thiên mệnh là bởi hợp thời thế và được lòng
dân. Tôn quân quyền đã dần trở thành nguyên tắc chủ đạo trong tổ chức và hoạt động
của các triều đại phong kiến Trung Quốc và Việt Nam.
Tôn quân quyền thể hiện điển hình trong tổ chức và hoạt động của nhà nước
PKVN thời Lê Thánh Tông, Gia Long và Minh Mệnh. Vua nắm giữ quyền tối cao về

lập pháp, hành pháp tư pháp, thống lĩnh quân đội, chủ trì lễ nghi tôn giáo, nắm cả
vương quyền và thần quyền. Mục tiêu cơ bản của cuộc cải tổ bộ máy nhà nước của Lê
Thánh Tông là nhằm tập trung tuyệt đối quyền lực nhà nước vào trong tay nhà vua
theo nguyên tắc "Tôn quân quyền" của Nho giáo và tăng cường hiệu lực của bộ máy
quan liêu, cũng là đề cao quyền lực của hoàng đế. Thời Minh Mệnh đặt “Lệ tứ bất”
“Bát quyền”, với tư tưởng “Tôn quân đại thống nhất”, thể hiện điển hình quan điểm
Tôn quân quyền.
Tuy nhiên nguyên tắc này trong từng thời kỳ có sự vận dụng linh hoạt và
sáng tạo.
Các vị hoàng đế Đại Việt thời Lý - Trần dù đã nắm giữ toàn bộ vương quyền và
thần quyền nhưng việc thực hiện quyền lực đó còn chưa tới mức độ chuyên chế; họ
7().Xem: Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, tr. 344.
8().Xem: Cổ luật Việt Nam – Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009, tr. 173.


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

vừa là hoàng đế của nhà nước quân chủ vừa là thủ lĩnh của cả cộng đồng dân tộc; vừa
là người đại diện cao nhất của giai cấp thống trị nhưng vẫn mang dáng dấp “người cha
của số đông các công xã”. Dưới quyền vua là Tể tướng trực tiếp điều hành đội ngũ
quan lại trong triều. Tể tướng được gọi bằng nhiều chức danh khác nhau tuỳ từng thời
kì: Thái sư, Tướng quốc, Tướng công, Phụ quốc, Bình chương quân quốc trọng
sự,...Thường chỉ có một Tể tướng nhưng có khi có đồng tể tướng (tả, hữu). Tể tướng
có chức năng giúp nhà vua điều hành toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước và các
quan chức trong triều, là người có rất nhiều quyền hành. Thời Trần còn có cơ chế Thái
Thượng Hoàng chi phối uy quyền của nhà vua (Quan gia). Thậm chí Thượng hoàng
còn có uy quyền hơn nhà vua, như Thượng hoàng Trần Minh Tông.
Trong mô hình “Lưỡng đầu chế” Lê – Trịnh, vai trò giữa vua và chúa là“Hoàng
gia giữ uy phúc và trị vì, Vương phủ nắm quyền bính và cai trị”. Đó cũng chính là
nguyên tắc cơ bản và chủ đạo chi phối toàn bộ thể chế Lưỡng đầu chế vua Lê - chúa

Trịnh. Trên danh nghĩa pháp lí, chỉ có Lê đế mới được coi là vị vua độc tôn duy nhất
trên toàn cõi Đại Việt và chỉ có vua Lê mới có niên hiệu, còn Trịnh Vương vẫn chỉ là
bầy tôi của nhà vua nhưng là bầy tôi đặc biệt, vượt lên trên tất cả bầy tôi khác. Về
danh nghĩa, đế quyền - quyền lực nhà nước là của vua Lê, còn quyền của chúa Trịnh là
quyền phái sinh bắt nguồn từ đế quyền của vua. Chúa Trịnh nắm hầu hết quyền hành
cai trị đất nước, vua Lê chỉ tồn tại trên danh nghĩa, rất ít quyền lực nhưng vẫn là
nguyên thủ, người đứng đầu dân tộc quốc gia. Địa vị, chức tước và quyền lực của
chúa Trịnh Nguyễn là cha truyền con nối, cũng như sự thế tập ngôi báu trị vì của nhà
vua. Điều đó trở thành tập quán chính trị bền vững của cơ chế lưỡng đầu Lê - Trịnh và
chi phối toàn bộ cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, mối quan hệ của các cơ quan phụ tá cho
vua ở triều đình và phụ tá cho chúa ở Chánh đường, Ngũ phủ, Phủ liêu.
Như vậy, trong một số giai đoạn, nguyên tắc “Tôn quân quyền” được vận dụng
một cách linh hoạt, mềm dẻo trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phong
kiến Việt Nam. Nhà vua là biểu trưng cho khối đoàn kết tinh thần của quốc gia dân
tộc.
7. Nhà nước phong kiến Việt Nam thời Hậu Lê (1428 – 1788) là nhà nước quân
chủ quan liêu chuyên chế ?
Nhận định trên là S… bởi vì: Nhà nước phong kiến Việt Nam thời Hậu Lê là nhà
nước quân chủ trải qua hai giai đoạn: (i) Lê Sơ:quân chủ chuyên chế; (ii) Lê Trịnh:quân chủ hạn chế (còn gọi là quân chủ Lưỡng đầu chế hoặc Nhị nguyên
chế), trong giai đoạn này vua Lê chỉ tồn tại trên danh nghĩa còn thực quyền về hết phủ
Chúa Trịnh.
Thời Lê Sơ (1428 – 1527): Điển hình Lê Thánh Tông là quân chủ chuyên chế. Cải
cách nhà nước Lê Thánh Tông: Tôn quân quyền, mọi quyền lực đều tập trung trong
tay Hoàng đế.
Thời Lê – Trịnh (1533 – 1599 – 1788) là quân chủ hạn chế thể hiện:
- Địa vị và quyền hạn giữa vua Lê và chúa Trịnh: Vua Lê là nguyên thủ
nhưng không nắm thực quyền; Chúa Trịnh được phong Vương với đầy đủ
nghi thức và danh vị; toàn quyền điều hành đất nước trong thực tiễn.
Nguyên tắc là: “Hoàng gia giữ uy phúc, Vương phủ nắm quyền bính”. Chúa
Trịnh từng bước thâu tóm quyền lực của vua Lê: từ Tam phiên đến các

quyền về lập pháp, hành pháp, tư pháp, quân sự, an ninh, kinh tế ngoại giao,
thần quyền; đối nội và đối ngoại


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

-

Mối quan hệ triều đình vua Lê và Chánh đường phủ chúa: quyền hành về
hết phủ Chúa Trịnh (1599 – 1786).
- Mối quan hệ Lục bộ, Lục phiên: từ Tam phiên đến Lục phiên (1718). Lục
phiên từng bước thâu tóm hết quyền của Lục bộ.
Phan Huy Chú nhận xét: "Nhà Lê từ thời Trung hưng về sau, chúa Trịnh chuyên
giữ chính sự, quyền hành về hết phủ chúa, nhà vua chỉ mang hư danh ở trên, gọi là
còn phận vị chỉ có khác ở màu áo mặc và nghi vệ mà thôi". Như vậy, vai trò giữa vua
và chúa là Hoàng gia giữ uy phúc và trị vì, Vương phủ nắm quyền bính và cai trị. Đó
cũng chính là nguyên tắc cơ bản và chủ đạo chi phối toàn bộ thể chế lưỡng đầu vua Lê
- chúa Trịnh.
Nhìn chung lại, chúa Trịnh nắm hầu hết quyền hành cai trị đất nước, còn vua Lê
chỉ tồn tại trên danh nghĩa, rất ít quyền lực. Địa vị, chức, tước và quyền lực của chúa
được cha truyền con nối, cũng như sự thế tập ngôi báu hư vị của vua. Điều đó trở
thành tập quán chính trị bền vững của cơ chế lưỡng đầu Lê - Trịnh và chi phối toàn bộ
cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, mối quan hệ của các cơ quan phụ tá cho vua ở triều đình
và phụ tá cho chúa ở phủ liêu. Đây là loại cơ quan cơ bản của triều đình và của phủ
chúa, thể hiện rõ nhất sự phân định cơ cấu quyền hạn giữa hai bên vua và chúa.
Nhà nước phong kiến Việt Nam thời Hậu Lê là nhà nước quân chủ trải qua hai giai
đoạn quân chủ chuyên chế và quân chủ hạn chế còn gọi là quân chủ Lưỡng đầu chế
hoặc Nhị nguyên chế: Vua Lê chúa Trịnh và chúa Nguyễn.
[Thể chế nhà nước Lưỡng đầu chế chỉ xuất hiện ở VN thời Lê Trung Hưng?]
Nhận định trên là S… bởi vì:Thể chế nhà nước “Lưỡng đầu” còn gọi là “Nhị nguyên

chế” nghĩa là có hai người cầm quyền đứng đầu nhà nước;phân biệt với “Nhất nguyên
chế”- Quyền lực tập trung trong tay một người đứng đầu. Thể chế này không chỉ có ở
VN mà còn có ở một số quốc gia khác như: chế độ hai vua ở La Mã, chế độ Thiên
Hoàng & Mạc Phủ tướng quân ở Nhật Bản, chế độ Thái thượng hoàng trong lịch sử
PK Trung Quốc.
Trong lịch sử quyền lực Việt Nam, một số thời kỳ có hai người cầm quyền:
Thứ nhất, thời Hai Bà Trưng (40-42): Sau khởi nghĩa Trưng Trắc, Trưng Nhị cùng lên
ngôi vương, lãnh đạo nhân dân Lạc Việt giành quyền tự chủ, xá thuế cho dân xây
dựng chính quyền độc lập.
Thứ hai, thời Trần với chế độ Thượng hoàng& Quan gia (1225 – 1400): Vua cha và
vua con cùng trị vì đất nước. Khi Thái tử trưởng thành các vị vua Trần thường nhường
ngôi cho con, lên chức Thái thượng hoàng, giúp vua trẻ điều hành nhà nước. Vua cha
thường về ở phủ Tức Mặc thiên Trường, vua con ở Kinh đô Thăng Long. Giúp việc có
Tam Sảnh là Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh và Môn hạ sảnh. Cơ chế này có ý nghĩa
cơ bản là: giúp vua trẻ tập sự trị vì đất nước; phòng ngừa sai lầm trong điều hành
chính sự. Chính vậy nên độ tuổi làm vua nhà Trần rất trẻ thường từ 25 – 38. Cá biệt
thời Trần Minh Tông, vì vua trẻ không điều hành được triều chính nên Thượng hoàng
phải tham gia chính sự và là người trực tiếp nắm quyền lực và điều hành đất nước. Cơ
chế này có ưu điểmphát huy năng lực tuổi trẻ của các vị vua.
Thứ ba, Thời nhà Mạc (1527 – 1592) thời Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, vua
Mạc cũng áp dụng cơ chế này. Song quy định về thẩm quyền của vua con còn hạn chế,


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

chưa rõ như thời Trần.
Thứ tư, thời Lê Trung hưng: Lưỡng đầu chế Lê Trịnh (1599 – 1786). Đây là cơ chế
Lưỡng đầu chế của hai dòng họ, khác huyết thống. Để tạo sự liên kết dòng họ, các
chúa Trịnh thường lấy công chúa con của vua Lê. Thể chế Lê Trịnh được luật hóa, xây
dựng thành bộ máy công quyền: Triều đình vua Lê & Chánh đường Phủ chúa. Vai trò

giữa vua và chúa là “Hoàng gia giữ uy phúc và trị vì, Vương phủ nắm quyền bính và
cai trị”. Vua Lê là nguyên thủ nhưng không nắm thực quyền; Chúa Trịnh được phong
Vương với đầy đủ nghi thức và danh vị; toàn quyền điều hành đất nước trong thực
tiễn. Chúa Trịnh từng bước thâu tóm quyền lực của vua Lê: từ Tam phiên (Hộ phiên,
Binh phiên và Thủy sư phiên) đến Lục Phiên; nắm giữ các quyền về lập pháp, hành
pháp, tư pháp, quân sự, an ninh, kinh tế, ngoại giao, thần quyền; đối nội và đối ngoại.
Cũng có khi chúa Trình thay vua Lê làm Lễ tế tại Điện Kính thiên & Đàn xã tắc.
Lưỡng đầu chế còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa chúa Nguyễn Đàng Trong
và vua Lê. Năm 1744, chúa Nguyễn Phước Khoát mới xưng vương. Tam chế còn có ở
thời Ngô Xương Ngập, Ngô XươngVăn và Dương Tam Kha – Hậu Ngô Vương; Thời
Quang Trung, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ. Còn phần lớn lịch sử quyền lực tập trung
trong tay nhà vua.
8. Các Bộ luật Phong kiến VN đều là các bộ luật tổng hợp. (S)
Xem GT và vở ghi
Bộ luật: Theo sử sách cổ còn lại cho biết, các triều đại của phong kiến Đại Việt đã
xây dựng được 5 bộ luật, bộ Hình thư đời Lý, bộ Hình thư đời Trần, bộ Quốc triều
hình luật đời Lê, bộ Quốc triều khám tụng điều lệ đời Lê, bộ Hoàng Việt luật lệ đời
Nguyễn. Trong đó, Quốc triều hình luật là bộ luật tiêu biểu nhất. Trừ bộ Quốc triều
khám tụng điều lệ là Bộ luật chuyên ngành về tố tụng, các bộ luật khác đều là những
bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều ngành luật: Luật hình sự, luật dân sự, luật hôn nhân
gia đình, luật tố tụng... Đa số các điều khoản trong phần Bản điều đều được trình bày
dưới hình thức các quy phạm pháp luật kết hợp Xử lý vi phạm về Hành chính, chế tài
và xử lý vi phạm về Dân sự và Hình sự. Phạm vi điều chỉnh của các bộ luật rất rộng,
nó tác động tới hầu hết các lĩnh vực quan hệ xã hội. Các bộ luật thường có hiệu lực
thời gian rất lâu dài. Mỗi một triều đại thường chỉ ban hành một bộ luật tổng hợp,
mang tính Hiến chương và nó có hiệu lực trong suốt thời gian tồn tại của triều đại đó.
Điển hình về hiệu lực thời gian lâu dài là bộ Quốc triều hình luật triều Lê, trong hơn
ba thế kỉ. Hoàng Việt Luật Lê có hiệu lực trong triều Nguyễn và được sửa định khi
thực dân Pháp đặt hệ thống Chính quyền và Luật lệ thực dân. Đó là bộ “Hoàng Việt
Tân định”, “Hoàng Việt Hình luật” và các bộ luật mới ra đời theo mục đích của chính

quyền thực dân. Như vậy, Pháp luật PKVN đã đạt được nhiều thành tựu, thể hiện tính
dân tộc và thời đại, tiến bộ và đặc sắc Việt Nam.
9. Bên cạnh Bộ luật, pháp luật PKVN còn có các bộ Hội điển và các VBQPPL
đơn hành như: Chiếu, Dụ, Chỉ, Sắc, Lệnh, Lệ, Chuẩn; các văn bản pháp luật
như Chế, Cáo, Biểu, Tấu, Sớ, Châu Bản. (Đ) Xem GT và vở ghi


THY NGC HIU - 0359033374

10. H thng Ng hỡnh trong b Quc triu hỡnh lut (QTHL) thi Hu Lờ tip
thu mt cỏch chn lc, sỏng to h thng Ng hỡnh ca phỏp lut phong kin
Trung Quc ?
Nhn nh trờn l bi vỡ:H thng Ng hỡnh trong b Quc triu hỡnh lut
(QTHL) thi Hu Lờ c biờn son trờn c s ca phỏp lut Lý Trn v phỏp lut
ng Minh. QTHL quy nh Ng hỡnh khỏi quỏt ti iu 1 v quy nh chi tit t
m hu ht cỏc iu khon. Khi so sỏnh vi Ng hỡnh trong QTHL vi cỏc b lut
Trung Quc, cú th thy cỏc quy nh v khung hỡnh pht v ỏp dng hỡnh pht u cú
s chn lc, sỏng to so vi h thng ng hỡnh ca phỏp lut phong kin Trung Quc.
Trong lịch sử pháp luật Trung Hoa, Ngũ hình có nguồn gốc từ
thời Tam đại Hạ - Thơng - Chu, đó là: Mặc (thích chữ), tỵ (cắt
mũi), ph (chặt chân), cung (hoạn i vi nam, biệt giam i vi nữ),
tịch (tử hình). Trải qua thời Tần, Hán đến thời Đờng, Ngũ hình
Trung Hoa đã đợc xây dựng căn bản, giảm bớt Nội hình, tăng cờng
Chế tài khổ sai lao dịch và phạt tiền (Thục tội). Đến thời Minh Thanh, hình phạt trong pháp luật PK Trung Quốc có nhiều cải cách
song vẫn giữ lại Ngũ hình cổ điển. Ng hỡnh l 5 hỡnh pht chớnh:
Xuy, Trng, , Lu, T.
* Tip thu chn lcsỏng to về khung hình phạt ca QTHL
Khung hình phạt của QTHL và PLTQ khác nhau chủ yếu ở đồ,
lu và tử hình.
Về hình phạt đồ, QTHL quy định có 3 khung (bậc): Khung 1Đồ làm dịch đinh, xã đinh, chủ yếu làm sai dịch ở địa phơng, có

sự phân biệt giữa nam và nữ, giữa dân thờng với quan chức và vợ
quan chức. Khung 2- Đồ làm tợng phờng binh, chủ yếu phục dịch
trong quân đội, chăm sóc đàn voi chiến hoặc xay lúa giã gạo.
Khung 3- Đồ làm chủng điền binh, phạm nhân phải lao động khổ
sai tại các đồn điền của Nhà nớc.
Về hình phạt lu, QTHL quy định có 3 khung
Khung 1: Lu cận châu, đày ở Nghệ An, Hà Hoa
Khung 2: Lu ngoại châu, đày ở Quảng Bình
Khung 3: Lu viễn châu, đày ở Tân Bình (Thuận Hóa)
(Bản dịch lu khung 3 ở Cao Bằng, theo tác giả Vũ Văn Mẫu là cha
chính xác, so sánh với Lu viễn châu thời Lê Thái Tổ cũng đúng nh
vậy).
PLTQ quy định Lu cũng có 3 khung nhng xác định theo đơn
vị chiều dài là dặm. Khung 1: 2000 dặm; Khung 2: 2500 dặm;
Khung 3: 3000 dặm.
Về hình phạt tử, QTHL quy định có 3 khung (bậc) Khung 1:
giảo, trảm (treo cổ, chém đầu); Khung 2: trảm khiêu (chém bêu
đầu); Khung 3: lăng trì (tùng xẻo). PLTQ quy định có 2 khung:
Khung 1: giảo (treo cổ); Khung 2: trảm (chém đầu). Hỡnh pht Lng trỡ
ỏp dng t thi Ng i (907 - 979), c nh hỡnh danh v ghi vo Lut
Trung Quc thi Liờu (907 1125). Phỏp lut Minh, Thanh khụng quy
nh Lng trỡ.
* Tip thu chn lcsỏng tovề áp dụng hình phạt ca QTHL


THY NGC HIU - 0359033374

QTHL quy định không áp dụng hình phạt trợng đối với nữ
phạm nhân. Chế tài đồ, lu và tử hình cũng có những quy định
riêng áp dụng cho nam và nữ. Nhìn chung QTHL đều thể hiện rõ

quan điểm giảm nhẹ hình phạt đối với phụ nữ. Đây là một trong
những nội dung tiến bộ của pháp luật triều Hu Lê. Hình phạt đồ
trong QTHL áp dụng chủ yếu nhằm phục vụ nền kinh tế nông
nghiệp, phục dịch quân đội. Hình phạt lu nhằm mục đích khai
hoang và bảo vệ những vùng đất phía Nam là Nghệ An, Hà Tĩnh,
Tân Bình, Thuận Hóa. Nh vậy, việc áp dụng hình phạt trong QTHL
linh hoạt và dễ áp dụng trong thc tin.
* Bên cạnh những điểm chn lc sỏng to về khung hình phạt,
những quy định về áp dụng hình phạt, QTHL còn có một số điểm
khác biệt vi lut TQ nh: QTHL quy định về phạt tiền khá phổ biến
còn trong PLTQ quy định chủ yếu là chuộc hình phạt bằng tiền.
Hình phạt trong QTHL thể hiện rõ tính dân tộc đặc sắc, kế thừa
hình phạt thời Lý - Trần. QTHL không có phần giải thích hình phạt
nguồn gốc tự nhiên, xã hội, chính trị, pháp luật của hình phạt, giải
thích về ý nghĩa, giá trị, mục đích của hình phạt cũng nh triết lý
về hình phạt. QTHL còn có quy định về hình phạt Biếm t nhằm
đề cao t cách, đạo nghĩa của con ngời, trừng trị những vi phạm về
đạo đức, ân nghĩa, nhân phẩm của con ngời.
Tóm lại, hình phạt trong QTHL và HVLL vừa có những điểm tơng đồng vừa có điểm khác biệt song vẫn là hệ thống hình phạt
Ngũ hình cổ điển. Hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt
Nam chịu ảnh hởng của pháp luật Trung Hoa song vẫn thể hiện sự
sáng tạo độc đáo, phù hợp với truyền thống dân tộc, phự hp vi
đặc điểm kinh tế cũng nh yêu cầu, hoàn cảnh của đất nớc đơng
thời.
11. Tớnh ph bin l mt c im ca hỡnh pht trong phỏp lut phong kin Vit
Nam ?
Nhn nh trờn l bi vỡ:
Hỡnh pht trong phỏp lut phong kin Vit Nam l ch ti chung cho mi s vi
phm, c quy nh trong cỏc B lut phỏp in QTHL v HVLL, ú l Ng hỡnh v
ngoi ng hỡnh. Pht tin v chuc hỡnh pht bng tin cng c ỏp dng ph bin,

ú l s hoỏn i hỡnh pht trong thi quõn ch phong kin VN.
Tớnh ph bin l mt trong nhng c im c bn ca h thng hỡnh pht trong phỏp
lut phong kin Vit Nam. Bi theo quan nim ca cỏc nh lp phỏp ch trng phỏp
tr, mi vi phm phỏp lut u phi chu ch ti. Vi phm nh x nh: xuy, trng,
pht tin, bim t (tp phm, vi ch, khinh ti, vi cnh, tiu hỡnh), vi phm nng x
nng: , lu, t, trm kiờu, lng trỡ, lc thi (Thp ỏc, o tc, nhõn mng, trng ti,
i hỡnh). Hỡnh pht l ch ti ph bin i vi nhng vi phm trong cỏc lnh vc nh:
hỡnh s, dõn s, hnh chớnh, hụn nhõn & gia ỡnh, t tng, quõn s, t ai, ti chớnh,
quan ch, k c nhng vi phm v luõn thng, o lý. H thng hỡnh pht trong phỏp
lut phong kin VN l Ng hỡnh v ngoi ng hỡnh. Ng hỡnh l 5 hỡnh pht chớnh:
xuy, trng, , lu, t. Ngoi ng hỡnh l cỏc ch ti: pht tin, bim t, thớch ch,


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

giáng phẩm trật, giáng chức, bãi chức, tịch thu tài sản, đeo gông xiềng, sung vợ con
làm nô.
 Tính phổ biến của hình phạtđược thể hiện qua các triều đại Lý Trần Lê Trịnh
Nguyễn
và trong các Bộ luật pháp điển
Thời Lý - Trần, các hình phạt được áp dụng như: trượng, đồ, lưu, tử, phạt tiền,
giáng chức, tịch thu tài sản đã được ghi lại trong các chiếu, lệnh. Đến thời Lê Nguyễn, tÝnh phổ biến của hình phạt được thể hiện cơ bản trong hai bộ luật: Quốc
triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ (Điều 1 và khoảng trên 90% số lượng điều khoản
trong 2 bộ luật). Ví dụ: trong bộ Quốc triều hình luật có khoảng 662/722 điều trực tiếp
và gián tiếp quy định hình phạt. Trong bộ Hoàng Việt luật lệ có khoảng 360/398 điều
quy định hình phạt.
 Tính phổ biến của hình phạtđược thể hiện trong các lĩnh vực áp dụng
Trong lĩnh vực Hình sự, hình phạt là chế tài đặc trưng cho luật hình áp dụng với
những hình phạt rất chi tiết và cụ thể. Ví dụ, Điều 466 – Tội đánh người, Điều 481 –
vợ đánh chồng, Điều 482 – chồng đánh vợ; Điều 411đến 464 các Tội mưu phản đại

nghịch, giết người.
Trong lĩnh vực D©n sù, chương Điền sản (32 điều), ví dụ, Điều 366 QTHL quy
định: “Những người làm thư chúc, văn khế mà không nhờ quan trưởng trong làng viết
thay và chứng kiến thì phải phạt 80 trượng, phạt tiền theo việc nặng nhẹ”.
Trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình:Chủ yếu ở chương Hộ gia đình và Hôn nhân
gồm 58 điều. Ví dụ, Điều 308- chồng bỏ lửng vợ, Điều 314 – kết hôn không đủ sính
lễ, Điều 322 – vợ cả, vợ lẽ tự tiện bỏ nhà chồng ra đi: Xử tội xuy, trượng, biếm, đồ.
Trong lĩnh vực Tố tụng, các hành vi vi phạm trong tố tụng, xét xử cũng bị áp dụng
hình phạt, chương Đoán ngục QTHL gồm 65 điều, ví dụ như: Điều 671 QTHL quy
định: "Những quan xử án nếu dùng dằng để việcquá kỳ hạn 1 tháng thì xử tội biếm,
quá 3 tháng thì bị bãi chức, quá 5 tháng thì bị tội đồ”.
Trong lĩnh vực Hành chính, QTHL có 144 điều quy định về hình phạt, ví dụ điều 225 quy
định: “Những vị quan ty tự tiện sai khiến người đưa văn thư công đi làm việcriêng, để
chậm trễ ngày giờ, làm lỡ việc công thì bị phạt đánh 60 trượng, biếm hai tư ". Theo pháp
luật hiện đại, những hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực hành chính là vi phạm hành chính,
nghiêm trọng thì xử lý hình sự chứ không áp dụng hình phạt chung như pháp luật phong
kiến.
Trong lĩnh vực Quân sự An ninh, các vi phạm trong lĩnh vực quân sự cũng bị áp dụng
hình phạt Ngũ hình nhưng thường nghiêm khắc hơn những lĩnh vực khác. Trong QTHL
có 43 điều, các hình phạt chủ yếu là trượng, đồ, lưu, và tử hình. Ví dụ như: Điều 74
QTHL quy định tuyển binh vào quân đội mà lấy người hèn kém thì bị tội đồ làm khao
đinh, từ 2 – 5 người thì bị tội đồ hoặc lưu, từ 6-9 người thì bị tội giảo.
Tóm lại: Hình phạt Ngũ hình, ngoài Ngũ hình là chế tài chung cho mọi sự vi
phạm. Hình phạt thể hiện tính phổ biến bởi quan niệm của các nhà lập pháp PKVN là
mọi vi phạm đều phải chịu chế tài. Hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam
ảnh hưởng bởi pháp luật phong kiến Trung Hoa song cũng có nhiều quy định sáng tạo,
phù hợp với hoàn cảnh đất nước và đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp, thể hiện
điển hình trong bộ QTHL thời Lê.



THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

12. Trọng nam, trọng trưởng, trọng đích là nguyên tắc cơ bản của luật thừa kế
tài sản thờ cúng (Hương hỏa, Tự sản) trong pháp luật Phong kiến Việt Nam.
Nhận định trên là Đ… bởi vì: Theo quy định của pháp luật triều Lê QTHL, thứ tự
ưu tiên thừa kế hương hỏa là con trai trưởng của người vợ cả… (Xem phần thừa kế )
Phân tích chế định thừa kế trong PLPKVN.
Thừa kế - QTHL Có hai hình thức thừa kế
* Thừa kế theo di chúc
Qua các điều 354, 388, Bộ luật đã quy định về thừa kế theo di chúc như sau:
- Về hình thức của di chúc, có di chúc miệng và di chúc viết (chúc thư). Theo tinh
thần và nội dung của Điều 366, người làm chúc thư (cha, mẹ) phải tự viết lấy (nếu
không biết chữ thì nhờ quan viên nào đó trong làng xã viết giùm) và phải có sự chứng
kiến cũng của quan viên trong làng xã thì chúc thư mới hợp pháp.
Nguyên tắc tự do lập di chúc của người gia trưởng được tôn trọng. Trong gia đình,
cha, mẹ là chủ tài sản nên chỉ có cha, mẹ mới có quyền lập di chúc. Ở di chúc, ngoài
phần ruộng đất dành ra làm hương hoả, phần còn lại được chia cho các con. Những
con nào được hưởng thừa kế và được hưởng bao nhiêu đều do người lập di chúc quy
định. Cha mẹ có thể truất quyền thừa kế của người con nào đó, thường là người con
bất hiếu và đó cũng là một dạng từ con.
* Thừa kế theo luật
Bộ luật quy định khi cha mẹ chết không có chúc thư hoặc chúc thư không hợp
pháp thì di sản được chia theo luật. Các điều 374, 375, 376, 380, 388 và một số điều
khoản khác cho biết có hai hàng thừa kế: Hàng thừa kế thứ nhất là các con; hàng thừa
kế thứ hai là cha mẹ hoặc người thừa tự và vợ chồng.
Quan hệ thừa kế trong hàng thừa kế thứ nhất chỉ phát sinh khi cả cha và mẹ đều đã
chết. Các con trong hàng này bao gồm cả con trai, con gái, con vợ cả, con vợ lẽ, con
nàng hầu (Điều 388). Con nuôi cũng được thừa kế khi trong văn tự nhận nuôi con có
ghi rõ cho thừa kế điền sản (Điều 380) và không thất hiếu với cha nuôi (Điều 506).
Theo tinh thần của các điều 374, 388 thì phần của các con vợ cả đều bằng nhau, phần

của con vợ lẽ kém phần của con vợ cả và cũng bằng nhau. Con nuôi được thừa kế
bằng nửa phần của con đẻ; nếu không có con đẻ mà con nuôi ở cùng với cha mẹ nuôi
từ bé thì được hưởng cả, không ở cùng từ bé thì được hưởng gấp hai lần người thừa tự
của cha mẹ nuôi (Điều 380). Người đã làm con nuôi họ khác và đã được hưởng thừa
kế từ cha mẹ nuôi vẫn được hưởng bằng nửa phần người ăn thừa tự của người tuyệt tự
trong họ cha mẹ đẻ (Điều 381). Trước khi chia thừa kế di sản của cha mẹ, các con phải
dành 1/20 di sản làm hương hoả thờ cúng cha mẹ.
Quan hệ thừa kế trong hàng thừa kế thứ hai chỉ phát sinh khi hôn nhân không có
con mà một người chết. Quan hệ thừa kế trong hàng này được quy định trong ba
trường hợp cụ thể sau:
1) Trường hợp vợ chồng không có con mà một người chết trước thì nảy sinh quan
hệ thừa kế như sau (theo Điều 375): Nếu chồng chết trước: Ruộng đất do nhà chồng
đã cho (nhà làm luật gọi là phu gia điền sản) được chia làm hai phần bằng nhau. Một
nửa thuộc về người ăn thừa tự (bên họ chồng) để giữ việc tế tự, nửa kia người vợ được
hưởng suốt đời nhưng không được làm của riêng (nghĩa là không được bán), đến khi
người vợ chết hoặc đi tái giá thì phần điền sản này lại thuộc về người thừa tự. Nếu cha
mẹ hãy còn sống thì thuộc về cha mẹ cả. Ruộng đất do hai vợ chồng cùng tần tảo làm


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

lụng mua được (tần tảo điền sản) được chia làm hai phần bằng nhau. Vợ được nhận
một nửa làm của riêng (vì thực chất đây là phần công sức của người vợ) nửa của
người chồng chết được chia làm 3 phần, cho vợ hai phần để hưởng suốt đời nhưng
không được làm của riêng và khi vợ chết hay tái giá thì hai phần này để lại cho người
tế tự của chồng, cho người thừa tự của chồng một phần để giữ việc tế tự. Phần về tế tự
nếu cha mẹ chồng còn sống thì cha mẹ giữ, nếu cha mẹ chồng không còn thì mới giao
cho người thừa tự giữ. Nếu vợ chết trước, việc phân chia tài sản cũng tương tự như
trên, chỉ có khác là chồng đi lấy vợ khác vẫn được chiếm dụng một đời. Như vậy,
trong quan niệm của nhà làm luật, ruộng đất của vợ chồng gồm có các loại tần tảo

điền sản, phu gia điền sản, thê gia điền sản và có hai người được hưởng thừa kế là vợ
(hoặc chồng) còn đang sống, cha mẹ chồng (vợ) hoặc người thừa tự bên nhà chồng
(vợ) (nếu cha mẹ chồng (vợ) chết).
2) Trường hợp vợ chồng có con, một người chết trước, con lại chết theo thì nảy
sinh quan hệ thừa kế như sau (Điều 376):
- Nếu vợ chết trước: Nếu cha mẹ vợ còn sống thì thê gia điền sản được chia làm
hai phần: Cha mẹ vợ được một nửa và chồng được một nửa nhưng người chồng chỉ
được sử dụng mà không được bán. Khi chồng chết, phần này phải hoàn về cha mẹ vợ
hoặc người thừa tự. Nếu cha mẹ vợ đã chết thì thê gia điền sản được chia làm 3 phần
bằng nhau, để cho chồng 2 phần, người thừa tự 1 phần. Trong luật không nói người
chồng trong trường hợp này chỉ được sử dụng trong đời mình. So sánh Điều 376 và
Điều 375 ta thấy gần giống nhau ở điểm một trường hợp không có con và một trường
hợp con chết. Song việc chia thê gia điền sản có sự khác nhau, Điều 376 dành cho
người chồng nhiều quyền lợi hơn Điều 375 vì cuộc hôn nhân đã có con (mặc dù sau
đó con đã chết), mối liên hệ giữa người chồng với gia đình vợ mật thiết hơn.
Tuy nhiên, Điều 376 không nêu ra việc giải quyết phu gia điền sản và tần tảo điền
sản. Phải chăng nhà làm luật cho rằng có thể áp dụng tương tự Điều 375 mà không
cần phải quy định lại ở Điều 376. "Nếu chồng chết trước thì vợ cũng thế, cải giá thì
phải trả lại" (Điều 376): Như vậy, ở trường hợp chồng chết trước, người được hưởng
thừa kế gồm vợ, cha mẹ chồng hoặc người thừa tự nhưng ngay cả khi không còn cha
mẹ chồng, người vợ cũng chỉ được chiếm dụng 2/3 phu gia điền sản một đời; nếu chết
hoặc cải giá thì phải trả lại cho người thừa tự.
3) Trường hợp vợ chồng có con, một người chết trước, người kia đi lấy kẻ khác,
không có con ở lần hôn nhân này thì sau khi chết nảy sinh quan hệ thừa kế như sau
(Điều 374):
Nếu vợ chết, người chồng lấy vợ khác nhưng không có con với người vợ sau, khi
người chồng chết thì tài sản sẽ được phân chia giữa các con (của vợ trước) với người
vợ sau như sau:
Phu gia điền sản: Người vợ sau được sử dụng 1/3 (nếu người vợ trước chỉ có 1 con)
hoặc bằng phần của 1 người con (nếu người vợ trước có từ 2 con trở lên); còn bao nhiều

đều thuộc về con chồng. Nếu người vợ sau đi tái giá hoặc chết thì phần điền sản thuộc
về con vợ trước.
Tần tảo điền sản của chồng và vợ trước được chia 2 phần đều nhau: Một nửa thuộc
về các con vì thực chất đây là phần của vợ trước, nửa còn lại (thực chất là phần của
chồng) được chia cho vợ sau và con chồng theo tỉ lệ như trên. Tần tảo điền sản của
chồng và vợ sau cũng được chia đôi, một nửa thuộc quyền sở hữu của người vợ sau,


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

nửa còn lại cũng được chia cho người vợ sau và con chồng theo tỉ lệ như trên nhưng
phần này của vợ chỉ có quyền sử dụng, còn nếu tái giá hoặc chết đi thì thuộc về con
chồng. Nếu chồng chết trước... thì vấn đề tài sản cũng được giải quyết tương tự như
trường hợp vợ chết trước. Như vậy, ở trường hợp Điều 374, người được hưởng thừa
kế gồm con riêng của chồng (hoặc con riêng của vợ), người vợ sau (hoặc người chồng
sau). Để bảo tồn tài sản cho con cái sau này thừa kế, nhà làm luật đã cấm người vợ khi
đi tái giá hoặc người chồng sau khi vợ chết và đi lấy vợ khác bán ruộng đất trong gia
đình của lần hôn nhân trước (theo Điều 377 và theo tinh thần của một số điều khoản
khác).
Vấn đề ruộng đất hương hoả đã được Bộ luật quy định trong 13 điều luật. Luật
hương hoả triều Lê thể hiện sâu sắc phong tục tập quán của người Việt, có nhiều điểm
khác với pháp luật Trung Hoa. Thừa tự hương hoả là loại thừa kế đặc biệt. Về số
lượng tài sản hương hoả, Điều 390 quy định là 1/20 di sản. Sở dĩ có giới hạn như trên
là để tránh sự tích lũy hương hoả từ đời này sang đời khác tới diện tích quá lớn.
Ruộng đất hương hoả chỉ được sử dụng vào việc trồng cây lấy hoa lợi để thờ cúng tổ
tiên và không được bán ruộng đất hương hoả (Điều 400). Theo Điều 399, ruộng đất
hương hoả không truyền quá 5 đời, vì con cháu chỉ phải thờ cúng những người trong
vòng 5 đời. Luật quy định không được chia nhau ruộng đất vốn là hương hoả nhưng
để cho ai thì không nói tới. Nếu theo phong tục tập quán, phần ruộng đất này cho
người thừa tự cuối cùng hoặc nhập vào ruộng đất của dòng họ.

Về trật tự truyền ruộng đất hương hoả, luật hương hoả đã dành phần lớn các điều
khoản quy định về trình tự những người được hưởng hương hoả. Thông thường, việc
truyền ruộng đất hương hoả phải triệt để thể hiện nguyên tắc trọng nam và trọng
trưởng. Nhưng nhà làm luật triều Lê đã "mềm hoá" nguyên tắc này bằng cách quy
định như sau: Ruộng đất hương hoả được truyền cho con trai trưởng (hoặc cháu trai
trưởng), nếu không có thì truyền cho con trai thứ, con trai không có thì truyền cho con
gái, con gái không có thì truyền cho người trong họ và không bao giờ để truyền sang
dòng họ khác. Người tàn phế hoặc bất hiếu không được nhận ruộng đất hương hoả.
Nhìn chung, mục đích luật thừa kế triều Lê vừa nhằm củng cố sự trường tồn của
dòng họ vừa nhằm giữ gìn sự hoà thuận, thương yêu nhau giữa anh chị em trong gia
đình. Với việc cho người vợ có quyền quản lí tài sản trong gia đình sau khi người
chồng mất, cho người phụ nữ có quyền thừa kế và phần của con gái bằng phần của
con trai (điều không thể tìm thấy trong các bộ luật phong kiến khác), luật thừa kế đã
trở thành định chế nổi bật nhất thể hiện những nét tiến bộ của luật pháp triều Lê.
Thừa kế - HVLL triều Nguyễn
Nội dung được quy định tại các điều 76, 82, 83, 87 và được bổ sung bằng một số
điều lệ. Điểm khác biệt của Hoàng Việt luật lệ quy định về thừa kế là đề cao vai trò
của trưởng nam, thừa nhận quyền thừa kế của con trai, con gái chỉ có quyền khi trong
gia đình không có con trai. Bộ luật quy định quyền tài sản của ông bà, cha mẹ khi lập
di chúc, không quy định quyền thừa kế của người vợ. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, Luật Gia Long vẫn cho phép căn cứ vào “luật cũ" mà xử.
- Thừa kế theo di chúc
Luật Gia Long quy định: "Nếu ông bà, cha mẹ đã di chúc chia của thì tôn trưởng
cũng không được đi thưa kiện". Về thời điểm mở thừa kế, Luật định rằng: "Đang lúc
còn để tang cha mẹ mà anh em tách hộ khẩu, chia hẳn gia sản thì phạt 80 trượng”.


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

Như vậy, thời điểm phát sinh thừa kế theo Hoàng Việt luật lệ phải là sau khi để tang

cha mẹ 3 năm.
- Thừa kế theo pháp luật:
Về thừa kế tự sản: Là thừa kế tài sản dùng để tế tự, thờ cúng tổ tiên và kế truyền
dòng dõi theo nội tộc. Thứ tự ưu tiên là: Trưởng tử dòng đích, nếu trưởng tử chết thì
cháu đích tôn thay cha thừa trọng để thờ cúng tổ tiên; con kế dòng đích; con dòng
nhánh; lập đích tử trong "Chiêu mục tương đương"(1) nếu không có con trai. Luật cũng
cho phép một người con được thừa kế tự sản hai nhà tông miếu. Nếu vi phạm trật tự
thừa kế trên phải chịu chế tài theo luật định (Điều 37). Nếu trong thân thuộc không có
người đáng được thừa kế tự sản thì con gái được thừa kế (Lệ 2 Điều 83). Nếu người
lập tự không bằng lòng với con lập tự hoặc có hiềm khích thì cho phép trình quan ti để
lập người khác.
Thừa kế tài sản thông thường: Chủ yếu được quy định ở các điều 82, 83.
Về diện và hàng thừa kế: Chủ yếu là con trai với phần thừa kế bằng nhau, không
phân biệt con vợ cả, con vợ lẽ, con nô tì (Lệ 1 Điều 83). Con nuôi hoặc con rể nếu
được cha mẹ yêu dấu có thể "châm chước cho tài sản", con thừa tự không được phép
can thiệp. Nếu không có con thì hàng thừa kế thứ 2 là các thân thuộc trong gia tộc.
Nếu không có con gái thì cho phép quan địa phương trình lên thượng ti tính toán hợp
lí việc sung công (Điều 83).
Như vậy, Luật Gia Long không ghi nhận quyền thừa kế của vợ và con gái như
Luật Hồng Đức nhưng cũng không có quy định nào cấm con gái được hưởng thừa kế.
13. Trong quy định của luật thừa kế triều Lê (QTHL), con gái trưởng được
quyền thừa kếHương hỏa. Nhận định trên là Đ… bởi vì: (Xem phần thừa kế ở
trên)
Nhận xét và đánh giá:
Pháp luật QC PKVN bảo vệ ân nghĩa gia đình, dòng họ, tổ tiên từ quá khứ đến
tương lai thông qua những định chế pháp lý trong Luật gia đình, Hôn nhân, hương
hỏa, Điền sản. Những giá trị này còn lưu giữ bền vững đến tận thời nay, và luôn được
người dân tôn kính và tuân thủ. Quyền và nghĩa vụ trách nhiệm của Trưởng nam luôn
được coi trọng, chế định này phù hợp với quy luật gia đình, giới tính và phong tục.
Trưởng nam với vị trí vai trò gánh vác trách nhiệm với dòng họ tổ tông, đoàn kết gia

tộc, theo nguyên lý Tề gia là sở cho đạo Trị quốc. QTHL có nhiều điều khoản chi tiết,
cụ thể dễ hiểu và tiến bộ đặc biệt về Luật Hương hỏa. Tôn trọng Quyền của người phụ
nữ trong nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Con gái trưởng - Trưởng nữ được thừa kế hương hỏa
dòng họ gia đình. Quy định này thể hiện giá trị tinh thần tâm linh đặc sắc của dân tộc
VN, khác với PL TQ, Arập và PK Tây Âu thời Trung cổ.
Sử giaPhan Huy Chú đã từng nhận xét rằng: Luật Hương hỏa qua mấy triều sửa định,
đến thời Lê Thánh Tông bổ sung để làm mực thước cho dân noi theo…Luật hương
hỏa sửa đổi phong tục, bồi đắp luân thường, đó chính là chỗ màu nhiệm của Pháp luật
(Lịch triều Hiến chương loại chí – Luật Hộ - Hôn). Luật gia Vũ Văn Mẫu khẳng định:
(1)(1). Chiêu mục tương đương: Là một cổ lệ có từ thời nhà Chu Trung Quốc, được ghi rõ trong sách Lễ Kí (Vũ
Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam thông khảo, tr. 241).
Theo Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, "người nào không có con thì cho lấy cháu gọi bằng chú, bác "đồng
tông" và về vai bậc, về thế tương đương làm người thừa kế" (Tập 11, tr. 278).


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

Đó là những giá trị của Linh hồn trí não người xưa kết đúc lại cho chúng ta qua bao
lớp phế hưng của lịch sử đến nay vẫn chưa phai nhạt (Theo Lời tựa bản dịch – Hồng
Đức Thiện chính thư).
14. Tính dân tộc và tính xã hội nổi trội là một đặc điểm của Nhà nước & PL
PKVN.
Nhận định trên là Đ… bởi vì:Cũng như những nhà nước phong kiến khác, Nhà
nước Đại Việt là thể chế chính trị bảo vệ quyền lực và quyền lợi của giai cấp
phong kiến thống trị. Trong đó vua là người nắm trọn quyền lực nhà nước, là
chủ sở hữu tối cao ruộng đất công trong cả nước. Ở thể chế chính trị đó có hai
mối quan hệ cơ bản: Vua - bầy tôi (quý tộc, quan lại), vua - thần dân. Tuy
nhiên, do tác động của yếu tố chống xâm lược mà tư tưởng trung quân luôn gắn
liền với tư tưởng yêu nước (trung quân ái quốc). Nhà nước phong kiến Đại Việt
không chỉ đại diện cho lợi ích của nhà vua, của giai cấp thống trị mà còn đại

diện cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân.
Tính dân tộc và tính xã hội được thể hiện trong tư tưởng chính trị pháp lý,
trong nguyên tắc Dân tộc độc lập và chính sách đoàn kết các dân tộc Việt Nam,
tôn trọng phong tục tập quán của các đồng bào dân tộc. Tính xã hội trong cấu
trúc gia đình, xã hội làng xã và phân tầng xã hội trong quản lý dân cư. Ví dụ,
chính sách thân dân, khoan thư sức dân, yên dân, ái dân; chính sách pháp luật
với người già, trẻ em, người tàn tật và phụ nữ; Ví dụ chính sách tôn trọng
quyền tự trị tự quản làng xã. Luật định rằng: Nếu người dân tộc cùng phạm tội
với nhau thì theo phong tục của họ mà xét xử
Cùng với cơ sở kinh tế-xã hội, công cuộc trị thuỷ-thuỷ lợi và chống xâm lược
không chỉ là yếu tố thúc đẩy Nhà nước của người Việt cổ ra đời sớm và quy định các
chức năng đối nội, đối ngoại cơ bản của nhà nước phong kiến Việt Nam mà còn ảnh
hưởng mạnh mẽ tới bản chất của nhà nước VN. Thực hiện hai chức năng trên một
cách chủ động và thường xuyên, nhà nước phong kiến Việt Nam không chỉ bảo đảm
quyền và lợi ích thống trị của tập đoàn phong kiến cầm quyền mà còn bảo đảm lợi ích
của toàn xã hội và của cộng đồng dân tộc. Ý thức được sự đóng góp sức người, sức
của của nhân dân là sức mạnh quyết định thắng lợi của công cuộc trị thuỷ-thuỷ lợi và
chống xâm lược nên các triều đại phong kiến Việt Nam không thể không điều tiết việc
hoạch định các chính sách cai trị, việc xây dựng các thiết chế nhà nước và pháp luật
nhằm đáp ứng ở mức độ nhất định các yêu cầu chính đáng về kinh tế, chính trị, xã hội
của dân chúng. Việc ban hành chính sách Quân điền và sự tôn trọng chế độ tự trị, tự
quản làng xã… cho thấy ở nhà nước phong kiến Việt Nam, tính giai cấp không quá
sâu sắc và tính xã hội tính dân tộc có phần nổi trội.
15. Chế độ sở hữu Nhà nước, làng xã và tư nhân luôn được coi trọng trong
PLPKVN.
Nhận định trên là … bởi vì:So với các quốc gia phong kiến Tây Âu, nhà nước
phong kiến Việt Nam thiết lập và tồn tại trên chế độ sở hữu không thuần nhất: sở hữu
công và sở hữu tư nhân. Sở hữu công là chế độ sở hữu giữ vai trò chủ đạo và thể hiện
dưới 2 hình thức: Sở hữu nhà nước và sở hữu làng xã.
* Sở hữu nhà nước: Quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất từng bước được xác lập

trong tiến trình lịch sử . Từ thế kỉ X với sự xuất hiện chế độ trung ương tập quyền, các
nhà nước thế kỉ X đã mặc định quyền sở hữu tối cao về ruộng đất thuộc nhà nước.


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

Quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất dần trở thành tập quán chính trị bền vững được
pháp luật các triều đại bảo vệ. Khẳng định quyền sở hữu tối cao, nhà nước giữ lại 1 bộ
phận ruộng đất trực tiếp quản lí, sử dụng phần còn lại đã trao quyền quản lí sử dụng
cho các chủ thể khác. Đây chính là cơ sở hình thành chế độ sở hữu ruộng đất đa hình
thức (sở hữu chồng – sở hữu kép).
Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lí và sử dụng không lớn bao gồm: Tịch điền,
ruộng sơn lăng, ruộng phong cấp, ruộng quốc khố, đồn điền, đất hoang… Dù trên
danh nghĩa hay là sở hữu thực tế, quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất đều là quyền sở
hữu tối cao với đầy đủ 3 quyền năng.
* Sở hữu làng xã (công điền, quan điền): Vừa là tàn dư của công xã nông thôn
vừa là kết quả của quá trình phong kiến hoá về ruộng đất nên sở hữu làng xã là sở
hữu kép (danh nghĩa thuộc sở hữu nhà nước nhưng thực tế lại thuộc sở hữu làng xã).
Sự tồn tại của ruộng đất làng xã không những giúp nhà nước thực hiện được chính
sách đoàn kết dân tộc, duy trì, phát huy được truyền thống tự trị, tự quản làng xã mà
còn đảm bảo được nguồn thu tô, thuế, lao dịch, binh dịch.
Do vai trò quan trọng của ruộng đất làng xã, các triều đại phong kiến đều ban
hành chính sách ruộng đất nhằm quản lí và bảo vệ hình thức sở hữu này. Nếu từ thế
kỉ X đến thế kỉ XIV nhà nước cho phép làng xã tự phân chia ruộng đất theo tập quán
thì từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, làng xã buộc phải phân chia ruộng đất theo chính
sách quân điền do nhà nước ban hành. Để bảo vệ ruộng đất công, ngoài việc nghiêm
cấm hành vi bán ruộng đất khẩu phần (quân điền) của cư dân làng xã, nhà nước còn
sẵn sàng can thiệp tới mức thô bạo khi ruộng đất công bị thu hẹp mà các biện pháp
cải cách hạn điền của Hồ Quý Ly và quân điền của Minh Mạng là minh chứng cụ
thể. Sự quyết liệt trong việc bảo vệ ruộng đất công của các triều đại phong kiến

khiến ruộng đất công luôn là bộ phận ruộng đất giữ vai trò chủ đạo, tới giữa thế kỉ
XIX ruộng đất công làng xã vẫn chiếm trên 50% diện tích đất canh tác.
* Chế độ sử hữu tư nhân: Nguồn gốc của ruộng đất tư khá đa dạng bao gồm mua
bán, khai hoang, nhà nước ban cấp hoặc do chấp chiếm biến công vi tư. Xét về quy
mô, do tập quán chia đều ruộng đất thừa kế cho các con và chính sách giới hạn tích tụ
ruộng đất tư của nhà nước, sở hữu tư nhân Việt Nam thời phong kiến luôn dừng ở mức
nhỏ và vừa. Ruộng đất tư chỉ bao gồm đất ở và đất canh tác và không có sự tập trung
tại một địa bàn mà thường xen kẽ với ruộng đất thuộc sở hữu công. Dù thừa nhận
quyền sở hữu ruộng đất tư song nhà nước luôn tìm cách can thiệp vào sở hữu tư nhân.
Khi ruộng đất tư phát triển, Nhà nước điều tiết bằng hàng loạt chính sách, trong đó
tịch thu sung công thông qua chính sách hạn điền mà nhà Hồ, nhà Nguyễn thực hiện
được tính là cực đoan nhất.
Sở hữu tư nhân về ruộng đất ở Việt Nam khác hẳn so với sở hữu tư nhân về ruộng
đất ở Trung Quốc và phương Tây thời phong kiến. Ở phương Tây thời phong kiến, các
lãnh địa thuộc quyền sở hữu của các lãnh chúa. Trung Quốc thời phong kiến, chỉ tồn
tại 2 hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trong đó sở hữu nhà nước
có xu hướng bị thu hẹp, sở hữu tư nhân từng bước được xác lập. Tình trạng địa chủ
kiêm tính ruộng đất xảy ra khá phổ biến trong lịch sử Trung Quốc. Ngoại thích Lương
Ký thời Hán đã sở hữu vùng đất có chu vi 1000 dặm. Thời Đường, Tống, Minh,
Thanh phong cấp ruộng đất cho công thần, quý tộc lên tới hàng vạn khoảnh.
Như vậy, từ thế kỉ X tới giữa thế kỉ XIX, nhà nước phong kiến Việt Nam được


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

hình thành và phát triển trên chế độ sở hữu đa hình thức trong đó sở hữu công giữ vai
trò chủ đạo
* Tính chất của nền kinh tế: Kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc là điểm khá tương
đồng trong tính chất của nền kinh tế thời phong kiến cả ở phương Đông và phương
Tây trong giai đoạn sơ kì. Tuy nhiên, tính chất tự cấp tự túc sớm bị phá vỡ ở Tây Âu

phong kiến khi thành thị xuất hiện, sản xuất nông nghiệp ở các trang viên phong kiến
chuyển sang tính chất hàng hoá. Chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp nhưng
không ức thương, từ rất sớm ở Trung Quốc, trong cơ cấu kinh tế của mình đã có sự góp
mặt của thủ công nghiệp và thương nghiệp. Ở Việt Nam, nhà nước phong kiến chỉ chú
trọng phát triển kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp còn thương nghiệp luôn bị
kiềm chế. Do manh mún trong chế độ sở hữu và chiếm hữu ruộng đất nên nông
nghiệp được canh tác theo hộ gia đình, năng suất lao động thấp. Cho tới thế kỉ XV,
Đại Việt chỉ có một trung tâm sản xuất thủ công nghiệp và giao thương đó là thành
Thăng Long (Kẻ Chợ). Thời kì Đàng Trong và Đàng Ngoài một số trung tâm giao
lưu buôn bán mới xuất hiện như Phố Hiến ở Đàng Ngoài, Hội An ở Đàng Trong. Thủ
công nghiệp, thương nghiệp tiếp tục bị khống chế khi triều Nguyễn bế quan, toả
cảng. Với nền kinh tế tiểu nông Việt Nam thời phong kiến không xuất hiện những
thế lực có tiềm năng kinh tế lớn đe doạ tới chính quyền trung ương và làm cho sự
cách biệt giữa các tầng lớp xã hội không quá lớn, tính giai cấp của nhà nước và pháp
luật do vậy cũng không sâu sắc.
Chế độ sở hữu và tính chất của nền kinh tế tạo cơ sở vững chắc xác lập nhà nước
quân chủ chuyên chế với hình thức cấu trúc trung ương tập quyền.
18. Nguyên tắc Bát nghị, chiếu cố đối với người già, trẻ em, người tàn tật,
người dân tộc là một giá trị tiến bộ của cổ luật Việt Nam.
Nguyên tắc chiếu cố:
Nguyên tắc này được thể hiện ở một số loại người được chiếu cố và nội dung
chiếu cố.
Một là sự chiếu cố theo địa vị xã hội: Điều 3 quy định Tám hạng người được nghị
xét giảm tội (Bát nghị), gồm: + Nghị thân: Là họ tôn thất từ hàng đản miếu (họ hàng
nhà vua trong 5 thế hệ) trở lên, họ hoàng thái hậu từ hàng phải để tang ti ma (hạng để
tang 3 tháng), họ hoàng thái hậu từ tiểu công (hạng để tang 5 tháng trở lên). + Nghị
cố: Là những người cố cựu (chỉ những người cũ, đã theo giúp vua lâu ngày hoặc
những người giúp vua từ triều trước). + Nghị hiền: Là những người có đức hạnh lớn. +
Nghị năng: Là những người có tài năng lớn.+ Nghị công: Là những người có công
huân lớn. + Nghị quý: Là những quan viên có chức sự từ tam phẩm trở lên, những

quan viên tản chức (chức quan nhàn tản, như chức học quan, hàn lâm) có tước từ nhị
phẩm trở lên.+ Nghị cần: Là những người cần cù chăm chỉ.+ Nghị tân: Là con cháu
các triều vua trước.
Nội dung nghị giảm được quy định cụ thể ở các điều 4, 5, 8 và 10. Theo đó, những
người thuộc diện Bát nghị, trừ khi phạm tội thập ác, còn nếu phạm vào tội tử thì các
quan nghị án phải khai rõ tội trạng và hình phạt nên xử thế nào, làm thành bản tấu
dâng lên để vua quyết định, nếu phạm từ tội lưu trở xuống thì được giảm một bậc;
những người thuộc nghị thân được miễn tội đánh roi, đánh trượng, thích chữ vào mặt
(riêng họ hoàng hậu thì phải dùng tiền để chuộc). Nếu người phạm tội mà được hưởng


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

nhiều bậc nghị giảm thì chỉ được giảm theo bậc giảm nhiều nhất chứ không được
giảm cả. Bát nghị là chế định của luật pháp Trung Hoa, ở Đại Việt lần đầu tiên được
vận dụng vào Bộ luật của triều Lê (nếu theo các văn bản cổ luật hiện còn).
Hai là sự chiếu cố theo tuổi tác và đối với người tàn tật, phụ nữ: Điều 16 quy định
những người từ 70 tuổi trở lên, từ 15 tuổi trở xuống hoặc người bị tàn phế, phạm từ tội
lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền, trừ khi phạm thập ác. Từ 80 tuổi trở lên, 10
tuổi trở xuống hoặc bị ác tật, nếu phạm tội phản nghịch, giết người đáng tội chết thì
cũng phải tâu để vua quyết định, nếu ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc
bằng tiền, còn ngoài ra thì không bắt tội. Từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống dầu bị tội
chết cũng không hành hình, nếu có kẻ nào xui xiểm thì bắt tội kẻ đó, nếu ăn trộm có
tang vật thì kẻ nào chứa chấp tang vật ấy phải bồi thường. Theo Điều 17, người già cả
hoặc bị tàn tật trước đây phạm tội đến khi già cả tàn tật mới bị phát giác hoặc người
khi còn bé phạm tội đến khi lớn lên mới bị phát giác thì đều được xử theo luật già cả,
tàn tật, trẻ nhỏ. Trong lượng hình hoặc thi hành hình phạt đối với nữ phạm nhân, nhà
làm luật đã dành cho một số ưu đãi. Ví dụ: Theo Điều 1, khi phạm tội đồ hoặc lưu,
nam phạm nhân bao giờ cũng bị đánh thêm trượng, còn nữ phạm nhân chỉ phải chịu
tội roi. Theo Điều 680, nữ phạm nhân tội tử, tội xuy mà đang có thai thì phải đủ 100

ngày sau khi sinh con mới bị đem ra hành hình hoặc đánh roi. Tội trộm cướp được
gảm nhẹ (Điều 429 - QTHL)
Như vậy, nếu như việc chiếu cố về địa vị xã hội thể hiện bản chất giai cấp của Bộ
luật thì sự chiếu cố đối với người già, trẻ em, người tàn tật, phụ nữ biểu hiện tính nhân
đạo của nhà làm luật. Theo HVLL, các trường hợp chiếu cố đều được chuộc bằng số
tiền giảm nhẹ, trừ tội Thập ác, giết người, đánh người thành thương tật, thông gian.
Việc quy định mức tiền chuộc tội đối với các quan tuỳ theo phẩm trật, vì nhà làm luật
quan niệm người có quan tước phải chịu trách nhiệm cao hơn dân thường, chức tước
càng cao, tiền chuộc càng lớn. Thập ác là những trọng tội nên không được chuộc.
Trong luật cũng không quy định việc chuộc tội đánh roi, vì theo quan niệm cổ luật, tội
đánh roi có mục đích răn bảo, dạy dỗ người phạm tội biết xấu hổ. Nguyên tắc chuộc
tội bằng tiền cũng thể hiện tính nhân đạo đối với người già, trẻ em, người tàn tật và
phụ nữ. Là sự tiến bộ của cổ luật cần nghiên cứu học tập trong cơ chế thị trường.
19. Nguyên tắc chịu trách nhiệm hình sự liên đới là một trong những nguyên
tắc cơ bản của cổ luật Việt Nam.
Trách nhiệm hình sự liên đới là một trong những điểm đặc trưng của cổ luật. Nguyên
tắc này được quy định trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống và đồng cư. Điều đó
được thể hiện ở hai khía cạnh. Một là khi phạm vào một số loại tội, người thân thích
trong gia đình phải chịu tội thay cho kẻ phạm tội. Quy định này có từ thời Lý Trần,
sang thời Lê và triều Nguyễn.
Theo khoản cuối của Điều 35 - QTHL, nếu tất cả người trong nhà cùng phạm tội
thì chỉ bắt tội người tôn trưởng.
Điều 38 – QTHL quy định, con cháu phải thay thế ông bà, cha mẹ chịu tội đánh
roi, đánh trượng và được giảm một bậc. Những quy định này nhằm đề cao trách nhiệm
của người gia trưởng và đạo hiếu của con cháu.
Hai là, đối với một số trọng tội, Thập ác tội mưu phản, mưu đại nghịch không những
phạm nhân mà cả vợ con cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo các điều 411 và
412 – QTHL và 223 - HVLL, những kẻ phạm tội mưu phản, mưu đại nghịch thì không



THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

những kẻ phạm tội bị chém đầu, mà cả vợ con và điền sản đều bị tịch thu sung công.
Việc liên đới chịu trách nhiệm hình sự còn được thể hiện qua nhiều điều khoản khác
của Bộ luật. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, theo Điều 16 người từ đủ 8 tuổi trở
lên đến dưới 90 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm của mình tuy
có phân biệt ở mức độ và phạm vi khác nhau.
Phần Tự luận – Lý thuyết
1. CUỘC CẢI TỔ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Trải qua mấy chục năm, từ Lê Thái Tổ đến Thái Tông, Nhân Tông, nếu kể cả Nghi
Dân là 4 đời vua, xã hội Đại Việt đã có nhiều biến đổi. Đất nước Đại Việt yên bình,
vững chắc và giai cấp địa chủ phong kiến đã trưởng thành lên một bước mới, đòi hỏi
và đã có đủ điều kiện xây dựng bộ máy cai trị tương xứng. Thời điểm này xuất hiện
một nhân vật đầy tài năng và có hoài bão chính trị lớn lao, gánh vác được trọng trách
ấy, người đó là Lê Thánh Tông.
Lê Thánh Tông lên ngôi ở tuổi 18, làm vua được 37 năm và mất lúc 55 tuổi.
Cuộc cải tổ bộ máy nhà nước của Lê Thánh Tông là một trong những cuộc cải tổ
lớn nhất và thành công nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Mô hình nhà
nước thời Lê Thánh Tông trở thành mẫu mực cho những đời vua và các triều đại sau
mô phỏng theo. Trên cơ sở học tập các triều đại trước, nghiên cứu về cải cách nhà
nước triều Minh thời Chu Nguyên Chương, Lê Thánh Tông đã tiến hành cải cách
toàn diện bộ máy nhà nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc
phòng. Lần đầu tiên trong lịch sử, bản đồ Hồng Đức được ban hành trên cơ sở tổng
kết về địa dư hành chính trong cả nước. Nước Đại Việt thời Lê Thánh Tông gồm có
13 đạo xứ thừa tuyên, 178 phủ huyện, 50 châu, 6851 xã và Kinh đô là Phủ trung đô
(Đông kinh – Đông quan)9.
Mục tiêu cơ bản của cuộc cải tổ bộ máy nhà nước của Lê Thánh Tông là nhằm tập
trung tuyệt đối quyền lực nhà nước vào trong tay nhà vua theo nguyên tắc "tôn quân
quyền" của Nho giáo và tăng cường hiệu lực của bộ máy quan liêu, cũng tức là nâng
cao sự thể hiện và hiệu quả quyền lực của hoàng đế.

Biện pháp chủ yếu mà cuộc cải tổ này thực hiện là:
- Bỏ bớt một số chức quan, cơ quan và cấp chính quyền trung gian để bảo đảm sự
tập trung quyền lực vào nhà vua.
- Các cơ quan giám sát, kiểm soát lẫn nhau để loại trừ sự lạm quyền và nâng cao
trách nhiệm.
- Không tập trung quá nhiều quyền hành vào một cơ quan mà tản ra cho nhiều cơ
quan để ngăn chặn sự tiếm quyền.
Cuộc cải tổ bộ máy nhà nước được Lê Thánh Tông tiến hành trong suốt cả quãng
đời làm vua của ông. Trong đó, đỉnh điểm là vào năm 1471, khi nhà vua ra đạo Dụ
hiệu định quan chế mà sử sách thường gọi văn bản này là Hoàng triều quan chế. Đạo
dụ này đúc kết và phát triển công cuộc cải tổ đã bước đầu được tiến hành trong những
năm trước đó, đặt cơ sở pháp lí cho cả quá trình cải tổ.
Lê Thánh Tông đã tiến hành cải tổ bộ máy nhà nước một cách toàn diện cả ở trung
9Triều Nguyễn có 30 tỉnh, Phủ thừa thiên, 78 phủ, 252 huyện, 39 châu,


THẦY NGỌC HIẾU - 0359033374

ương và địa phương, cả ngạch dân sự và quân sự, cả quan chế và thiết chế nhà nước.
Cải cách LTT ở Trung ương
Lê Thánh Tông cải cách bộ máy nhà nước trung ương theo nguyên tắc“Tôn quân
quyền”, thông qua ba biện pháp cơ bản là: (i) Xóa bỏ một số chức quan, cơ quan có
khả năng có khả năng lấn át quyền lực tối cao, xây dựng các cơ quan và văn phòng
giúp việc; (ii) Thiết lập hệ thống cơ quan giám sát quyền lực nhà nước từ trung ương
đến địa phương; (iii) Kết hợp nguyên tắc tập quyền với phân quyền và tản quyền trong
vận hành bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực tối cao thuộc về triều đình trung ương
đứng đầu là nhà vua.
Biểu hiện: (Xem thêm GT)
Thứ nhất, xóa bỏ Tể tướng, Tướng quốc, Tướng công, Đại Hành khiển, Đại đô
đốc, Tam thái, Tam thiếu, Tam tư; Xây dựng 5 cơ quan văn phòng giúp việc: Hàn lâm

viện, Đông các viện, trung thư giám, …; Xây dựng Lục Bộ, Lục khoa, Lục tự; Các cơ
quan chuyên môn, cơ quan thông tin, cơ quan kinh tế; Xây dựng cải cách quân đội
‘Ngũ phủ quân”, xây dựng Luật quân sự (122 điều quân lệnh); xác lập chủ quyền xây
dựng bản đồ Hồng Đức; …
Thứ hai, Thiết lập hệ thống cơ quan giám sát quyền lực nhà nước: Lục khoa, Ngự
sử đài; Giám sát Lục Bộ, quan chức, từ trung ương đến địa phương
Lục khoa…
Ngự sử đài…
Thứ ba, Kết hợp nguyên tắc tập quyền với phân quyền và tản quyền trong vận
hành bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực tối cao thuộc về triều đình trung ương
đứng đầu là nhà vua:
Cơ quan văn phòng và xây dựng pháp luật: Hàn lâm viện
Tại các bộ,…
Ngũ phủ quân: Tả hữu đô đốc có quyền ngang nhau…
Tóm lại, BMNN Lê Thánh Tông thể hiện nguyên tắc Tập quyền thống nhất, là mô
hình nhà nước mẫu mực điển hình trong chính thể quân chủ PKVN.
Nguyên tắc “Tôn quân quyền” và công cuộc cải cách nhà nước của Hoàng đế
Lê Thánh Tông(1460-1497).
Nguyên tắc “Tôn quân quyền” ra đời trong thời kỳ hỗn loạn của nhà Chu, nguyên tắc
“Tôn quân quyền” là ước vọng ổn định trật tự xã hội và quyền lực của Khổng Tử
trong thời đại này. “Tôn quân quyền” là sự tôn trọng quyền lực của nhà vua. Nói cách
khác là phải phục tùng một cách vô điều kiện sức mạnh của nhà vua. Bởi quyền uy
của vua xuất phát từ thuyết “Thiên mệnh” và nguyên tắc “Chính danh” của Nho giáo.
Với thuyết “Thiên mệnh”, Khổng Tử muốn thần thánh hóa quyền lực và sức mạnh của
Hoàng Đế. Với nguyên tắc “Chính danh”,Khổng Tử muốn người trong nhân gian phải
sống theo “tam cương”, “ngũ thường”, sống với những nguyên tắc, qui định nghiêm
khắc để trở thành người quân tử.
Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, thế kỷ X nền độc lập của dân tộc Việt Nam đã được
xác lập trở lại. Trong thời kỳ đầu, khi mới giành được độc lập nguyên tắc “Tôn quân
quyền” chưa trở thành nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy Nhà nước Đại Việt.

Đến thời Lê Thánh Tông cùng với 3 biện pháp cải cách bộ máy Nhà nước, nguyên tắc


×