Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đổi mới phương thức tự sự trong văn xuôi hư cấu việt nam đương đại tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.8 KB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Văn học là hoạt động tinh thần nằm trong văn hóa được kiến tạo tùy
thuộc mỗi thời đại lịch sử cụ thể. Từ sau 1975, Việt Nam bước vào kỷ nguyên
mới: kỷ nguyên phát triển trong bối cảnh đất nước hòa bình, thống nhất, hội
nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Từ hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt một trạng thái sống bất bình thường - chúng ta trở lại quỹ đạo thời bình, nhiều
nhu cầu mới nảy sinh, nhiều vấn đề cần nhận thức lại. Công cuộc đổi mới toàn
diện được Đảng phát động nhằm đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng
nghèo đói và tụt hậu sau nhiều thập kỷ bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Cơ chế
kinh tế thị trường được áp dụng thay cho cơ chế kinh tế bao cấp. Giao lưu mở
ra đa chiều, cuộc sống vận động, biến đổi nhanh chóng với biết bao trải nghiệm
mới, nhiều thành tựu nhưng cũng nhiều phức tạp, vấp váp... Tất cả đều đổ bóng
vào văn chương nghệ thuật. Đã có không ít công trình nghiên cứu về văn học
giai đoạn này từ các góc độ khác nhau, từ cấp độ khái quát đặc điểm, quy luật,
sự vận động chung của văn học, của thể loại đến cấp độ tác giả, tác phẩm cụ
thể. Luận án của chúng tôi chọn nghiên cứu phương thức tự sự trong văn xuôi
hư cấu (tức tiểu thuyết và truyện ngắn, bộ phận có thành tựu nổi trội) giai đoạn
này như một hướng tiếp cận vừa có tính chất tổng kết văn học sử, vừa có thể
diễn giải tương đối kỹ lưỡng về những tác phẩm tiêu biểu theo các gợi dẫn từ
bộ công cụ của lý luận văn học hiện đại.
Phương thức tự sự là một nội dung nằm trong lĩnh vực Tự sự học được
giới nghiên cứu văn học hiện đại rất quan tâm. Sự vận động, biến đổi của
phương thức tự sự cho phép nhìn nhận, đánh giá văn học một giai đoạn, một
thời đại, một trào lưu, một tác giả... một cách cơ bản, sống động. Văn xuôi hư
cấu Việt Nam từ giữa thập kỷ 80 trở đi đã có sự vận động mạnh mẽ, đạt được
nhiều giá trị nghệ thuật, được dư luận ghi nhận, nhiều người quan tâm nghiên
cứu. Lịch sử văn học có thể được nhìn như sự nối tiếp của những trường phái,
trào lưu văn học, mà cốt lõi là những quan niệm khác nhau về con người. Trong


văn xuôi, khuynh hướng bền vững hơn cả là nhìn nhận sự biểu đạt về con người
qua phương thức tự sự. Suốt chiều dài lịch sử văn học dân tộc đã từng xuất hiện
nhiều trường phái văn chương khác nhau nhưng về cơ bản, quan niệm tự sự vẫn


2

ổn định: coi trọng nội dung được kể hơn cách kể. Hình thức thường gặp là một
câu chuyện có đầu có cuối với cấu trúc cốt truyện biến chuyển theo tính cách,
số phận nhân vật..., tất cả được trình bày như một hiện thực khả tín. Văn xuôi
đương đại ngày càng có xu hướng coi trọng hơn việc kiến tạo văn bản, tức là
hình thức thể hiện câu chuyện chứ không chỉ chăm chú ở nội dung. Nhiều tác
giả văn học đang cố gắng khẳng định quan niệm: bản thân cách viết đã là nội
dung, là chủ đề quan trọng của tác phẩm. Giới nghiên cứu, do đó có thêm
những góc độ tiếp cận mới. Khảo nghiệm từ tác phẩm của Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Châu Diên, Đoàn Minh Phượng, Phong
Điệp, Thuận, Vũ Đình Giang, Đặng Thân, Đỗ Phấn, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn
Đình Tú... chúng tôi nhận thấy có sự xuất hiện của một biến chuyển rất đáng
chú ý về phương thức tự sự. Luận án, chính vì thế, với tên gọi “Đổi mới
phương thức tự sự trong văn xuôi hư cấu Việt Nam đương đại”, chọn nghiên
cứu vấn đề này với mong muốn nắm bắt và miêu tả trúng sự đổi mới có tính bứt
phá mạnh mẽ của văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1986 so với truyền thống.
Việc đi sâu khai thác cách thức kiến tạo văn bản sẽ là cơ sở đáng tin cậy giúp
làm sáng tỏ đặc điểm của một hệ hình thẩm mĩ mới đang hình thành.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nhận diện và lý giải những khía cạnh cơ bản, nổi bật
của sự đổi mới phương thức tự sự trong văn xuôi hư cấu từ 1986 đến nay như:
Sự chi phối của nguyên tắc tự sự đối với điểm nhìn trần thuật, kiểu nhân vật,

cách ứng xử với thể loại, kỹ thuật văn bản và ngôn từ nghệ thuật. Để làm rõ
những điểm mới của phương thức tự sự giai đoạn này, chúng tôi có tham khảo,
đối sánh với giai đoạn văn học trước 1986 và một số loại hình nghệ thuật cùng
thời như điện ảnh, sân khấu...
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án sẽ khảo sát các sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết tiêu biểu từ
1986 đến nay (tức văn xuôi hư cấu đương đại) được dư luận chú ý hoặc có
những nỗ lực cách tân nổi bật về phương thức tự sự.


3

3.Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
- Nhận diện, miêu tả và lý giải những nét cơ bản trong sự đổi mới phương
thức tự sự của văn xuôi hư cấu Việt Nam từ 1986 đến nay, khẳng định sự hình
thành một khuynh hướng thẩm mĩ mới trong đời sống văn chương đương đại.
- Đánh giá ý nghĩa của sự đổi mới này đối với tiến trình văn học dân tộc,
góp phần khẳng định thành tựu của văn học Việt Nam đương đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Xác định những khái niệm công cụ làm điểm tựa lý thuyết cho việc triển
khai đề tài, ở đây là những thuật ngữ cơ bản của lý thuyết tự sự học.
- Nhận diện, lý giải căn nguyên dẫn đến sự đổi mới phương thức tự sự
trong văn xuôi hư cấu đương đại.
- Khảo sát những tác giả, tác phẩm tiêu biểu (theo Phụ lục) cho sự đổi
mới phương thức tự sự, qua đó, làm rõ các phương diện đổi mới cơ bản của văn
xuôi hư cấu giai đoạn từ 1986 đến nay.
- Chỉ ra một số bài học hữu ích đối với việc sáng tạo và tiếp nhận văn học,
hướng tới một cái nhìn dân chủ, cở mở, nới rộng khung thẩm mĩ của thời đại.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án này, chúng tôi vận dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu, trong đó có các phương pháp chính sau đây:
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Nhìn nhận sự đổi mới phương thức tự
sự trong sự gắn kết với đổi mới của toàn bộ nền văn học dân tộc giai đoạn sau
1975 từ quan niệm về hiện thực, quan niệm về nhà văn, về công chúng, về ngôn
từ văn học; trong mối liên hệ với một số loại hình nghệ thuật khác như điện ảnh,
âm nhạc, sân khấu.
- Phương pháp liên ngành: Nhìn văn học trong quan hệ với văn hóa học,
tâm lý học, ký hiệu học... Điều này giúp cắt nghĩa thấu đáo hơn tinh thần thời
đại, sự tương tác văn hóa thể hiện trong văn học.
- Phương pháp so sánh: So sánh với các chặng đường văn học trước 1975
để thấy rõ những vận động, biến đổi của văn học giai đoạn sau 1975. So sánh
những khuynh hướng thẩm mĩ giữa các tác giả cùng thời để làm rõ sự đa dạng
trong phương thức tự sự của văn xuôi hư cấu đương đại.


4

5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về những đổi
mới của phương thức tự sự trong văn xuôi hư cấu Việt Nam đương đại.
- Qua khảo sát phương thức tự sự của những tác phẩm tiêu biểu, luận án
góp phần làm sáng tỏ diện mạo và sự vận động ở bề sâu của tư duy nghệ thuật
trong đời sống văn hóa, văn học Việt Nam đương đại.
- Góp phần nhận diện những quy luật phổ quát của văn học đương đại
(quy luật giao lưu hội nhập, sự tương tác thể loại, nhu cầu của công chúng,
khát vọng sáng tạo của nhà văn...), góp phần định hướng cảm thụ thẩm mĩ
của độc giả theo hướng tích cực, đa dạng, phù hợp với thời đại.
- Kết quả của luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho người làm công

tác nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Luận án được triển khai thành 4
chương gồm:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Khát vọng dân chủ hóa và sự đa dạng hóa các dạng thức tự sự.
Chương 3: Nỗ lực làm mới quan niệm về nhân vật.
Chương 4: Đổi mới quan niệm về thể loại và thực hành những kỹ thuật
mang dấu ấn công nghệ.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm phương thức tự sự
Tự sự là một trong các kiểu dạng văn bản chủ yếu: Tự sự, miêu tả, biểu
cảm, thuyết minh, nghị luận. Tự sự chính là kể chuyện, là phương thức chủ yếu
để con người phản ánh thế giới khách quan thông qua sự kiện, sự việc và nhân
vật cụ thể, để con người hiểu biết sự vật.
Tự sự là trình bày một chuỗi sự việc theo một trình tự nhất định, có
trước có sau, có mở đầu, tiếp diễn và kết thúc. Những biểu hiện cụ thể của
phương thức tự sự trên văn bản là dùng nhân vật “người kể” (bằng miệng


5

hay viết) làm cho người nghe (hay đọc) nắm được nội dung câu chuyện
(truyện kể về ai, ở thời nào, sự việc chính là gì, diễn biến của sự việc ra sao,
kết thúc thế nào, chuyện đem lại ý nghĩa gì,…?).
Cùng với các trào lưu, trường phái văn học nối nhau ra đời, đem đến thêm
những kinh nghiệm nghệ thuật mới, điều chỉnh lại kinh nghiệm nghệ thuật cũ, khái
niệm “tự sự” cũng có thêm những nội hàm mới. Khái niệm “tự sự” cần phải được
mở rộng thêm, ngoài phần “lời kể” (discouse) và “câu chuyện” (story), có thể phải
nghĩ đến những “câu chuyện không kể được”, tức là những sự kiện, những lời nói

được trình bày như “một sự trình hiện tự do trôi nổi” (floating rep resentation).
Phương thức tự sự là khái niệm diễn tả cách thức và phương pháp kể chuyện trong
thực hành tự sự của các chủ thể viết. Nó vốn được coi là một trong những phương
thức biểu đạt cho thấy đặc điểm chung của một kiểu tư duy nghệ thuật hiện diện ở
một trào lưu, một xu hướng hay một tập hợp những cách biểu đạt mang tính phổ
quát. Khi hiện diện trong từng trường hợp cụ thể, phương thức tự sự sẽ được cá
thể hóa, cụ thể hóa hoặc chủ quan hóa với những biểu hiện riêng biệt, thường
được gọi tên thành nghệ thuật tự sự. Bởi thế, nghệ thuật tự sự thể hiện dấu ấn cá
nhân, gắn liền với phong cách tác giả.
Luận án của chúng tôi vẫn dùng khái niệm “tự sự” do tính chất quen
thuộc và phổ cập của nó nhưng trong quá trình xử lý đề tài của chúng tôi
vẫn sẽ bao gồm cả những nội hàm được mở rộng của trần thuật học, tức là
chúng tôi quan tâm cả “câu chuyện” được kể theo kiểu truyền thống (có
đầu, có cuối, có sự kiện, nhân vật) lẫn những câu chuyện được kể rời rạc,
lộn xộn, cố ý làm mất mạch lạc, giống như một chuỗi sự việc được trình
hiện tự do. Như thế nghĩa là “sự trình hiện tự do” cũng là một kiểu trật tự cố
ý phi trật tự. Từ những khía cạnh cơ bản của lý thuyết tự sự học, chúng tôi
sẽ vận dụng để soi chiếu một chuyển biến quan trọng trong văn xuôi hư cấu
Việt Nam từ 1986 đến nay đó là những đổi mới cơ bản trong phương thức tự
sự. Các yếu tố căn cốt của tự sự rốt lại là truyện (sự kiện, biến cố, người
trần thuật (điểm nhìn), cách thức trần thuật. Theo nhận thức của chúng tôi
những nguyên tắc chìm, chi phối cấu trúc tự sự bao giờ cũng nằm ở chiều
sâu tư duy văn học như cảm quan hiện thực, quan niệm về bản chất chức


6

năng của văn học, về mối quan hệ giữa nhà văn và độc giả về thể loại... với
tên gọi Đổi mới phương thức tự sự trong văn xuôi hư cấu Việt Nam đương
đại, luận án này sẽ chủ yếu ưu tiên khảo sát những đặc điểm nổi bật trong

sự đổi mới phương thức tự sự như bức tranh hiện thực, điểm nhìn, cách xử
lý nhân vật, xử lý thể loại và một số kỹ thuật tạo lập văn bản.
1.2. Tình hình nghiên cứu về phương thức tự sự trong văn xuôi hư cấu
Việt Nam đương đại
Sự đổi mới phương thức tự sự là vấn đề được giới phê bình văn học
trong nước hết sức quan tâm. Khoảng những năm từ 1975 đến 1990, chuyển
đổi rõ rệt nhất trong sáng tác của các nhà văn là sự gia tăng chất thế sự cho
những cốt truyện sử thi. Chính vì thế, giới phê bình nghiên cứu cũng chủ
yếu tập trung vào nội dung câu chuyện được kể, dành mối quan tâm trước
hết cho sự đổi mới cách nhìn hiện thực mà nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
Phần lớn ý kiến của các nhà phê bình như Đặng Quốc Nhật, Trần Đăng
Suyền, Phan Cự Đệ, Lại Nguyên Ân,...vẫn theo hướng đó. Bên cạnh đó,
cũng đã có một số nghiên cứu bắt đầu quan tâm hơn đến sự đổi mới nghệ thuật
tự sự, chủ yếu xoay quanh sáng tác những năm 80 của Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài. Tuy chưa phải mạch chính nhưng ít nhiều
giới nghiên cứu đã cảm nhận được một mạch chuyển động khác trong văn
xuôi hư cấu nước ta, đó là sự nỗ lực đổi mới lối viết… Từ khoảng đầu thập kỷ
90 trở đi, những nghiên cứu thiên về nội dung tác phẩm vẫn còn được tiếp
tục nhưng chính những nghiên cứu quan tâm hơn đến lối viết mới đã thực sự
gây được ấn tượng mạnh, thu hút nhiều đối thoại. Các ý kiến của Lại
Nguyên Ân, Lã Nguyên, Đặng Anh Đào, Nguyên Ngọc, Trần Đạo, Thụy
Khuê, Phùng Văn Tửu, Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn
Thanh Sơn, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Văn Long... đã cố gắng nắm bắt xu
hướng đổi mới lối viết và đưa ra được nhiều phát hiện, nhiều diễn giải mới mẻ,
thú vị. Chuyên luận Văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Thị Bình đặt
trọng tâm vào việc xem xét những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật từ 19751995 trên ba bình diện: Quan niệm về nhà văn, quan niệm nghệ thuật về con
người và những dấu hiệu đổi mới thể loại. Trong những bài nghiên cứu chung


7


về văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 đến nay, chúng tôi thấy, hầu hết đều đề cập
đến đổi mới phương thức tự sự ở những cấp độ nông sâu khác nhau. Một số
luận án (của Bùi Thanh Truyền, Nguyễn Văn Thuấn, Đỗ Hải Ninh, Nguyễn
Thị Thu, Mai Hải Oanh, Trần Thị Mai Nhân, Trần Viết Thiện, Phùng Gia
Thế, Nguyễn Thị Hải Phương, Thái Phan Vàng Anh... ) đã đi sâu nghiên cứu
những cách tân nghệ thuật của văn xuôi hư cấu giai đoạn này về các bình
diện như: nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật xử lí thời gian, đa dạng
hóa nghệ thuật kết cấu, sự tương tác thể loại trong văn xuôi, sử dụng thủ
pháp huyền thoại hóa, yếu tố kỳ ảo, giễu nhại...
Như vậy, xét từ nhiều hướng tiếp cận khác nhau, ở những mức độ
nông sâu khác nhau, cách định danh khác nhau, đã có khá nhiều công trình
đề cập đến đổi mới phương thức tự sự. Tuy nhiên, chưa có công trình
chuyên biệt nào tập trung khảo sát một cách hệ thống để cho thấy một diện
mạo đầy đủ về sự đổi mới trong phương thức tự sự tập trung ở cách thức xử
lý văn bản, điểm nhìn trần thuật, các kiểu thức trần thuật, những mô hình
trần thuật mới. Luận án của chúng tôi sẽ tái hiện, hệ thống hóa và phân tích
kĩ lưỡng hơn sự đổi mới của tư duy văn học qua những khía cạnh nổi bật
của phương thức tự sự trong văn xuôi hư cấu đương đại.
CHƯƠNG 2. KHÁT VỌNG DÂN CHỦ HÓA VÀ SỰ ĐA DẠNG CÁC
DẠNG THỨC TỰ SỰ
2.1.Tiền đề lịch sử - xã hội và nhu cầu giải phóng cá tính sáng tạo khai
mở các tiềm năng tự sự
2.1.1.Tiền đề lịch sử - xã hội
Công cuộc đổi mới đất nước từ giữa thập kỷ 80 đã tạo môi trường vô
cùng thuận lợi cho văn nghệ sĩ. Tinh thần dân chủ được đề cao, giao lưu văn
hóa rộng mở, chính sách quản lý văn hóa, văn học cởi mở hơn đã khuyến
khích sự sáng tạo, thể nghiệm mới của giới văn- nghệ sĩ. Dân chủ hóa là
người dân được thực thi các quyền mà hiến pháp quy định, là nguyện vọng
của người dân được tôn trọng, ý kiến cá nhân được bình đẳng, chống áp đặt,

độc quyền chân lý.


8

Nền kinh tế thị trường không chỉ đề cao vai trò tự chủ, năng động của
cá nhân mà một lần nữa khiến cho quan niệm “văn học – hàng hóa” trước
1945 trở lại thay thế cho quan niệm “văn học – vũ khí”. Văn học phải quan
tâm hơn đến nhu cầu, thị hiếu bạn đọc, phải coi trọng xu hướng đại chúng
hơn trước, phải chấp nhận bị cạnh tranh, với rất nhiều hoạt động giải trí hấp
dẫn khác. Văn học nghệ thuật từ chỗ chủ yếu xoay quanh “cái ta” lịch sử-dân
tộc, cái ta tập thể, giờ dành sự quan tâm thích đáng đến cái tôi cá nhân riêng tư,
từ mục đích truyền tải những thông điệp nghiêm túc về đạo đức cách mạng, lý
tưởng sống giờ không coi nhẹ cả các nhu cầu giải trí, thư giãn, giúp con người
xả stress v.v...
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn học nghệ thuật trong giai
đoạn mới có nhiều thay đổi. Đáng chú ý nhất là Nghị quyết 05 về Văn hóa
Văn nghệ đã rất khuyến khích tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ. “Đảng khuyến
khích văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những thể
nghiệm mạnh bạo và rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật. Giao lưu văn hóa,
văn học-nghệ thuật được quan tâm thúc đẩy. Công cuộc hội nhập quốc tế đã
tạo cú huých mạnh mẽ giúp điều chỉnh và thúc đẩy quá trình hiện đại hóa
nền văn học dân tộc trên nhiều bình diện, trong đó đáng chú ý nhất là cơ hội
cọ sát, tiếp thu, tiếp biến nhiều tư tưởng triết mĩ và kinh nghiệm nghệ thuật
hiện đại thế giới.
Sự phát triển của công nghệ thông tin cũng kích hoạt mạnh làm bùng
nổ văn hóa đại chúng. Điện ảnh, truyền hình, video, internet, máy ảnh, các
trò chơi điện tử, karaoke… đều có xu hướng đề cao chức năng vui chơi giải
trí, giải tỏa áp lực sống. Xu hướng thẩm mĩ hóa đời sống thường nhật và
thường nhật hóa hoạt động thẩm mĩ in dấu đậm nét lên diện mạo văn học.

Và theo quan sát của chúng tôi đấy cũng là đường nét nổi bật của văn xuôi
nghệ thuật Việt Nam đương đại.
2.1.2. Nhu cầu giải phóng cá tính khai mở các tiềm năng tự sự
Đổi mới tư duy nghệ thuật và giải phóng cá tính sáng tạo của đội ngũ
cầm bút là nhu cầu tự thân của văn học Việt Nam. Nhiều cây bút đã bày tỏ
khát vọng đổi mới văn chương từ những trải nghiệm của chính bản thân
mình. Nguyên Ngọc thổ lộ: “Tôi cần tìm cho mình một ngôn ngữ nghệ thuật


9

khác. Quanh tôi, và trong tôi đã có biết bao thay đổi không nhỏ, không giản
đơn. Phải viết khác...”. Nguyễn Khải cũng ý thức rõ rằng: “Từ 1955 đến 1977
tôi sáng tác một cách. Từ 1978 đến nay sáng tác theo cách khác”. Mang tư
tưởng chung với những nhà văn cùng thế hệ, Lê Lựu cũng gọi các sáng tác
trước Thời xa vắng là “văn học công việc”, “văn học sự vụ” và “tự bảo không
thể viết như cũ được nữa”. Nguyễn Khắc Trường cũng bày tỏ “Tôi muốn mỗi
quyển sách phải phát hiện, phải nói được cái gì đó trong phần sâu kín, tâm linh của
cuộc sống, của con người”. Nhiều nhà văn khác không phát biểu trực tiếp trên
sách báo nhưng gián tiếp qua các tác phẩm nghệ thuật, người đọc nhận thấy họ đã
tự đổi khác so với trước.
Sự thay đổi tư duy văn học của nhà văn đã từng gặt hái vinh quang ở
giai đoạn trước biểu hiện rõ nét trước hết ở bước chuyển trong việc lựa chọn
đề tài, cách tiếp cận và khai thác hiện thực. Các sáng tác của Tô Hoài,
Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn Kháng,... trình bày một hiện thực nông thôn
với những xáo trộn dữ dội, những thăng trầm phận người, những tổn thương
văn hóa trầm trọng sau cải cách ruộng đất và chiến tranh. Viết về chiến tranh,
sau 1975, các tác phẩm của Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Minh Châu, Chu
Lai,... dựng lên bức tranh hiện thực gai góc đa chiều, đầy tính tra vấn day
dứt. Phía sau cách trình bày hiện thực ấy là một thái độ đối thoại nghiêm túc

với các cách xử lý đề tài trước đó. Nó thể hiện khát vọng nhà văn được có
tiếng nói riêng, được tự do trong quan hệ với hiện thực và với công chúng.
Cách xử lý đề tài lịch sử ở giai đoạn sau 1986 đã mở ra một bước
ngoặt quan trọng trong quan niệm về thể loại. Nhà văn không đóng vai trò
chép sử mà sáng tạo những tình huống lịch sử khác. Nguyễn Mộng Giác
quan niệm tiểu thuyết lịch sử trước hết phải là tiểu thuyết. Võ Thị Hảo cho
rằng “vấn đề của tôi là đổi mới và bảo thủ chứ không phải là kể lại lịch sử”.
Nguyễn Xuân Khánh nhấn mạnh: “Tôi quan niệm rằng tiểu thuyết lịch sử
không phải là kể lại lịch sử mà phản ánh những vấn đề của con người hiện
tại”. Với quan niệm ấy, các tác phẩm văn xuôi lịch sử đều chỉ mượn chất
liệu lịch sử làm phông nền, tạo không khí để nhà văn thể hiện những ý kiến
riêng của mình.


10

Đối với lớp nhà văn trẻ, khát vọng làm mới, làm khác dường như
chính là khởi điểm con đường cầm bút của họ. Phạm Thị Hoài cho rằng
“viết như một phép ứng xử”; Nguyễn Việt Hà nhận thức rõ “văn chương bị
lặp lại đáng sợ như văn chương nhạt nhẽo”; Nguyễn Huy Thiệp thì liên tục
làm lung lay các xác tín cũ về văn chương… Có thể nói trong khát khao làm
mới văn chương, sự phá cách rõ nhất ở họ là quan niệm văn chương như trò
chơi. Quá trình diễn tiến nhận thức và thể nghiệm đầy năng động ấy đã dần
hình thành một lớp nhà văn mới với những gương mặt tiêu biểu cho quá trình
đổi mới phương thức tự sự.
Trong văn xuôi đương đại có thể thấy khá rõ hai mạch đổi mới chính:
1/ Viết về sự thật đời sống và số phận con người với những nỗi mất mát, đau
thương trên tinh thần nhân bản, từ hướng ngoại sang hướng nội, đi sâu
khám phá, thể nghiệm thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, phức tạp, huyền
bí và hết sức mong manh của con người. 2/ Vẫn viết về con người và môi

trường sống của con người nhưng lấy đó làm điểm xuất phát để dồn nỗ lực
vào đổi mới lối viết. Khi đó, hiện thực hay con người có thể trở thành
phương tiện cho những thể nghiệm về nghệ thuật tự sự: tính trò chơi được
đề cao, người viết và người đọc gặp nhau ở những cuộc “chơi kể chuyện”,
“chơi nhân vật”, “chơi ngôn từ”, “chơi kết cấu”… Việc chú trọng đến kỹ
thuật kể một mặt có khả năng tạo ra những đột phá táo bạo, đưa văn học
đương đại vượt thoát các quy phạm cũ; mặt khác sẽ khó tránh khỏi những
hiện tượng sống sượng, thô sơ, gượng gạo. Cùng với không khí đổi mới, hội
nhập, dân chủ, bộ phận văn học của người Việt ở nước ngoài cũng có những
tương tác nhiều chiều với bộ phận văn học trong nước, góp phần mở rộng
đường biên văn học dân tộc và bổ sung thêm những kinh nghiệm, trải nghiệm
thẩm mĩ mới.
2.2. Nỗ lực dân chủ hóa cái nhìn nghệ thuật: Đa dạng hóa các dạng thức tự sự
2.2.1.Tự sự khách quan - khả tín
Trên bức tranh toàn cảnh có thể nhận ra dạng thức tự sự truyền thống
(coi trọng nội dung câu chuyện, đề cao tính khả tín, tính nghiêm túc của câu
chuyện, duy trì sự liên tục mạch lạc có đầu có cuối theo logic nhân quả) vẫn
là dạng được số đông người sáng tác văn xuôi lựa chọn. Cho đến cuối thế


11

kỷ XX, dạng thức này vẫn chiếm vị thế áp đảo trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Khải, Thái Bá Lợi, Lê Lựu, Chu Lai, Dương Hướng,
Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Hệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc
Tư... Điều đáng chú ý là ngay ở những tác phẩm chọn kiểu tự sự truyền
thống thì cũng rất rõ nỗ lực mở rộng làm mới hơn khung tự sự quen thuộc,
thể hiện ở sự gia tăng vai trò của kinh nghiệm cá nhân, ở thái độ suồng sã
hơn của người kể chuyện và đặc biệt ở điểm nhìn nước đôi, lưỡng lự. Điều
này cũng cho thấy sự chuyển dịch trong mối quan hệ nhà văn- bạn đọc: nhà

văn đã không còn tự tin là người dạy dỗ bạn đọc, rao truyền chân lý mà
hướng tới sự suy ngẫm, chiêm nghiệm về câu chuyện nhiều hơn, coi trọng
bạn đọc hơn, không chỉ chăm chăm kể và đưa ra những phán xét chủ quan,
áp đặt. Điểm chung của những tác phẩm tự sự kiểu này là người kể chuyện
khi cung cấp sự kiện, sự việc, khi cần đưa ra ý kiến, luôn tỏ ra thận trọng,
dè dặt trước sự việc mình đang kể. Người trần thuật luôn cảm thấy ngoài sự
việc mình biết, dường như còn sự thật khác nữa.
Từ cái nhìn toàn tri/biết tuốt của tự sự truyền thống đến cái nhìn nước
đôi lưỡng lự, ý hướng đối thoại, nhu cầu nghiền ngẫm về hiện thực của
người viết đã đậm nét lên rất nhiều. Bằng việc tạo lập điểm nhìn này, văn
học bắt đầu khẳng định mối quan hệ bình đẳng, dân chủ với độc giả. Chúng
tôi gọi đây là hướng làm mới phương thức tự sự trên nền truyền thống.
2.2.2. Tự sự chủ quan – bất khả tín
2.2.2.1. Câu chuyện: những hiện thực không đòi được kiểm chứng
Tính bất khả tín được hiểu là sản phẩm của tư duy phản biện. Nó phản
ánh những chuyển dịch trong cái nhìn, ý thức của nhà văn về đối tượng, chủ
thể, bạn đọc và bản thân văn học. Tự sự bất khả tín vì vậy kể một câu
chuyện nhưng không phải để cho người ta tin là sự thật (kiểu Nguyễn Công
Hoan khái quát “truyện là bịa y như thật”)... Tự sự bất khả tín là một sự
thỏa thuận ngầm giữa nhà văn (người tổ chức cuộc chơi) với bạn đọc (người
tham gia cuộc chơi) rằng những câu chuyện được nói đến không phải để đối
chiếu nó với sự thật đời sống bên ngoài tác phẩm. Nó có thể đáng tin ở
những tiểu tiết, những tình huống cụ thể, nhưng toàn bộ bức tranh hiện thực
được tạo ra ấy thì nhà văn công khai với bạn đọc rằng nó hoàn toàn là bịa


12

đặt. Hiện thực trong tác phẩm văn học không nhất thiết phải là những câu
chuyện nghiêm túc mà có thể là sản phẩm của tưởng tượng, cuả bịa đặt, của

ảo giác, của thẩm mĩ nghịc dị... Những ý kiến trực tiếp hay gián tiếp của nhà
văn, những chiêu thức gây nghi ngờ nhà văn gài cắm trong tác phẩm, những
lối bóp méo, cường điệu công khai, những tình tiết tiền hậu bất nhất, những
nhân vật kiểu biếm hoạ hay hư ảo... tất cả đều nhằm một mục đích gián cách
người đọc với câu chuyện được kể, nhắc họ phải thường xuyên nhớ rằng họ
đang quan sát trò chơi của nhà văn. Những câu chuyện được kể là những sản
phẩm nghệ thuật, là hư cấu, là không thể đối chiếu với thực tại.
2.2.2.2. Điểm nhìn của người kể chuyện không đáng tin cậy
Căn cứ vào thái độ tự tin của người trần thuật đối với câu chuyện được
kể, chúng tôi khái quát về mấy dạng điểm nhìn như sau:
Người kể chuyện mang điểm nhìn hạn tri của một cá nhân có khi tự cho là
kém cỏi, có khi không nghiêm túc, nhưng thường xuyên nhất là luôn hoài nghi
trước cuộc sống, luôn muốn phản bác lại kinh nghiệm của số đông. Bằng việc
sử dụng phương thức xây dựng điểm nhìn như thế, chủ thể trần thuật dường như
từ chối việc khẳng định tính chính xác của câu chuyện, khiến câu chuyện trở
thành giai thoại kích thích sự hiếu kì của người đọc. Nó là một cách để kích
thích suy nghĩ của bạn đọc, cũng là một yêu cầu đối với nhà văn phải thường
xuyên đối thoại, tự vấn mình một cách nghiêm khắc trước bạn đọc.
Điểm nhìn của các nhân vật khác thường, dị biệt (như người điên, bào
thai, chiếc chuông, linh hồn…) đã góp phần tạo nên sự đa dạng trong dạng
thức tự sự, nó cho thấy hiện thực không phải là mục đích tái hiện của tác
phẩm mà chỉ là phương tiện để nhà văn truyền tải những thông điệp nghệ
thuật nào đó. Với điểm nhìn có tính gây hấn khiêu khích như thế, vị trí của
người kể chuyện đã dần được đẩy lên bình đẳng hơn so với nhân vật và cả
bạn đọc. Từ điểm nhìn bất toàn tri, người kể chuyện công khai thể hiện sự
thật không đáng tin cậy trong những câu chuyện đã kể và để lại trong câu
chuyện của mình những khoảng trắng thẩm mỹ buộc người đọc phải tự
khám phá và trở thành người đối thoại dân chủ.
Điểm nhìn của người kể chuyện online đã xuất hiện ở một số sáng tác
có tính hậu hiện đại như Bloger (Phong Điệp), 3.3.3.9 [Những mảnh hồn



13

trần] (Đặng Thân), Em có gì bí mật hãy mail cho anh (Nguyễn Viện). Cùng
với những câu chuyện bất khả tín, nhà văn đã tạo ra điểm nhìn đa chiều kích
của nhiều nhân vật kể chuyện, bàn luận và mời gọi cả bạn đọc cùng tham
gia. Mỗi người kể chuyện mở ra một thế giới buộc người đọc phải thay đổi
cách đọc, phải vất vả mới giữ được sự liền mạch của các mối liên hệ. Điểm
nhìn này chỉ có thể ra đời trong thời đại kỹ thuật số và văn học mạng
internet. Đọc tiểu thuyết như là đang xem phim, đang nghe thấy những tiếng
nói của đời sống cùng vang lên một lúc. Điều đó sẽ không dễ chịu đối với
người đọc kiểu truyền thống nhưng lại đầy tính kích thích và chí ít nó mở ra
nhiều tiềm năng của phương thức tự sự.
Tiểu kết chương 2
Bối cảnh xã hội đương đại đang có tác động trực tiếp đến nhu cầu
giải phóng cá tính trong văn chương nên đã kích thích nhà văn tìm đến
những sáng tạo mới mẻ trong việc đa dạng hóa các kiểu dạng tự sự. Dạng
tự sự khách quan, khả tín với điểm nhìn toàn tri có tính truyền thống đã
được đổi mới bằng việc gia tăng các kinh nghiệm cá nhân, giọng điệu
suồng sã, thái độ nước đôi, lưỡng lự. Dạng tự sự bất khả tín với các điểm
nhìn hạn tri, gây hấn, khiêu khích cùng với những câu chuyện không đòi
được kiểm chứng về tính hiện thực luôn nhắc nhở người đọc về cái hữu hạn
của con người và sự phồn tạp đa chiều của đời sống. Từ lối tự sự này, nhất
là với hình tượng người kể chuyện không đáng tin cậy, một quan hệ mới,
quan hệ bình đẳng, dân chủ, giàu khả năng đối thoại được thiết lập giữa nhà
văn với độc giả. Độc giả được quyền nghi ngờ, được quyền phản bác và tự
mình tìm ra chân lí.
CHƯƠNG 3. NỖ LỰC LÀM MỚI QUAN NIỆM VỀ NHÂN VẬT
Với khả năng đi sâu khám phá số phận con người, nhân vật trong văn xuôi

chính là biểu hiện quan trọng nhất của quan niệm về con người. Cách kiến tạo
thế giới nhân vật, từ một góc độ nhất định, cho phép nhận ra đặc điểm thi pháp tự
sự của thời đại. Trong thế giới nhân vật của văn xuôi hư cấu Việt Nam từ giữa


14

những năm 80 đến nay, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới sự xuất hiện ngày càng
phong phú, đặc sắc của những nhân vật phi lý tưởng và nhân vật khước từ
nguyên tắc điển hình hóa.
3.1. Nhân vật phi lý tưởng
3.1.1. Nhân vật phức hợp, tính cách đa diện
Với một quan niệm đa chiều về con người, thế giới nhân vật trong văn
xuôi hư cấu sau 1986 đã có nhiều thay đổi. Ngày càng rời xa kiểu dạng con
người lý tưởng. Ở một số tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn
Thị Thu Huệ đã xuất hiện nhiều nhân vật kiểu thân phận, con người cá nhân.
Những nhân vật từng được tôn vinh “thần thánh”, cũng đều được đời thường
hóa, ít tính lý tưởng. Những nhân vật đời thường cho đến những nhân vật lịch
sử nổi tiếng đều hiện ra với những tính cách đa diện, đan xen, phức hợp giữa cái
tốt và cái xấu, cao cả và thấp hèn. Phi lý tưởng hóa nhân vật thực sự là một dấu
hiệu đổi mới quan trọng trong quan niệm về nhân vật của văn xuôi đương đại
Việt Nam, cho thấy những đổi mới rất cơ bản trong tư duy nghệ thuật của các
cây bút văn xuôi đương đại.
3.1.2. Nhân vật bé nhỏ, cô đơn
Thay cho những nhân vật lý tưởng kết tinh những phẩm chất tốt đẹp nhất
của con người dân tộc, thời đại trước đây là những con người của đời tư thế sự,
những con người của đời thường phàm tục, đa diện trong tính cách và phần lớn
tính cách lại nghiêng hơn, đậm hơn ở mặt thế sự, phàm tục. Trong đó phổ biến
là những nhân vật bé nhỏ, cô đơn. Biểu hiện phổ biến nhất của kiểu nhân vật bé

nhỏ là chúng chủ yếu được đặt trong các mối quan hệ cá nhân, đời tư, trong
không gian sinh hoạt gia đình, họ mạc (Côi cút giữa cảnh đời, Miền hoang
tưởng, Mưa Nhã Nam, Nghĩa địa xóm Chùa, Bi kịch nhỏ, Khi người ta trẻ, Cát
đợi, Lão Khổ, Cánh đồng bất tận,…).
Nhân vật nhỏ bé, cô đơn là một kiểu nhân vật phổ biến trong văn xuôi
đương đại Việt Nam. Đằng sau mỗi nhân vật là những vấn đề lớn của nhân sinh
thế sự. Từ góc độ phương thức tự sự, quan tâm đến và xây dựng thành công
dạng nhân vật này là một đổi mới quan trọng của văn xuôi hư cấu đương đại


15

Việt Nam, cho thấy nỗ lực của các nhà văn trong việc đổi mới lối viết nhằm
khám phá, phản ánh toàn diện và sâu sắc những vấn đề nhân văn thiết cốt trong
“vương quốc của tình đời”.
3.2. Nhân vật khước từ nguyên tắc điển hình hóa
3.2.1. Nhân vật kỳ ảo, phi nhân dạng
Đây là một trong những kiểu nhân vật “ly khai” mạnh nhất so với truyền
thống xây dựng “nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình”. Loại
nhân vật này gắn liền với quan niệm về hiện thực đa chiều kích, về bí ẩn, về cái
thiêng, cái nghịch dị. Xuất hiện trong tác phẩm với tư cách là một phương tiện
nghệ thuật, nhân vật kỳ ảo lại có thể đặt ra những vấn đề nghiêm túc, lớn lao về
thẩm mĩ và về hiện thực mà kiểu nhân vật hiện thực chủ nghĩa khó đạt được.
Các nhân vật phi thực của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới thường hiện diện
dưới một số dạng thức chủ yếu: nhân vật của những điển tích, điển cố được
phục sinh; nhân vật có khả năng thần kỳ/ nhân vật tiên tri; nhân vật hồn ma;
nhân vật biến dạng/ dị thường... Trong cuộc sống hiện đại, khi lí trí tỉnh táo
nhất thì con người nhận ra cuộc sống cũng bao hàm biết bao điều bí ẩn cần
cắt nghĩa, cần khám phá. Đôi khi không thể dùng thực tại để giải thích thực
tại, không thể dùng lí trí đơn thuần để giải thích mọi điều về cuộc sống. Dạng

nhân vật này đảm nhận nhiệm vụ đó và có thể nói đã hoàn thành một cách
khá xuất sắc nhiệm vụ của nó.
3.2.2. Nhân vật mô hình, bị tẩy trắng, bị xóa bỏ
Khác với thi pháp giai đoạn văn học 1945-1975, cách thức mô hình
hóa nhân vật trong văn xuôi đương đại lại cố ý để lộ tính bất khả tín, tính
trò chơi. Nhân vật bị giản lược hóa đến mức chỉ còn như những công thức,
nhưng chúng lại cho thấy tính phức tạp đa chiều của hiện thực và những
giới hạn trong khả năng biểu đạt của nhà văn. Hơn nữa, việc tạo dựng kiểu
nhân vật mô hình trong văn học đương đại chủ yếu để nhại, để chế giễu,
cũng là lời cảnh báo nguy cơ con người bị sơ đồ hóa, đánh mất bản nguyên,
bị bào mòn trong một xã hội bị chế ngự bởi văn minh kĩ trị.
Kỹ thuật phổ biến khi xây dựng loại nhân vật mô hình là phân rã tính
cách nhân vật, làm cho chân dung nhân vật như những mảnh ghép dang dở


16

“không phải là tính chất nhiều mặt của cái “tôi” mà là sự hủy diệt tính cách
nhân vật, hiểu theo nghĩa nhân vật bị cắt thành nhiều mảnh khó lắp ghép tạo
dựng lại. Nhân vật không còn được chú ý về ngoại hình, tính cách, số phận
mà gây ấn tượng ở những khoảnh khắc ngắn ngủi, những mảnh vỡ của tâm
trạng, ý thức. Xuất hiện qua một tâm trạng hoặc một nét trạng thái tâm lí,
tính chất không liền mảnh của nhân vật gợi dẫn về một thực tại xáo trộn, rạn
vỡ, bất an, vô hướng (Theo chúng tôi, đây là thay đổi đáng kể nhất trong
ứng xử với nhân vật của văn xuôi hư cấu đương đại). Không chỉ bị giản
lược về mặt số lượng mà có khi nhân vật còn bị tẩy trắng cá tính, bị xóa bỏ
như một hiện diện vô nghĩa. Từ cách xây dựng nhân vật mô hình đến các kỹ
thuật tẩy trắng cá tính, xóa bỏ nhân vật, rõ ràng quan niệm về nhân vật trong
văn xuôi khác rất xa với truyền thống. Nhiều tác phẩm giai đoạn cuối thế kỉ
20 đến nay cố tình tẩy trắng nhân vật (xóa bỏ tên, tuổi, pha loãng và triệt

tiêu các yếu tố tâm lý, tính cách; diện mạo, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia
đình... bị cố ý phớt lờ; đường viền nhân thân cũng mất hoặc rất mờ nhạt).
Dường như các nhà văn muốn thể hiện thái độ, quan niệm mới về cuộc giao
tiếp bằng trang văn với bạn đọc. Kỹ thuật mờ hóa hoặc xóa bỏ đặc điểm
nhân thân nhân vật, một mặt làm cho tác phẩm văn học thu hẹp dung lượng,
mặt khác, quan trọng hơn, chỉ cần một nét tâm lý nào đó, một hành vi đặc
thù nào đó, nhân vật mô hình sẽ dẫn chiếu đến những trạng thái nhân sinh
phổ quát.
Tiểu kết chương 3
Sự trở lại của con người cá nhân trong cái nhìn đa chiều ở các sáng
tác văn học đương đại đã cho nhà văn không gian tưởng tượng suy tư, thể
nghiệm rộng rãi, thoáng đãng, đồng thời với việc họ được tiếp cận nhiều
kinh nghiệm mới mẻ để thỏa sức sáng tạo. Sáng tạo trên tinh thần đối thoại,
nhà văn đã đem đến cho bạn đọc một thế giới nhân vật phong phú chưa từng
thấy. Ngoài nhân vật kỳ ảo, những nhân vật kiểu mô hình ở văn xuôi đương
đại không phải là sự lặp lại một ý nghĩa một thi pháp, mà mang một chiều
kích mới, tư tưởng và nghệ thuật mới. Nó phản chiếu một tâm thức ở thời
đại văn minh kĩ trị đang tỏa chiết, làm xói mòn, xơ cứng, làm mất cá tính,


17

bản sắc riêng của con người. Nó công khai chống lại lối xây dựng nhân vật
theo khung hình của một quan niệm khá chật chội về “phản ánh hiện thực”
mà văn học Việt Nam tuân thủ suốt hơn 30 năm trước đó.
CHƯƠNG 4: ĐỔI MỚI QUAN NIỆM VỀ THỂ LOẠI VÀ THỰC
HÀNH NHỮNG KỸ THUẬT MANG DẤU ẤN CÔNG NGHỆ
4.1. Những thử nghiệm lai ghép, làm mới thể loại
Nói đến thể loại là nói đến một cái “khung” đã được định hình bền vững
trong ý thức người sáng tác và người tiếp nhận, là những đặc trưng cố hữu để

phân biệt các kiểu quan hệ của văn chương với đời sống. Qua nhiều thế hệ, văn
xuôi tự sự đã định hình với những bộ khung khá chắc chắn cho tiểu thuyết,
truyện ngắn, tự truyện, trinh thám, ngôn tình, kiếm hiệp... Từ những góc độ tiếp
cận khác nhau, một số công trình nghiên cứu đã tập trung khảo sát sự nới lỏng
quan niệm thể loại trong văn xuôi tự sự sau 1975. Có thể thấy quá trình vận
động của thể loại trong văn xuôi đương đại diễn ra với sự tham gia của khá
nhiều yếu tố. Chúng tôi dành sự quan tâm nhiều hơn tới xu hướng lai ghép làm
biến dạng thể loại vì nó thể hiện đậm nét nhất mô hình tự sự bất khả tín, nó
công khai tính trò chơi của tác phẩm, hướng tới giải phóng văn học bớt những
gánh nặng mà nó buộc phải mang tải. Thường người viết lấy lại một vài yếu tố
căn bản nào đó từ cái khung thể loại quen thuộc rồi lai ghép với các thể loại
khác, làm biến dạng thể loại gốc, có khi giễu nhại, bỡn cợt thể loại gốc để trình
ra một tác phẩm không còn vừa với khung thể loại truyền thống. Chúng tôi
dùng lại khái niệm mà một số nhà nghiên cứu đi trước đã dùng để chỉ hiện
tượng lai ghép, biến dạng thể loại.
4.1.1. Giả lịch sử
Từ những truyện ngắn gây tranh luận quyết liệt của Nguyễn Huy
Thiệp, dạng tự sự giả lịch sử ngày càng phong phú với những sáng tác của
Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân
Khánh, Hòa Vang, Lê Minh Hà, Uông Triều, Lưu Sơn Minh... Sử dụng chất
liệu lịch sử đậm đặc với những sự kiện, con người, thời gian, không gian cụ


18

thể, những tác phẩm này không mang mục tiêu tái hiện lịch sử khách quan
như trong truyện lịch sử trước đây mà tạo ra các tình huống hư cấu, các khả
năng khác nhau theo giả định của tác giả. Tác giả khai thác những sự kiện,
nhân vật lịch sử, dựa trên những câu chuyện có sẵn của chính sử, dã sử để
phóng chiếu cái nhìn của con người thời hiện đại. Nhờ đó, truyện kích thích

đối thoại một cách tối đa. Nhân vật trong những tác phẩm này thường là
những người nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, nghĩa là đã được định giá từ lâu
trong tâm thức cộng đồng. Họ bị “thay máu”, đúng hơn, bị nhào nặn trong
những mối quan hệ đời thường, buộc người đọc làm quen với cái nhìn nhiều
chiều về sự việc. Nhà văn viết về lịch sử không để tái hiện, phục dựng lịch
sử mà điều quan trọng là nhìn ra mối liên hệ của lịch sử đã qua với hiện tại
hôm nay. Nhìn lại những bi kịch của quá khứ từ góc nhìn của hiện tại chính
là đi tìm những giá trị tinh thần, những mạch nguồn văn hóa, những phương
cách ứng xử để văn hóa Việt, con người Việt. Các nhà văn đã thể hiện khát
vọng tham góp một ý kiến, khơi dậy ở bạn đọc tinh thần tự vấn, phản biện tích
cực, đề xuất một giải pháp cho con đường phát triển của dân tộc để đất nước
được trường tồn.
4.1.2. Nhại trinh thám
Trinh thám vốn là một thể loại có mô hình truyện rất sáng rõ, đó là có
một vụ án xảy ra, có thám tử điều tra phá án, có những tình tiết li lỳ, cuối cùng
án được phá nhờ tài năng của thám tử. Trên thế giới, tiểu thuyết trinh thám được
xem là tiêu biểu nhất của văn học duy lí, là một thể loại nghệ thuật xác định tội
phạm chủ yếu dựa vào phương pháp suy luận, một phương pháp đòi hỏi hành
động trí não cực kỳ tích cực trong quá trình khám phá, phát hiện tội phạm.
Trong văn xuôi đương đại nước ta có nhiều tác phẩm dùng môtíp trinh
thám theo lối nhại thể loại. Ở một số sáng tác văn xuôi đương đại như T.mất
tích, Đi tìm nhân vật, Và khi tro bụi,... có thể thấy hiện tượng lai ghép
truyện trinh thám với loại tiểu thuyết dòng ý thức, tiểu thuyết sinh hoạt thế
sự: mở đầu bằng một vụ án, nhân vật trinh thám xuất hiện. Sau đó nhân vật
dẫn người đọc lạc vào mê cung của những suy luận hiện sinh đầy khắc
khoải hoang mang trước trạng thái nhân thế hiện tồn và bỏ quên luôn nhiệm


19


vụ phá án. Nhân vật thường được xây dựng theo kiểu phức thể hóa, mỗi
nhân vật đều mang tính phức hợp, đa nhân cách. Dù phần lớn còn mang tính
chất thử nghiệm, nhưng không thể không ghi nhận đóng góp của dạng thức
nhại trinh thám trên các phương diện đề tài, cốt truyện, nhân vật, lối viết. Sự
nỗ lực thể nghiệm những hình thức mới không chỉ được bắt đầu từ niềm khao
khát sáng tạo của chủ thể cầm bút mà còn do yêu cầu của thời đại, do áp lực
của người đọc.
4.1.3. Giả tự truyện
Tự truyện là câu chuyện cuộc đời do chính nhà văn kể lại. Khác với bản
tự thuật về tiểu sử, lí lịch của nhà văn, tự truyện là tác phẩm nghệ thuật làm cho
quá khứ tái sinh, đời tư nhà văn chỉ là chất liệu hiện thực được tác giả sử dụng
với nhiều mục đích khác nhau. Khung thể loại cố định của tự truyện là tác giả
tự kể về cuộc đời mình, ngầm cam kết tính khả tín tối đa của câu chuyện. Trong
văn học Việt Nam đương đại xuất hiện nhiều tác phẩm có khuynh hướng tự
truyện dù thực chất chúng là tác phẩm hư cấu. Ở những tác phẩm Gia đình bé
mọn, Ngược dòng nước lũ, Tự sự 265 ngày, Chinatown, Và khi tro bụi, Rong
chơi miền ức…, yếu tố tự thuật được khai thác kết hợp với hư cấu, tạo nên một
thế giới không thực, gây lạc hướng và rối trí người đọc. Lớp vỏ bề ngoài của
loại tự truyện này là thực (tên tuổi, tiểu sử có thể trùng với tác giả) nhưng câu
chuyện là hư cấu, bịa đặt, gây nhiễu thông tin. Ở đây, mối quan hệ giữa tác giả,
người kể chuyện và nhân vật chính có thể đồng nhất. Về nội dung, chúng có xu
hướng vượt ra ngoài câu chuyện của người kể chuyện xưng “tôi” để trở thành
những phức thể nghệ thuật chứa đựng trong đó nhiều mảnh đời, nhiều số phận.
Với tinh thần kích thích đối thoại, các giả tự truyện đều gia tăng số lượng người
kể chuyện và sẵn sàng trao điểm nhìn trần thuật cho nhiều nhân vật, không phân
biệt chính/phụ, tốt/xấu để mỗi nhân vật có thể trình bày đời sống theo một cách
riêng. Người kể chuyện xưng “tôi” không phải là cái “tôi” duy nhất mà còn có
cả những cái “tôi” khác- nghĩa là người kể chuyện tự hình dung ra vị thế, tâm
lý, tình cảm của mình trong những bối cảnh khác nhau để kể lại. Việc sử dụng
yếu tố tự truyện vừa kích thích sự tò mò vừa có tác dụng làm nhiễu những



20

người đọc cả tin, như một trò chơi nghệ thuật nhằm phá vỡ sự phân lập hiện
thực và hư cấu, tức là cách tấn công mạnh mẽ vào quan niệm phản ánh hiện
thực theo lối thô thiển, khước từ lối mòn của tự sự truyền thống là kể một
câu chuyện khả tín.
4.1.4. Phiếm huyền thoại
Huyền thoại cũng là một dạng thức tự sự được nhiều người viết đương đại
tái cấu trúc. Nổi bật nhất là biến huyền thoại thành phiếm huyền thoại. Đây là
cách chúng tôi dùng để nói về những tác phẩm viết lại huyền thoại theo hướng
giải thiêng, gây hiệu ứng bằng tiếng cười, đưa thêm những yếu tố trào lộng vào
làm thay đổi những huyền thoại trang nghiêm.
Việc đưa những yếu tố huyền thoại vào trong tác phẩm nghệ thuật không
phải là hiện tượng hiếm trong văn học từ xưa tới nay. Tuy nhiên từ những năm
1986 đến nay, ý thức đưa huyền thoại vào tác phẩm càng trở nên mạnh mẽ ở
nhiều tác giả, huyền thoại làm thành một khuynh hướng bút pháp huyền ảo kiểu
hậu hiện đại. Vay mượn từ huyền thoại hoặc sáng tạo các huyền thoại mới, có lẽ
cũng không ngoài ý đồ muốn thay đổi quan niệm về hiện thực trong văn
chương. Những truyền thuyết, thần thoại cũ được tái sinh khi tự do đan dệt với
những tình tiết thấm đẫm chất đời của ngày hôm nay: huyền thoại Thánh Gióng
trong Gióng, huyền thoại Tấm Cám trong Ngày xưa, cô Tấm (Lê Minh Hà),
Nhân sứ, Sự tích những ngày đẹp trời (Hòa Vang), Trương Chi, Những truyện
kể ở thung lũng Hua Tát (Nguyễn Huy Thiệp), Đường Tăng trong truyện cùng
tên (Trương Quốc Dũng)… Hình thể truyện không khác gì huyền thoại xưa.
Biến thể của truyện nằm ở tính chất hàm nghĩa, ở những dụ ngôn đầy sức
hàm chứa. Người đàn bà Âu Lạc (Võ Thị Hảo) so bì gánh nặng hành trang
trên vai mình với hành trang của mẹ Âu Cơ. Trương Chi của Nguyễn Huy
Thiệp mẫn cảm đặc biệt với trạng thái bầy đàn còn Trương Chi của Lê Minh

Hà lại nghèo nàn quá mức bình thường khiến người ta xót xa, thương cảm.
Những hình tượng quen thuộc của văn học dân gian đã được cải biến để
hiện hữu sống động, mang hơi thở thời đại. Ở Mình và họ (Nguyễn Bình
Phương), những huyền thoại lại được kết hợp với các yếu tố kinh dị, nghịch
dị và những tri thức lịch sử, xã hội để tạo thành một cốt truyện độc đáo. Vì
gắn liền với cảm hứng giễu nhại và tinh thần hoài nghi nên tính trò chơi


21

thường được nhận diện như dấu ấn của văn chương hậu hiện đại. Nó đóng
vai trò quan trọng trong lối viết hậu hiện đại. Phiếm huyền thoại cũng là
một trò chơi của lối viết này, đủ tạo thành một vệt mới mẻ, khác biệt so với
lối tự sự theo tinh thần khả tín truyền thống.
4.2. Những kĩ thuật mang dấu ấn công nghệ
Việc tổ chức văn bản có ý nghĩa quan trọng đối với nhà văn. Trong văn
học đương đại, sự giao thoa ảnh hưởng của văn học với các loại hình nghệ thuật
và sinh hoạt văn hóa cùng thời, như chúng tôi đã khẳng định, là vô cùng quan
trọng. Lắp ghép, cắt dán là những thao tác kỹ thuật phổ biến trong điện ảnh.
Loại nghệ thuật thiên về thị giác này với ưu thế diễn tả không gian, thời gian
đồng hiện đã được nhiều nhà văn tiếp thu để làm mới cấu trúc tự sự.
4.2.1. Cắt dán, chồng xếp văn bản
Ở một số công trình nghiên cứu người ta đã dùng một loạt các thuật ngữ
như: “mảnh ghép”, “phân mảnh”, “đồng hiện”, “lắp ghép” được dùng để nhận
xét về việc nhà văn “trình hiện” mạch vận động của sự kiện và tâm lí nhân vật,
nhất là của dòng ý thức. Ở Việt Nam, kể từ cao trào đổi mới giữa thập kỉ 80, lối
viết “dòng ý thức” xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết sáng giá mà sản phẩm của
nó luôn là sự xáo trộn trật tự cốt truyện, thậm chí phi cốt truyện hóa, tạo ra lối
kết cấu “rời rạc”, “chắp vá” phổ biến được triển khai và “kết dính” bởi những
mạch ngầm của nội giới con người vốn đa dạng, phức tạp, bí ẩn.

Khi đọc tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái,
Thuận... và gần đây là của Vũ Xuân Tửu, Nguyễn Một, Thùy Dương, Tiến Đạt,
Đỗ Phấn... người đọc không khỏi bối rối, thậm chí hoang mang trong mạch tự
sự như mê cung do chuỗi lắp ghép mà tác giả tạo ra. Tác phẩm như là những
mảnh hồi ức mơ hồ, những suy cảm đầy mộng mị, nỗi phiền muộn về quá khứ...
Quá khứ, hiện tại bị đảo lộn trật tự, được đan xen, cùng đồng hiện, vừa tạo sự
đứt gãy, phi logic, vừa có sự thống nhất khi gợi dẫn về một cảm thức âu lo
trước một hiện thực vụn vỡ, hỗn loạn, không thể hoàn nguyên.
Ở một dạng thức khác, tính chất lắp ghép hiện ra ở việc lai ghép các
hình thức thể loại. Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Trí nhớ suy tàn của Nguyễn
Bình Phương là sự thể hiện lai ghép tiểu thuyết với kịch, thơ, nhật ký.
Nhiều cây bút khác đã có những tìm tòi, khắc sâu tính chất liên văn bản,


22

chồng xếp các mảnh ghép như một nhân tố quan trọng trong tổ chức truyện
kể. Có thể kể đến những thể nghiệm độc đáo và đa dạng của Thuận, Nguyễn
Một, Hồ Anh Thái, Vũ Đình Giang, Vũ Xuân Tửu, Đặng Thân...
Cách ghép mảnh như thế cố ý loại bỏ tính logic, trật tự giữa các mảnh
truyện, khiến chúng như tồn tại độc lập bên cạnh nhau, không có xung đột thúc
đẩy mạch truyện, tác phẩm sẽ được triển khai nhờ vào cấu trúc: sự tháo rời, xáo
trộn tạo ra vô số khả năng, tình huống với những ráp nối linh hoạt. Mạch truyện
thành những mảnh vụn rời rạc, đứt gãy, quanh co, phức tạp, xác lập một cơ chế
tổ chức nghĩa khác biệt so với mô hình trong văn xuôi hiện thực truyền thống,
phá vỡ tính chất rõ ràng, lớp lang, trật tự của dòng sự kiện, nghĩa của câu chuyện
sẽ được tạo sinh từ sự tái lắp ghép và diễn giải các mảnh vỡ truyện kể theo nhiều
khả năng khác nhau.
4.2.2. Kỹ thuật bàn phím
Kỹ thuật bàn phím là một lựa chọn trình bày văn bản rất đáng chú ý, là

thể nghiệm văn chương của thời đại internet. Sử dụng kỹ thuật bàn phím là
cách mà nhà văn tạo văn bản như một hành trình đang diễn ra. Khi kích
chuột vào một từ khóa nào đó sẽ hiện ra cả một đoạn giải thích bằng một kiểu
chữ khác, người đọc sẽ có thêm những nội dung mới tưởng chừng như không
liên quan đến mạch sự kiện song thực chất đó là sự nới rộng những mạch
truyện đan lồng, giúp tác phẩm có thêm sức chứa mới (Rong chơi miền ký
ức). Có khi, một chi tiết hay một phần của văn bản tự sự được trình hiện như
là phần bình luận của các trang mạng xã hội. Những người tham gia bình
luận có thể mang tên thật hoặc những biệt danh của của các chủ nhân thời đại
@. Thậm chí có cả mục “Ý kiến của bạn” như một lời mời gọi tương tác, đối
thoại. Những hình thức tự sự mới lạ này đã định dạng cho một loại văn bản
tự sự tương tác, dù còn đang là những thể nghiệm mới mẻ nhưng cho thấy
một hướng đi độc đáo trong nỗ lực làm mới tự sự đương đại.
Tiểu kết chương 4
Có thể thấy, việc phá vỡ quan niệm truyền thống về thể loại và sử dụng
các kỹ thuật mang dấu ấn công nghệ đã phản ánh rất rõ văn học thời đại
internet. Tác phẩm văn học lúc này trở thành “file nén” của các loại văn bản


23

khác nhau. Nhà văn có quyền tái chế tất cả chất liệu ngẫu nhiên rơi vào tay,
thoáng qua mắt, để diễn tả ý nghĩ của mình ngay thời điểm đó. Có thể đó là
một mẩu tin báo chí, biên bản hội nghị, bức thư, hóa đơn tính tiền, kí hiệu
giao thông,… Người đọc tham gia vào sáng tạo ý nghĩa tác phẩm, từ đó
nhiều ý nghĩa khác nhau phát sinh qua kí ức và trải nghiệm riêng tư của mỗi
độc giả.
KẾT LUẬN
1. Trải qua nhiều chặng đường phát triển, tự sự ngày càng phát huy được
những ưu thế, khả năng tiềm tàng của nó trong việc khám phá bản chất của thời

đại và tái hiện một cách khách quan, “toàn vẹn” hiện thực đời sống. Phương
thức tự sự không chỉ thuần túy là hình thức, kỹ thuật, thủ pháp mà bao gồm cả
những yếu tố thuộc chiều sâu tư duy văn học như cảm quan hiện thực, quan
niệm về bản chất, chức năng của văn học và cả cách thức tạo lập văn bản tự sự.
2. Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, trong bối cảnh toàn cầu hóa,
cùng với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, khi những điều kiện chính
trị - kinh tế - xã hội và văn hóa đã thực sự chín muồi và đặc biệt khi nhà văn đã ý
thức được đầy đủ, sâu sắc, văn xuôi Việt Nam mới có được những chuyển đổi cơ
bản trong phương thức tự sự. Từ nội dung “câu chuyện” được kể, nhà văn dành
quan tâm đặc biệt đến cách kể “câu chuyện”. Cùng với nỗ lực đổi mới kiểu dạng
tự sự khách quan- khả tín truyền thống, nhiều nhà văn đã hướng tới kiểu dạng
tự sự mới, tự sự chủ quan- bất khả tín, thể hiện sự thay đổi trong cách nhìn,
trong ý thức của nhà văn về đối tượng, chủ thể, người đọc và bản thân văn học.
3. Như một hệ quả tất yếu, ý thức đối thoại của nhà văn và khát vọng dân
chủ hóa nền văn học đã chi phối, dẫn đến những đổi mới sâu sắc trong cách ứng
xử với nhân vật và thể loại của văn xuôi giai đoạn này. Các dạng nhân vật bé
nhỏ, cô đơn, phi lý tưởng hoặc nhân vật khước từ nguyên tắc điển hình hóa như
nhân vật kỳ ảo, nhân vật mô hình, nhân vật bị tẩy trắng, nhân vật phi nhân dạng
xuất hiện ngày càng nhiều. Hoặc đối thoại với kiểu nhân vật lý tưởng tròn trịa,
đơn phiến truyền thống; hoặc phá vỡ khuôn khổ chật chội của khung hình nhân
vật được xây dựng theo nguyên tắc “nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển


24

hình”, hoặc tiệm cận với nhân vật của văn học hiện đại thế giới, những dạng nhân
vật này thực sự ghi nhận nỗ lực rất lớn của nhà văn trong việc tìm kiếm sự cách tân
lối viết, góp phần làm thay đổi cách đọc truyền thống, hướng đến cảm quan mới mẻ
về hiện thực, đáp ứng được nhu cầu gia tăng đối thoại dân chủ của xã hội và của
nền văn học.

4. Những thử nghiệm lai ghép, làm mới thể loại cũng là một dấu ấn riêng,
nổi bật trong sự đổi mới phương thức tự sự của văn xuôi giai đoạn này. Từ
những chuyển đổi trong cảm quan sống, văn hóa sống của thời đại đã xuất hiện
các dạng thức tự sự như giả lịch sử, nhại trinh thám, giả tự truyện và phiếm
huyền thoại. Sự dung hợp tạo ra những thể loại mới như vậy vừa đáp ứng được
nhu cầu nắm bắt, khám phá và diễn tả hiện thực đời sống hiện đại bộn bề, phồn
tạp vừa khẳng định được cá tính sáng tạo độc đáo và nỗ lực vượt thoát khỏi
những lối mòn nghệ thuật của nhà văn.
Những kỹ thuật mang dấu ấn công nghệ như kỹ thuật cắt dán, lắp ghép,
chồng xếp văn bản, “kỹ thuật bàn phím” đều được sử dụng thường xuyên và
không ngừng được tìm tòi, thể nghiệm đổi mới ở từng tác giả và qua từng tác
phẩm cụ thể. Đó thực sự là những sáng tạo rất đáng chú ý của các cây bút văn
xuôi trong tổ chức văn bản tự sự.
5. Nhìn lại hơn ba thập niên đổi mới có thể nói, văn xuôi hư cấu Việt
Nam từ giữa những năm 80 thế kỷ XX đến nay đã tạo được những dấu ấn riêng,
sâu đậm về phương thức tự sự. Chính những tìm tòi đổi mới miệt mài, bền bỉ,
tâm huyết đó của cả một đội ngũ nhà văn đã góp phần không nhỏ tạo nên thành
tựu của văn xuôi nói riêng và văn học đổi mới nói chung. Tuy nhiên, sự tìm tòi,
thể nghiệm, đổi mới thường khó tránh được những hạn chế, bất cập đòi hỏi phải
có thời gian cho sự thanh lọc, điều chỉnh để có được những sản phẩm nghệ
thuật thực sự đáp ứng được nhu cầu của công chúng và làm giàu đẹp hơn nền
văn hóa dân tộc./.



×