Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận triết học: Vận dụng phạm trù nguyên nhân và kết quả để giải quyết thực trạng tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.89 KB, 34 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để phân tích
thực trạng tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay”

1


A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm vừa qua, cùng với sự tăng trưởng của Kinh tế,
Việt Nam đã và đang nhập những thiết bị tiên tiến nhằm củng cố,
phát triển nền công nghiệp. Phương tiện giao thông cũng là một
trong những sản phẩm được nhập vào thị trường Việt Nam đáng kể
để phục vụ cho nhu cầu đi lại, làm việc và kinh doanh.
Bên cạnh sự phát triển không ngừng của phương tiện giao thông,
với những hành vi thiếu ý thức, thiếu trách nhiệm mà tai nạn giao
thông đã trở thành một trong những vấn nạn lớn nhất hiện nay.
Theo thống kê trên báo cảnh sát nhân dân thì vào năm 2013, Việt
Nam với số dân 89,7 triệu thì có 9.369 người dân thiệt mạng do tai
nạn giao thông. Một con số không hề nhỏ.
Vào năm 2014, theo Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia cho biết
toàn quốc xảy ra 25.322 vụ tai nạn giao thông, làm chết 8.996 người,
bị thương 24.417 người. Tuy nhiên, con số này so với năm trước đã
giảm, nhưng vẫn còn rất cao.
Năm 2015, Cả nước ghi nhận 22.850 vụ tai nạn giao thông, hơn
8.700 người chết và hơn 21.000 người bị thương.
2


Năm 2016 (tính từ 16-12-2015 đến 15-12-2016), cả nước xảy ra


21.589 vụ tai nạn giao thông, làm chết 8.685 người, làm bị thương
19.280 người. So với cùng kỳ năm 2015, giảm 1.261 vụ ( giảm
5,52%), giảm 43 người chết (giảm 0,49%), giảm 1.792 người bị
thương (giảm 8,5%).
Trong năm 2017, Toàn quốc xảy ra hơn 20.000 vụ tai nạn giao
thông, làm chết hơn 8.000 người, bị thương 17.000 người.
Qua điều tra, phân tích của các cơ quan chức năng đều cho rằng đa
phần các vụ tai nạn giao thông xảy ra là do ý thức của người tham
gia giao thông (chiếm 71,6%). Trong các vụ tai nạn giao thông,
66,7% là do mô tô, xe máy; ô tô chiếm 27,07%.
Vói số liệu trên chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của việc ý
thức, trách nhiệm của mỗi cá thể, tập thể khi tham gia giao thông.
Mặc dù các ban lãnh đạo đã chủ trương đề xuất ra các phương
pháp, cũng như áp dụng những chính sách khắt khe về việc vi phạm
trật tự, an toàn giao thông nhưng số lượng tai nạn giao thông vẫn
chưa giảm đáng kể.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi chọn đề tài “Vận dụng cặp phạm
trù nguyên nhân và kết quả để phân tích thực trạng tai nạn giao
thông ở nước ta hiện nay” để thực hiện tiểu luận triết học của mình.
3


Câu hỏi nghiên cứu của Tiểu luận là: người dân Việt Nam cần làm
gì và làm như thế nào để góp phần làm giảm tỉ lệ thương vong của tai
nạn giao thông ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá thực trạng tai nạn giao thông, phân tích, đánh giá ý thức,
nhiệm vụ của người dân trong vấn đề tai nạn giao thông và đề xuất
một số giải pháp góp phần cải thiện tỉ lệ tai nạn giao thông ở Việt
Nam.

3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: người dân Việt Nam và những kiều bào
đang sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trong phạm vi nước Việt Nam
trong giai đoạn từ 2016 đến 2018.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó, chú ý một số
phương pháp chính là: Logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, gắn lý
luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.

4


B. Phần nội dung
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CẶP PHẠM TRÙNGUYÊN
NHÂN VÀ KẾT QUẢ
1.1. Khái niệm cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua
lại giữa các mặt, các bộ phận, các thuộc tính trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất
hiện do nguyên nhân tạo ra. Ví dụ, sự tương tác lẫn nhau giữa các
yếu tố trong hạt ngô là nguyên nhân làm cho từ hạt ngô nảy mầm lên
cây ngô. Sự tác động giữa điện, xăng, không khí, áp xuất, v.v
(nguyên nhân) gây ra sự nổ (kết quả) cho động cơ.
Cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện. Nguyên
cớ là những sự vật, hiện tượng xuất hiện đồng thời cùng nguyên nhân
nhưng chỉ có quan hệ bề ngoài, ngẫu nhiên chứ không sinh ra kết
quả. Ví dụ, Mỹ lợi dụng nguyên cớ chống khủng bố và cho rằng Irắc

có vũ khí huỷ diệt hàng loạt để tiến hành chiến tranh xâm lược Irắc.
Thực chất, Irắc không có liên quan tới khủng bố và không có vũ khí
huỷ diệt hàng loạt như thanh tra của Liên Hợp quốc đã kết luận. Điều
kiện là hiện tượng cần thiết để nguyên nhân phát huy tác động. Trên
cơ sở đó gây ra một biến đổi nhất định. Nhưng bản thân điều kiện
không phải nguyên nhân. Ví dụ, nguyên nhân của hạt thóc nảy mầm
là do những yếu tố bên trong hạt thóc tác động lẫn nhau gây nên,
nhưng để nẩy thành mầm thì phải có điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm,
v.v.
Triết học duy vật biện chứng cho rằng, mối liên hệ nhân quả có
các tính chất:
5


Tính khách quan: điều này thể hiện ở chỗ, mối liên hệ nhân quả
là vốn có của sự vật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. Dù con người có biết hay không thì giữa các yếu tố trong một
sự vật, hoặc giữa các sự vật vẫn liên hệ, tác động để gây ra những
biến đổi nhất định.
Tính phổ biến: thể hiện ở chỗ, mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội, tư duy đều có mối liên hệ nhân quả. Không có hiện
tượng nào không có nguyên nhân của nó.
Tính tất yếu: thể hiện ở chỗ, cùng một nguyên nhân như nhau,
trong những điều kiện như nhau thì kết quả gây ra phải như nhau.
Nghĩa là nguyên nhân tác động trong những điều kiện càng ít khác
nhau thì kết quả do chúng gây ra càng giống nhau.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có
trước kết quả về mặt thời gian. Tuy nhiên, không phải mọi sự nối tiếp
nhau về thời gian đều là quan hệ nhân quả. Ví dụ, ngày và đêm

không phải là nguyên nhân của nhau. Sấm và chớp không phải
nguyên nhân của nhau. Muốn phân biệt nguyên nhân và kết quả thì
phải tìm ở quan hệ sản sinh, tức là cái nào sinh ra cái nào.
Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả khác nhau tuỳ
thuộc vào điều kiện cụ thể, ví dụ: gạo và nước đun sôi có thể thành
cơm, cháo, v.v phụ thuộc vào nhiệt độ, mức nước, v.v.

6


Ngược lại, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, ví
dụ: sức khoẻ của chúng ta tốt do luyện tập thể dục, do ăn uống điều
độ, do chăm sóc y tế tốt v.v chứ không chỉ một nguyên nhân nào.
b. Trong những điều kiện nhất định, nguyên nhân và kết quả có
thể chuyển hoá lẫn nhau. Nghĩa là cái trong quan hệ này được coi là
nguyên nhân thì trong quan hệ khác có thể là kết quả. Ví dụ, chăm
chỉ làm việc là nguyên nhân của thu nhập cao. Thu nhập cao lại là
nguyên nhân để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân.
Kết quả, sau khi xuất hiện lại tác động trở lại nguyên nhân
(hoặc thúc đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực, hoặc
ngược lại). Ví dụ, nghèo đói, thất học làm gia tăng dân số, đến lượt
nó, gia tăng dân số lại làm tăng nghèo đói, thất học, v.v.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân
và kết quả
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính
khách quan của mối liên hệ nhân quả. Không được lấy ý muốn chủ
quan thay cho quan hệ nhân quả.
- Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo ra những
nguyên nhân cùng những điều kiện cho những nguyên nhân đó phát
huy tác dụng. Ngược lại, muốn cho hiện tượng nào đó mất đi thì phải

làm mất nguyên nhân tồn tại của nó cũng như những điều kiện để các
nguyên nhân ấy phát huy tác dụng.
7


- Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy
sinh vì các nguyên nhân có vai trò không như nhau.
- Nguyên nhân có thể tác động trở lại kết quả; do đó, trong hoạt
động thực tiễn cần khai thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để
thúc đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực phục vụ cho con
người..

8


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN
VÀ KẾT QUẢ VÀO PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TAI NẠN
GIAO THÔNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay
Sáng ngày 05/07/2018, Ủy ban An toàn giao thông quốc gia tổ
chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết công tác bảo đảm trật tự
an toàn giao thông. Dự và chỉ đạo hội nghị có Phó thủ tướng thường
trực Trương Hòa Bình - Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông quốc
gia.
Trong đó, đường bộ xảy ra 8.889 vụ, làm chết 4.027 người, bị
thương 6.997 người. So với cùng kỳ năm 2017 giảm 568 vụ (6.01%), giảm 04 người chết (-0.10%), giảm 893 người bị thương (11.32%).
Đường sắt xảy ra 62 vụ, làm chết 53 người, bị thương 28 người.
So với cùng kỳ năm 2017 giảm 14 vụ (-18.42%), giảm 12 người chết
(-18.46%), giảm 02 người bị thương (-6.67%).
Đường thuỷ nội địa xảy ra 40 vụ, làm chết 22 người, bị thương

02 người. So với cùng kỳ năm 2017, giảm 10 vụ (-20%), giảm 04
người chết (-15.38%), giảm 12 người bị thương (-85.71%).
Lĩnh vực hàng không đã xảy ra 10 sự cố (trong đó có 03 sự cố
mức C, 07 sự cố mức D); so với cùng kỳ năm 2017 tăng 05 sự cố.
9


Lĩnh vực hàng hải đã xảy ra 08 vụ, làm chết 01 người. So với
cùng kỳ năm 2017, giảm 02 vụ (-20.00%), giảm 11 người chết (91.67%), giảm 01 người bị thương (-100%).
Theo thống kê của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, có 35
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có số người chết vì tai nạn
giao thông giảm so với cùng kỳ năm 2017, trong đó 09 địa phương
giảm trên 20% số người chết là: Vĩnh Phúc, Lào Cai, Bạc Liêu, Yên
Bái, An Giang, Hải Phòng, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Đắc Lắc. Đặc
biệt, các tỉnh: Vĩnh Phúc, Lào Cai, Bạc Liêu giảm trên 30% số người
chết do tai nạn giao thông.
Tuy nhiên, vẫn còn 26 địa phương có số người chết vì tai nạn
giao thông tăng so với cùng kỳ 2017, trong đó 10 tỉnh tăng trên 20%
là: Quảng Nam, Kiên Giang, Điện Biên, Hậu Giang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Cà Mau, Hải Dương, Bắc Giang, Tây Ninh, trong đó, có 04 tỉnh
có số người chết tăng trên 100% là: Cà Mau, Hải Dương, Bắc Giang,
Tây Ninh.
Về nguyên nhân tai nạn giao thông, Ủy ban An toàn Giao thông
Quốc gia cho hay, phân tích trên 6.804 vụ tai nạn giao thông đường
bộ: 26% do người điều khiển phương tiện vi phạm làn đường khiển
phương tiện vi phạm làn đường, phần đường; 8,77% do vi phạm tốc
độ xe chạy; 8,86% do chuyển hướng không chú ý; 6,23% do không
nhường đường; 5,97% do vượt xe sai quy định; 7,82% do vi phạm
10



quy trình thao tác lái xe; 2,32% do tránh xe; 4,23% do sử dụng rượu
bia; 29,8% do vi phạm biển báo hiệu đường bộ, dừng đỗ sai quy
định, không có Giấy phép lái xe, vi phạm quy trình thao tác lái xe,
phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật, do người đi bộ, do
công trình giao thông và các nguyên nhân khác.
Điều đáng chú ý là tình trạng chống lại cảnh sát giao thông khi
thi hành nhiệm vụ với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Trong 06 tháng đầu năm 2018 xảy ra 15 vụ, làm 16 cán bộ chiến sĩ bị
thương, bắt giữ 13 đối tượng vi phạm.
Phát biểu tại hội nghị Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình yêu cầu
các địa phương tăng cường trách nhiệm, đóng góp ý kiến, giải pháp
để đảm bảo trật tự an toàn giao thông thời gian tới.
Phó Thủ tướng đánh giá Luật xử lý vi phạm hành chính quy
định về việc xử phạt trong lĩnh vực giao thông hiện chưa đủ mức răn
đe, phòng ngừa những hành vi gây tai nạn giao thông. Bộ Tư pháp
cần xem xét đề xuất, sửa đổi để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật.
2.2. Một số nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tai nạn giao
thông
Theo thống kê của Ủy ban an toàn giao thông quốc gia 29,8%
do vi phạm biển báo hiệu đường bộ, dừng đỗ sai quy định, không có
11


Giấy phép lái xe, vi phạm quy trình thao tác lái xe, phương tiện
không đảm bảo an toàn kỹ thuật, do người đi bộ, do công trình giao
thông và các nguyên nhân khác. Tiếp đến là do vi phạm làn đường
chiếm 26% trên tổng số nguyên nhân gây ra tai nạn. Làn đường
thường xuyên có xe qua lại nhưng đôi lúc lại không thiếu vắng đi

việc mua bán trái phép. Việc mua bán trái phép lấn chiếm lòng lề
đường hiện đang là một nỗi lo cho nhà nước nói chung và người dân
nói riêng.
Mua bán ở lòng lề đường không chỉ mang theo những tai nạn về
an toàn giao thông mà còn mang nỗi lo về sức khỏe cho người dân.
Đa phần mua bán lòng lề đường, việc vi khuẩn xâm nhập vào thức ăn
để đi vào cơ thể người là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, ý thức của
người dân chưa cao nên việc cảnh giác này vẫn còn hạn chế.
Một mặt khác, mua bán ở lòng lề đường không phải chịu những
phần thuế và không tốn tiền thuê mặt bằng nên bớt gánh nặng về chi
phí cho người bán.
Kế đến là việc vi phạm tốc độ chạy xe chiểm 8,77%, việc vi
phạm tốc độ chạy xe đa phần nằm trong lứa tuổi thanh thiếu niên,
trong lứa tuổi này tâm lý chung vẫn còn hay hiếu thắng, thích thể
hiện bằng cách chạy nhanh vượt ẩu. Một phần nhỏ do tâm lý người

12


đi làm, do bận việc gia đình mà việc đi làm tương đối trễ giờ, từ đó
muốn nhanh đến công sở mà vượt quá tốc độ giao thông cho phếp.
Gây tai nạn do chuyển hướng không chú ý chiếm 8,86%, đa
phần do người phụ nữ điều khiển. Trong tâm lý người phụ nữ như cái
hộp, tất cả nỗi lo về gánh nặng gia đình, con cái, và nhiều thứ khác
đều chứa đựng. Từ đó, họ luôn mang trong người tâm trạng suy nghĩ,
lo lắng tham gia giao thông nên thường chuyển hướng thì không chú
ý quan sát và quên bật tín hiệu chuyển hướng để người tham gia giao
thông khác biết .
Do không nhường đường 6,23%, một tỉ lệ không lớn nhưng
cũng không nhỏ, không nhường đường có thể phân tích thành hai

mặt. Một mặt, là việc không muốn nhường đường cho người khác đi,
từ đó xảy ra tình trạng chiếm đường bằng tốc độ, cố gắng chạy nhanh
hơn để có thể giành vị trí ưu tiên. Một mặt khác, do họ nhường
đường không đúng cách, và dẫn đến việc họ chiếm đường và gây tai
nạn.
Do vượt xe sai quy định chiếm 5,97%, vượt xe sai quy định
không chỉ ở xe máy mà còn ở việc xe hơi, xe tải,… và nhiều phương
tiện giao thông khác. Trong quá trình tham gia giao thông các
phương tiện có chiều hướng vượt lên trên trước. Nhưng trong quá
trình vượt xe họ không chú ý đến xung quanh.
13


Không ít xe máy, nhất là đối với các đối tượng là học sinh, chưa
đến tuổi sử dụng xe máy phân khối trên 97cm3, tuy nhiên các bậc
phụ huynh vì thương con mà cho các em chạy xe đến trường, cũng
như cho phép các em được sử dụng phương tiện trước tuổi mà chưa
qua học lái xe của Bộ Giao thông. Một mặt khác, các em học sinh
vẫn đang trong lứa tuổi mới lớn, dễ dàng bị cám dỗ bởi những
phương tiện mạnh nên tìm tòi, thử nghiệm, việc phóng xe hay sử
dụng phương tiện không đúng cách cũng là một phần nguyên nhân.
Việc người tham gia giao thông nhưng không biết rõ luật giao
thông. Khi đi sát hạch lái xe đa phần người tham gia sát hạch chỉ
muốn mình đạt được bằng lái xe nhanh gọn nên nhiều khi chọn cách
học tủ, học mẹo để dễ nhớ, dễ thi đậu. Vì vậy, khi tham gia giao
thông thì đã đã không hiểu đầy đủ luật, quy định. Điều này dẫn đến
không ít người tham gia giao thông mà vượt sai quy định an toàn
giao thông.
Kế đến là vượt qua xe lớn khi đi xe gắn máy. Xe tải, xe khách
thường là những xe di chuyển với quán tính rất cao, việc vượt qua

các loại xe này thường phải chú ý cảnh giác và phải có một tốc độ
chắc chắn, không bị dừng đột xuất khi vượt qua, vì khi dừng như vậy
các loại xe này cũng sẽ không có khả năng thắng kịp lúc. Theo quy
định vượt xe tải, xe khách bằng xe máy, thì xe máy phải chạy bên lề
14


phải của các loại xe này. Tuy nhiên không ít xe lại vượt bên trái nên
dẫn đến việc gây ra tai nạn không đáng có.
Vi phạm quy trình thao tác lái xe chiếm 7,82%, con số này
tương đối cao. Và quy trình thao tác lái xe chỉ vi phạm khi đối tượng
lái xe nhưng không tìm hiểu các quy trình một cách đúng quy trình
điều khiển của nhà sản xuất. Việc vận hành phương tiện là một việc
tương đối đơn giản, tuy nhiên, phải hiểu được phương tiện và quy
trình vận hành, thì chúng ta mới có thể uyển chuyển mà điều hướng
phương tiện. Điều hướng phương tiện đúng, và hiểu quy trình chúng
ta mới có thể xử lý tình huống khi tham gia giao thông một cách an
toàn nhất có thể. Tham gia giao thông là một quy trình tương đối
phức tạp, chúng không chỉ đòi hỏi ở việc sử dụng đúng tốc độ, sử
dụng đúng chức năng của phương tiện mà còn cần phải sử dụng đúng
lúc, đúng thời điểm.
Do tránh xe chiếm 2,32%. Tránh xe dẫn đến gây tai nạn giao
thông, khi mới nghe qua chúng ta chỉ có thể hình dung làm gì có việc
đó. Nhưng thực tiễn đã chứng minh không gì không thể xảy ra. Tránh
xe gây tai nạn giao thông, là một việc vẫn tồn tại vì các đối tượng
tránh xe chỉ chú ý đến khía cạnh xe cần tránh chứ không hề chú ý
đến khía cạnh những xe khác, phương tiện khác đang lưu thông. Từ
đó, sự thiếu chú ý làm cho các đối tượng chủ quan mà gây tai nạn.
15



Do sử dụng rượu bia chiếm 4,23%. Rượu bia đang là một vấn
đề đáng quan tâm ở Việt Nam. Đa phần ở Việt Nam, rượu bia được
sử dụng tương đối rộng rãi trong các buổi tiệc, trong các ngày lễ, và
người dân Việt Nam xem đó như một thú vui, dùng để chia sẻ những
nỗi niềm với nhau. Tuy nhiên, đằng sau việc sử dụng rượu bia mang
một hệ lụy không đáng có. Rượu bia có thể làm cho khả năng điều
khiển hành vi, ý thức suy giảm một cách tuyệt đối. Đa phần người
sau khi dùng rượu bia, sẽ có trạng thái căng thẳng, nhức đầu, tay
chân bủn rủn, không kiểm soát được hành vi của bản thân. Từ đó
tham gia giao thông trở nên nguy hiểm hơn. Đặc biệt, sau khi đã có
hơi men, các đối tượng thường sẽ chạy xe vói tốc độ rất cao do
không kiểm soát đưuọc bản thân nữa.
Bên cạnh đó, người điều khiển giao thông không tuân thủ pháp
luật một cách nghiêm ngặt và tự giác. Đây là yếu tố chính dẫn đến tai
nạn ngày càng gia tăng. Theo thống kê cho thấy, chỉ khoảng 48%
người điều khiển phương tiện (xe máy) có giấy phép hợp lệ. Trong số
đó, tôi thiết nghĩ phần lớn không nắm chắc luật lệ giao thông một
cách kỹ lưỡng, bởi những tiêu cực trong cấp phát bằng lái xe vẫn phổ
biến chiếm đến 52%.
Phương tiện (xe má) không qua kiểm định an toàn hằng năm.
Xe máy ở Việt Nam chỉ kiểm định một lần khi làm thủ tục đăng ký
mà thôi. Cơ quan chức năng không hề quan tâm đến sự xuống cấp
16


sau đó của những phương tiện đang lưu hành trên đường. Thiết nghĩ
là cơ quan chức năng nên quy định chủ xe đăng ký kiểm định xe máy
định kỳ như xe ô tô.
Cơ sở hạ tầng cũng đóng một vai trò không nhỏ trong việc cung

cấp cơ sở vật chất cho việc tham gia giao thông. Sự phân bố không
hợp lý của hệ thống biển báo giao thông cũng như sự xuống cấp trầm
trọng của các tuyến đường nói riêng và hệ thống cơ sở hạ tầng nói
chung cũng là một trong những nguyên nhân gián tiếp dẫn đến tai
nạn giao thông ở Việt Nam nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng.
Nguyên nhân gây tai nạn khi lái xe không phải là say rượu khi
cầm lái mà là phân tâm khi lái xe. Người lái xe bị phân tâm khi
không tập trung sự chú ý vào con đường trước mặt và công việc lái
xe, thay vào đó là nói điện thoại, gởi tin nhắn, ăn vặt, trang điểm,…
Lái xe mất tập trung đặc biệt nguy hiểm vì nó có thể xảy ra bất cứ lúc
nào. Các nhà nghiên cứu Virginia Tech cảnh báo sử dụng tai nghe
hay Bluetooth để nói chuyện qua điện thoại di động không an toàn
khi cầm tay. Tuyệt đối không sử dụng điện thoại di động trong khi lái
xe là an toàn hơn và có ý nghĩa thực tế đối với mọi người tham gia
giao thông.
Gởi tin nhắn tăng nguy cơ tai nạn gấp 23,2 lần so với lái xe một
cách tập trung chú ý. Các nghiên cứu của NHTSA và Virginia Tech
17


đều đi đến kết luận là soạn thảo và gởi tin nhắn là nguy hiểm nhất
trong lúc tham gia giao thông.

2.3. Hậu quả của tai nạn giao thông
Tình hình giao thông ở nước ta ngày càng diễn biến phức tạp
khi số lượng phương tiện giao thông ngày càng tăng một cách chóng
mặt. Trong những năm gần đây, số lượng tai nạn giao thông ngày
càng nhiều và xảy ra liên tục hơn so với trước kia khi giao thông vẫn
chưa phát triển. Đi đôi với việc cải thiện chất lượng của các phương
tiện giao thông, nhiều tuyến đường được mở rộng và nâng cấp cơ sở

hạ tầng thì tai nạn cũng trở thành một vấn đề được xã hội quan tâm
hàng đầu. Tai nạn giao thông(TNGT) đã và đang là vấn đề nhức
nhối của toàn xã hội. Nhiều gia đình đã mất đi người thân, nhiều
người trở thành tàn phế, kinh tế tụt hậu, con cái bơ vơ… là
những hậu quả nặng nề và kéo dài của tai nạn giao thông. TNGT
được xem là một trong những thảm họa lớn nhất đe dọa đến sinh
mạng và sức khỏe của con người. Hậu quả của nó rất nặng nề, không
chỉ ảnh hưởng về mặt tinh thần mà còn dễ dẫn đến nghèo đói, lạc
hậu, bệnh tật bởi có tới 70% số vụ, số người tử vong là đối tượng
thanh niên, trụ cột trong gia đình.
Tai nạn giao thông không chỉ thiệt hại về người và của mà nó
còn tác động khiến người dân phải lo sợ mỗi khi ra đường, điều này
18


đã trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Không chỉ là nổi đau về
thể xác của người bị nạn mà nó còn ảnh hưởng đến người dân và
người thân xung quanh cả về tinh thần, trí lực, gây tổn thất cho xã
hội về vật chất,.... Những người may mắn sống sót chỉ bị thương nhẹ
thì không kể đến, nhưng người chết sẽ ảnh hưởng không chỉ cá nhân
mà ảnh hưởng cả một tập thể trong đó có gia đình. Những người bị
thương nặng phải đối mặt với những thương tật phải mang trong
mình suốt đời mà không thể chữa lành được. Đáng nói hơn, tai nạn
giao thông có thể cướp đi sinh mệnh của những người là trụ cột trong
gia đình. Như vậy, không chỉ chịu đau đớn về thể xác, tinh thần mà
chỗ dựa của người thân sẽ mất đi khiến họ phải lâm vào những hoàn
cảnh khó khăn không thể biết trước được điều gì. Những người con
phải chịu cảnh mồ côi cha hoặc mẹ, những người vợ phải chịu cảnh
mất chồng và những người đàn ông phải chịu cảnh gà trống nuôi con.
Hậu quả của tai nạn giao thông là không kể hết khi nó tác động và

gây tổn thương đến toàn xã hội và gia đình người bị nạn.
Tai nạn giao thông không loại trừ một ai, từ người già đến trẻ,
từ những người trụ cột trong gia đình đến những cô cậu học sinh sinh
viên - những người con thân yêu của cha mẹ, những chủ nhân tương
lai của đất nước. Và hậu quả của tai nạn giao thông để lại thật là
khủng khiếp, ngoài những trường hợp tử vong thì phần lớn các
trường hợp dù ít, dù nhiều đều để lại di chứng ở các mức độ khác
19


nhau. Những di chứng lớn nhất phải kể đến đó là di chứng về thần
kinh, bệnh nhân bị chấn thương sọ não (chiếm khoảng 45% các
trường hợp), có nguy cơ tử vong rất cao hoặc dù cứu sống được thì
cũng để lại nhiều di chứng nặng nề như sống đời sống thực vật, mất
ngôn ngữ, liệt chân tay, động kinh, rối loạn tâm thần, hoang tưởng,
trầm cảm nặng sau chấn thương dẫn đến giảm hoặc mất khả năng tái
hòa nhập cộng đồng, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội
Những bệnh nhân bị gãy vỡ cột sống, đứt tủy gây liệt hai chân
phải suốt đời ngồi trên xe lăn. Còn những trường hợp nhẹ hơn thì
cũng rách da, cơ, xây xát bầm tím trên cơ thể (chiếm 100% số bệnh
nhân nhập viện) có thể để lại sẹo xấu nếu vết thương ở vùng hàm
mặt, ngực. Nhiều bệnh nhân bị gãy răng, vỡ xương hàm, biến dạng
mặt mũi kể cả sau khi đã được phẫu thuật cũng vẫn còn di chứng, dò
chảy nước mũi, viêm tắc lệ đạo. Nặng hơn nữa thì bị gãy vỡ các
xương như xương tay, chân, xương chậu, xương đòn, xương sườn
(chiếm khoảng 30% các trường hợp) và thường có các di chứng như
biến dạng lồng ngực, lệch trục, cong chân, chân cao chân thấp nếu
không được xử lý tốt. Ngoài ra còn nhiều trường hợp bị tổn thương
các tạng trong ổ bụng như vỡ gan, lách (chiếm 40% các trường
hợp)...và nhiều bệnh nhân phải cắt bỏ phần tạng bị vỡ nát như thận,

hay một phần gan, lách...Nhiều năm sau tai nạn, bệnh nhân vẫn phải
chịu những cơn đau từ các vết sẹo, chỗ xương gãy đã lành, những
20


cơn đau đầu mỗi khi thay đổi thời tiết. Với những ca có thương tổn
lớn, nặng nề phải nằm viện dài ngày với viện phí lên đến hàng trăm
triệu đồng. Đã có những gia đình tán gia bại sản, khánh kiệt vì người
thân bị tai nạn giao thông. Hơn thế nữa, tai nạn giao thông còn ảnh
hưởng đến xã hội, đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Vì đa số
người bị chấn thương sọ não đều nằm trong độ tuổi lao động, nhiều
người trong số đó là kỹ sư, bác sĩ, kiến trúc sư, nhà nghiên cứu khoa
học...Đó là những hệ lụy mà tai nạn giao thông để lại cho xã hội.
Bên cạnh đó, không chỉ ở những người bị tai nạn mang gánh
những tổn thương mất mát, mà những người xung quanh cũng phải
gánh chịu những nỗi đau không đáng có và những chi phí không
đáng sinh ra. Gia đình phải chịu những tổn thương về tinh thần, gánh
nặng kinh tế, bên cạnh những chi phí cho gia đình họ còn phải đảm
nhiệm thêm chi phí thuốc men, chi phí bồi thường nếu nạn nhân là
người gây ra tai nạn. Không ít gia đình đã phải cầm cố những vật
dụng trong gia đình hoặc cầm cố những căn nhà để có tiền bồi
thường cho nạn nhân. Có những gia đình chỉ có một hoặc hai người
gánh vác tránh nhiệm trụ cột gia đình, tuy nhiên, tai nạn giao thông
đã cướp đi khả năng lao động, làm cho gia đình họ phải đối mặt với
rất nhiều khó khăn. Những đứa bé đã phải mồ côi từ nhỏ. Những
người mẹ đã trăm tuổi già nhưng không ai nuôi. Những cảnh gia đình
tan hoang chỉ vì mất đi người trụ cột, trở thành những gánh nặng của
21



xã hội, những đứa bé không ai giáo dưỡng sẽ có khả năng trở thành
những đối tượng xấu trong tương lai.
Những nạn nhân còn sống sót sau tai nạn, nhưng không còn khả
năng lao động hoặc bị tàn phế phải chịu những cảnh thương tâm
ngắm nhìn gia đình bao bọc, lo lắng và nuôi dưỡng mình. Mà không
có cách nào để giúp đỡ gia đình họ vượt qua khó khăn. Đó là những
nỗi đau tinh thần, những nỗi đau còn thấm thía hơn những nỗi đau về
thể xác, nước mắt có chảy cũng chỉ có thể chảy ngược vào trong
lòng.
Đó là những hậu quả khắc nghiệt mà tai nạn giao thông để lại,
những hậu quả tưởng chừng như chỉ xảy ra đối với nạn nhân nhưng
thật chất nó còn ảnh hưởng đến gia đình, đến những người xung
quanh một cách gián tiếp.
Bi thảm nhất là những cảnh những đứa bé mồ côi cha mẹ,
những đứa bé còn rất nhỏ, còn chưa ý thức được đâu là đúng đâu là
sai mà đã phải chịu cảnh mồ côi. Những đứa bé đang trong thời gian
cặp sách đến trường cũng phải bỏ học chỉ vì gia đình rơi vào cảnh
khó khăn trên.
Bên cạnh những nguyên nhân gây ra tai nạn trên còn những
nguyên nhân do thiếu ý thức của người dân và những công nhân làm
đường phố. Người dân đã quen với việc thiếu ý thức vệ sinh đường
22


phố, họ đổ rác không đúng nơi quy định, họ biến những khu vực
công cộng thành những bãi rác, làm con đường trở nên hẹp lại do bỏ
rác bừa bãi. Và nhiều thiệt hại về môi trường.
Những công nhân tu sửa đường phố, khi làm việc đã bất cẩn mà
không để những biển cảnh báo làm cho những người dân vô tội đi
trong đêm mà đi nhầm vào vùng nguy hiểm gây ra tai nạn. Đây cũng

là một phần trách nhiệm của công nhân tu sửa vì họ đã gián tiếp gây
ra tai nạn giao thông và người thiệt hại chính là những người tham
gia giao thông vô tội.
Tai nạn giao thông dù có đi qua nhưng nỗi đau luôn đè nặng
người ở lại, không chỉ gia đình, người thân của họ chịu mất mát, thiệt
thòi mà cả xã hội cũng đau cùng nỗi đau chung. Đằng sau mỗi vụ tai
nạn giao thông là cảnh ngộ thương tâm của gia đình không gì xóa tan
và bù đắp được… Sau tai nạn là những ám ảnh, dằn vặt về tinh thần.
Trong tận cùng sự đớn đau, đã có rất nhiều người phải hối hận: “giá
mà tôi cẩn thận hơn”, “giá như lúc đó tôi bình tĩnh hơn”, “giá như tôi
không uống rượu bia trước khi lái xe”... vì thực tế có người đã
“nhanh một phút để chậm cả đời”. Thay vì hối hận muộn màng của
những người gây ra tai nạn, mỗi chúng ta cần biết cách tự bảo vệ bản
thân, gia đình mình và cộng đồng bằng cách tham gia giao thông
bằng ý thức tự giác, để ngày càng bớt đi những đau thương mất mát
23


vì tai nạn giao thông. Những câu khẩu hiệu: “Phía trước tay lái là sự
sống”; “Hãy lái xe bằng cả trái tim”; “Nói không với rượu bia trước
khi lái xe”; “Hãy đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe mô tô, gắn máy”;
“An toàn mọi lúc, hạnh phúc mọi nơi”… đều là những lời kêu gọi tha
thiết, gần gũi và rất dễ thực hiện với tất cả mọi người. Những lời kêu
gọi ấy không ở đâu xa, mà ở ngay trong mỗi trái tim tình cảm, có
trách nhiệm trước an toàn tính mạng của chính mình và người khác.
Lời kêu gọi ấy muốn nhắn nhủ với tất cả mọi người trước khi tham
gia giao thông một điều: Hãy nghĩ đến sự an toàn của mình, nghĩ đến
sự mong đợi của người thân trong gia đình, anh em, bè bạn và sự an
toàn của những người đồng hành khác.
2.4. Một số giải pháp khắc phục:

Để hạn chế tai nạn giao thông không phải còn là vấn đề đơn
giản, mà đó đã và đang là vấn đề nóng cho toàn xã hội và đất nước,
là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Chúng ta cần thực hiện các giải
pháp một cách nhanh chóng và đồng bộ như sau:
Cần mạnh dạn đấu tranh với những hành vi vi phạm Luật Giao
thông đường bộ như sẵn sàng tố giác khi phát hiện thanh niên đua xe
trái phép, bọn “đinh tặc”… Khi thấy cảnh sát giao thông đối phó với
đối tượng vi phạm chống lại người thi hành công vụ thì mọi người
cần hỗ trợ, làm như vậy để răn đe người vi phạm sẽ không tái phạm.
24


Cha mẹ cần tuân thủ Luật Giao thông đường bộ để làm gương
cho con cái. Nếu như cha mẹ lái xe mô tô mà vượt đèn đỏ hay không
đội mũ bảo hiểm thì làm sao con cái chấp hành tốt những quy định
này. Cha mẹ cần quản lý con em mình, không để con em quá nhỏ
tuổi tự đi học, các em học sinh lớn hơn nhưng chưa đủ tuổi, chưa
được cấp giấy phép lái xe thì không được cho lái xe gắn máy.
Nhà trường cần thường xuyên tuyên truyền Luật Giao thông
đường bộ và có biện pháp ngăn ngừa tình trạng học sinh vi phạm
Luật Giao thông. Có thể hạ bậc hạnh kiểm nếu học sinh vi phạm trật
tự an toàn giao thông.
Cần thể hiện lòng nhân ái khi tham gia giao thông như cứu giúp
người bị tai nạn, đưa người bị nạn đến bệnh viện cấp cứu kịp thời.
Luôn có thái độ ứng xử có văn hoá khi tham gia giao thông.
Thực tế đã có biết bao người chỉ vì có thái độ hành xử kém văn hoá
như gây gổ, đánh nhau mà làm cho giao thông bị ùn tắc, thậm chí tạo
nguy cơ tai nạn giao thông
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cấp ủy
đảng, chính quyền, các ngành, các tổ chức đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở

đối với công tác bảo đảm trật tự ATGT. Coi việc chấp hành pháp luật
về trật tự ATGT là một tiêu chuẩn đánh giá chất lượng tổ chức đảng
và phân loại đảng viên; không xét thi đua khen thưởng đối với cán
25


×