Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Hình tượng nghệ thuật trong truyện ngắn của i bunin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.61 KB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

NGUYỄN THỊ THÁI UYÊN

HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

HÀ NỘI - 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

NGUYỄN THỊ THÁI UYÊN

HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Lê Thị Thu Hiền

HÀ NỘI - 2019



LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của cô
giáo - tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền. Qua đây, tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc đến cô - người đã tận tình hướng dẫn, khuyến khích và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã dạy tôi những kiến thức hữu ích trong
suốt 4 năm học tập.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, dù đã rất cố gắng song do điều kiện
về thời gian cũng như năng lực có hạn nên khóa luận không tránh khỏi sai sót.
Tôi hy vọng sẽ nhận được những phản hồi từ các thầy cô và các bạn để khóa
luận này hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Thái Uyên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của cô giáo - tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền. Kết quả thu được trong đề
tài là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về nội dung khoa học của công trình này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Thái Uyên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Bố cục......................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT CHÍNH TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN ................................................................... 6
1.1. Thuật ngữ “Hình tượng nghệ thuật” ....................................................... 6
1.1.1. Khái niệm hình tượng nghệ thuật ..................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của hình tượng nghệ thuật ................................................ 6
1.2. Hình tượng người phụ nữ Nga................................................................ 8
1.3. Hình tượng người nông dân .................................................................. 17
1.4. Hình tượng những con người nhỏ bé.................................................... 19
1.5. Hình tượng quý tộc nhỏ sa sút .............................................................. 21
1.6. Hình tượng thiên nhiên ........................................................................ 23
1.6.1. Sự trù phú của vùng quê nay chỉ còn trong kí ức ........................... 23
1.6.2. Sự tiêu điều xơ xác ........................................................................ 26
CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG TRONG
TRUYỆN NGẮN I. BUNIN ........................................................................... 29
2.1. Nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật................................................ 29
2.2. Nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm nhân vật....................................... 31
2.2.1. Miêu tả thế giới nội tâm qua dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi” ... 31
2.2.2. Thế giới nội tâm qua độc thoại ....................................................... 31
2.3. Không gian và thời gian nghệ thuật được sử dụng để thể hiện
hình tượng ..................................................................................................... 34
2.3.1. Không gian nghệ thuật.................................................................... 34
2.3.2.Thời gian nghệ thuật ........................................................................ 43
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 49

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1


Nhắc đến nước Nga, mọi người không chỉ nhớ đến những khu rừng bạch
dương rực rỡ, mà mọi người còn nhớ đến một nền văn học đồ sộ với những
tên tuổi vĩ đại, trong đó có I. Bunin. Ivan Alekseyevick Bunin (1870 - 1953)
sinh ra trong một gia đình quý tộc lâu đời ở nước Nga nhưng đã suy tàn. Ông
là một nhà văn có cuộc đời nhiều uẩn khúc với sự nghiệp văn chương phong
phú và tài năng ở nhiều mặt. Ông là nhà văn Nga đầu tiên nhận giải Nobel về
văn học, là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Nga vào cuối
thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Ông không chỉ sáng tác thơ ca và tiểu luận, mà ông còn sáng tác truyện
ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết. Đặc biệt trong lĩnh vực truyện ngắn, ông được
đánh giá cao và Những lối đi dưới hàng cây tăm tối là tuyển tập tổng hợp
những truyện ngắn của ông, được sáng tác trong khoảng thời gian ông bị lưu
đày tại Pháp. Lúc đó, Bunin đã ngoài 60 tuổi và bị dằn vặt vì nghèo đói và
hoài niệm về quê hương. Xa quê hương nhưng những kí ức về đất nước và
nhân dân Nga luôn in đậm trong tâm trí, tình cảm qua từng trang truyện của
ông. Với tình hình như vậy, phong cảnh Nga, tâm hồn con người Nga đã xuất
hiện phong phú hơn, sống động hơn qua những trang văn của ông. Có thể
thấy đó chính là hình ảnh của Nga thông qua sự hồi tưởng của Bunin. Ông
đến với văn học bắt đầu từ thể loại thơ và trong các tác phẩm ông để lại, có 3
tập thơ được sáng tác ở các giai đoạn khác nhau. Có nhiều ý kiến cho rằng:
“Sau Sêkhôp thì bậc thầy truyện ngắn trong văn học Nga là Bunin”. Do đó có

thể giải thích tại sao truyện của Bunin lại được gọi là những “bài ca văn
xuôi”.
Những hình tượng chính trong truyện ngắn của Bunin là thiên nhiên Nga
mang hơi thở của bốn mùa; những thảo nguyên rộng lớn, cánh đồng, ánh
trăng và những ngôi sao sáng trên bầu trời. Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên,
chúng ta còn thấy sự xuất hiện của con người, đó là hình tượng người phụ nữ
với khao khát tình yêu đến cháy bỏng. Những con người Bunin xây dựng
mang đến cho độc giả cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Ông không đi vào bi kịch
tinh thần, mà chỉ bắt lấy những ký ức, hồi tưởng và suy nghĩ. Điều đó không
có nghĩa là hình tượng trong những trang văn của ông mờ nhạt.

2


Viết về thiên nhiên, viết về người phụ nữ, tầng lớp quý tộc sa sút hay
người nông dân không phải là vấn đề mới mẻ trong văn học. Các tác phẩm
của Bunin xoay quanh chủ đề: thiên nhiên, con người và tình yêu. Đó là
những chủ đề không còn xa lạ đối với mỗi chúng ta, nhưng bằng tài năng với
phong cách viết độc đáo của riêng mình, nhà văn đã khẳng định được giá trị
của mình.Viết về thiên nhiên để nhìn thấy được vẻ đẹp bốn mùa của đất nước
mình, viết về hình tượng người phụ nữ với những nét đẹp khác nhau, chúng ta
thấy hình tượng người phụ nữ trong văn học cổ đại và bây giờ luôn là biểu
tượng cao nhất của cái đẹp. Ngoài những hình tượng chính, còn có hình tượng
người nông dân chăm chỉ hay những tầng lớp quý tộc nhỏ sa sút phải bán đi
cả mảnh đất quê hương cha ông để lại để sinh tồn. Tất cả đã tạo ra một nét
độc đáo trong những truyện ngắn của Bunin.
Do đó, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Hình tượng nghệ thuật
trong truyện ngắn của I. Bunin” để hiểu rõ hơn về Bunin và các hình tượng
nghệ thuật trong truyện ngắn của ông cũng như nghệ thuật mà ông đã sử dụng
để xây dựng hình tượng trong những truyện ngắn của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bunin nói : “Đất nước và con người bao giờ cũng khiến tôi rung động”
[4-tr.8]. Bunin viết văn và làm thơ từ rất sớm, ông nổi tiếng từ khi còn rất trẻ.
Tuy nhiên, ông được biết đến khá muộn so với các nhà văn khác do những
hiểu lầm về Cách mạng tháng Mười bởi Bunin luôn mang trong mình tinh
thần phản đối nhà cầm quyền Liên Xô. Điều đó đã tạo nên khoảng cách giữa
ông và độc giả thời đó ngày càng xa hơn. Ông đã phát biểu tại lễ trao giải
Nobel rằng mình là một nhà văn lưu vong, một nhà văn không có đất nước.
Mãi đến năm 1950, sau khi Bunin qua đời, một số tác phẩm của ông mới
được xuất bản. Kể từ đó, các tác phẩm của ông ngày càng trở nên phổ biến
không chỉ ở Liên Xô mà trên toàn thế giới.
Trong những năm 60 - 70, tác phẩm của Bunin đã được chào đón. Năm
1961 xuất bản một số tác phẩm. Vào các năm 1965, 1966, 1967 Nhà xuất bản
Văn học Nghệ thuật Matxcơva xuất bản tuyển tập 9 tập của Bunin, trong đó
chỉ có một cuốn tiểu thuyết, phần còn lại chủ yếu là truyện ngắn, truyện vừa
và thơ
Bên ngoài nước Nga, các tác phẩm của Bunin được các nhà khoa học
3


quan tâm và đưa vào chương trình giảng dạy đại học ở Mỹ, Canada và Tây
Âu. Ở Việt Nam, mặc dù độc giả chỉ biết đến những truyện ngắn của Bunin
thông qua những bản dịch nhưng hầu hết bạn đọc đều yêu thích nhà văn này,
yêu thích những câu chuyện lãng mạn nhưng man mác buồn mà ông thể hiện
trong các tác phẩm của mình. Những câu chuyện của ông có sức mê hoặc lạ
lùng đối với những người đã từng sống trên đất nước Nga và từng được chứng
kiến mùa thu vàng trên mảnh đất này. Bằng tài năng của mình, Bunin đã tái
hiện tài tình những bức tranh phong cảnh và những chuyển biến trong tâm
hồn con người khiến ngay cả những người chưa từng được đặt chân tới mảnh
đất nước Nga cũng có cảm giác như đang đắm chìm vào cuộc sống của những

con người nơi đó, không hề có chút xa lạ
Do những hạn chế về ngoại ngữ và tài liệu tham khảo, chúng tôi chỉ khảo
sát được 30 truyện ngắn đã được dịch sang tiếng Việ. Ở đây, có thể kể tên một
số tài liệu bằng tiếng Việt có đề cập tới Bunin và những tác phẩm của ông mà
chúng tôi đã tham khảo trong quá trình nghiên cứu: Những lối đi dưới hàng
cây tăm tối (Hà Ngọc dịch), Hơi thở nhẹ (Phan Hồng Giang dịch). Từ điển
Văn học (bộ mới) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá chủ biên. Trên trang
Vnca.cand.com.vn cũng có bài viết về Bunin: Một cuộc đời buồn và đẹp. Bài
viết đã khái quát khá đầy đủ, chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của Bunin,
trong đó nhà văn đặc biệt nhắc lại mối tình cuối đời với một cô gái trẻ, nó như
một minh chứng chứng minh cho khát khao về tình yêu của Bunin.
Chúng ta có thể kể đến một vài nhận xét của giới sáng tác, phê bình thế
giới đối với những tác phẩm của Bunin cũng như những nhận xét về ông :
“Hiểu và yêu thiên nhiên như Bunin, ít có ai sánh bằng. Nhờ tình yêu đó
mà cái nhìn của ông thật rộng rãi và tinh tường, những ấn tượng đầy âm
thanh, màu sắc mà ông tạo ra thật phong phú” - A.Blok [7-tr.171].
“Bunin viết hay đến nỗi cả Turghenhiev cũng không viết được như thế
chứ đừng nói gì tôi” - Lev Tolstoy [4-tr. 9]
Những năm gần đây, những trang văn đặc sắc với tên tuổi Bunin đã trở
thành đối tượng nghiên cứu cho một vài luận văn thạc sĩ:
Luận văn thạc sĩ của Đặng Thu Hương ( Đại học khoa học Xã hội và
Nhân văn-2008) với đề tài “ Các mô hình tượng trưng trong văn xuôi Ivan
Bunin” cho ta thấy truyện ngắn của Bunin mang đậm màu sắc tượng trưng và
4


những đặc điểm cấu trúc cũng như bản chất của các mô hình tượng trưng ấy
Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Nhung ( Đại học khoa học Xã hội và
Nhân văn- 2014) với đề tài “ Dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại trong văn xuôi
I.Bunin” cho thấy những biểu hiện của chủ nghĩa hiện đại, nguồn gốc và lí do

sự xâm nhập của chủ nghĩa hiện đại vào trong các tác phẩm của ông.
Qua quá trình thống kê, chúng tôi nhận thấy đã có khá nhiều bài viết về
Bunin. Với đề tài này, hình tượng nghệ thuật trong các truyện ngắn của
Bunin sẽ được đi sâu vào khám phá, phân tích. Hi vọng rằng, những tìm hiểu
của chúng tôi sẽ góp phần giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về bức tranh thiên
nhiên, về cuộc sống nông thôn và tình yêu của những người phụ nữ trên đất
nước Nga.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Khóa luận hướng đến phân tích những hình tượng
nghệ thuật trong truyện ngắn của Bunin.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ những hình tượng nghệ thuật và nghệ
thuật xây dựng hình tượng trong truyện ngắn của I.Bunin, để đạt được mục
đích đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu các nội dung sau:
+ Một số hình tượng nghệ thuật chính trong truyện ngắn của I. Bunin
+ Nghệ thuật xây dựng hình tượng trong truyện ngắn của I.Bunin
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hình tượng nghệ thuật trong truyện ngắn của
I. Bunin.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của khóa luận này là 30 truyện
ngắn của I. Bunin đã được dịch sang tiếng Việt. Ở Việt Nam, những tác phẩm
của Bunin được dịch không nhiều và cũng được dịch khá muộn, mở đầu là
Tuyển truyện Bunin do Hà Ngọc dịch, Nxb Văn học xuất bản năm 1987;
những truyện ngắn như Say nắng, Hơi thở nhẹ,... Gần đây những bản dịch cũ
được tái bản thành 2 tập truyện: Hơi thở nhẹ (Phan Hồng Giang dịch), Những
lối đi dưới hàng cây tăm tối (Hà Ngọc dịch), Nxb Văn học, 2016. Những
truyện ngắn đã được dịch này đều là những tác phẩm rất đặc sắc, điển hình
cho phong cách của nhà văn cũng như khái quát được những hình tượng nghệ
thuật trong truyện ngắn của ông.
Tuy nhiên chúng tôi không đi vào phân tích mọi vấn đề của các tác phẩm
5



mà chỉ chọn đề tài là hình tượng nghệ thuật để có thể đi sâu nghiên cứu đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để chỉ ra và phân tích được những hình tượng nghệ thuật trong truyện
ngắn của Bunin, khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp thống kê - phân loại để khảo sát những hình tượng nghệ
thuật qua mỗi truyện ngắn
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2
chương:
Chương 1: Một số hình tượng nghệ thuật chính trong truyện ngắn của I.Bunin
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng hình tượng trong truyện ngắn I.Bunin

6


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT CHÍNH
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN
1.1. Thuật ngữ “Hình tượng nghệ thuật”
1.1.1. Khái niệm hình tượng nghệ thuật
Nếu khoa học thường sử dụng khái niệm, định nghĩa; tôn giáo dùng các
biểu tượng thì nghệ thuật lại dùng hình tượng để diễn tả, tái hiện nội dung. Từ
lâu, khái niệm hình tượng nghệ thuật đã không còn xa lạ đối với mỗi chúng ta.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Hình tượng nghệ thuật chính là các
khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong
những tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng
của hình tượng nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có thể

ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng” [12-tr.147].
“Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không phải sao chép y
nguyên những hiện tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông
qua trí tưởng tượng và tài năng của nghệ sĩ, sao cho các hình tượng truyền lại
được ấn tượng sâu sắc, từng làm cho nghệ sĩ day dứt, trăn trở cho người khác”
[12-tr.147].
Qua đó, có thể thấy hình tượng nghệ thuật nói chung chính là phương
tiện đặc thù của nghệ thuật nhằm phản ánh cuộc sống. Các hình tượng này trở
về với cuộc sống, tác động vào tình cảm và thức tỉnh tư duy, giúp con người ý
thức được chính mình, ý thức được mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, cá
nhân với xã hội. Như vậy, hình tượng nghệ thuật chính là điều kiện đầu tiên
để tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật.
1.1.2. Đặc điểm của hình tượng nghệ thuật
Theo Lí luận văn học tập 1, hình tượng nghệ thuật mang năm đặc
điểm cơ bản:
Thứ nhất, hình tượng nghệ thuật như một khách thể tinh thần đặc thù:
“Gọi là khách thể bởi vì đó là thế giới tinh thần đã được khách thể hóa
thành một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của người sáng tạo hay người thưởng thức nữa, cũng không
gắn liền với quá trình tâm lý, thần kinh của tác giả như trong quá trình sáng
tạo” [14-tr.67].
Thứ hai , hình tượng nghệ thuật với tính tạo hình và biểu hiện:
7


“Tạo hình là việc làm cho khách thể có được một tồn tại cụ thể cảm tính
bên ngoài qua chất liệu, là phú cho thế giới những hình tượng khái quát một
thể xác, hình hài. Nó bao gồm tạo cho hình tượng một không gian, thời gian,
những sự kiện và những quan hệ, và rất quan trong là tạo dựng được những
con người có nội tâm, ngoại hình, hành động, ngôn ngữ” [14-tr.69-70].

“Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái bên trong, cái bản chất của sự vật, hé
mở những nỗi niềm thầm kín trong tâm hồn. Biểu hiện gợi lên sự toàn vẹn,
đầy đặn của hình tượng, và nhất là thể hiện khuynh hướng tư tưởng tình cảm
của con người, của tác giả trước các hiện tượng đời sống” [14-tr.70].
Thứ ba, hình tượng nghệ thuật là một loại kí hiệu đặc biệt: “Hình tượng
nghệ thuật vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống, lại vừa là một hiện tượng
kí hiệu giao tiếp. Bản chất của hiện tượng ký hiệu có xu hướng cố định hóa,
trở thành công thức, sáo mòn. Bản chất sự phản ánh nhận thức có xu hướng
tìm tòi cái mới, phát hiện ra cái độc đáo. Từ đó diễn ra quá trình thường
xuyên đổi mới và cắt nghĩa lại kí hiệu, sáng tạo ký hiệu mới” [14-tr.73-74].
Thứ tư, hình tượng nghệ thuật là một quan hệ xã hội - thẩm mỹ: “Trước
hết là quan hệ giữa thế giới nghệ thuật với hiện tại mà nó phản ánh, thứ đến,
quan hệ của tác giả đối với cuộc sống trong tác phẩm, quan hệ tác giả với
người đọc, quan hệ hình tượng với ngôn ngữ của một nền văn hóa, cuối cùng,
quan hệ của các yếu tố của bức tranh đời sống. Chính cái phức hợp quan hệ
tạo thành hạt nhân cấu trúc của tác phẩm” [14-tr.74].
Thứ năm, tính nghệ thuật của hình tượng: “Tính nghệ thuật làm tích cực
hóa khả năng cảm thụ của con người, nâng họ lên hàng nghệ sĩ, khẳng định
vai trò chủ thể của con người trước thế giới (...) Tính nghệ thuật đa dạng như
bản thân nghệ thuật. Tiêu chuẩn cuối cùng của nó là sự thống nhất hoàn mỹ
của nội dung và hình thức nghệ thuât, là sức gây ấn tượng mang tính tư tưởng
của hiện thực đời sống, phản ánh được hiện thực nhiều mặt và vận dụng biến
hóa không ngừng” [14-tr.78-79].
Nếu không có hình tượng thì sẽ không có nghệ thuật. Hình tượng đối với
một tác phẩm văn học có vai trò quan trọng, nó không chỉ tái hiện thế giới
khách quan, góp phần truyền tải thông điệp của tác giả tới mọi người. Không
những thế, nó còn là tâm hồn, là bản ngã của người nghệ sĩ, là cái tôi, là
phong cách của người nghệ sĩ.
8



1.2. Hình tượng người phụ nữ Nga
Trong những năm gần đây, hình tượng người phụ nữ đã được xây dựng
khá toàn diện bởi các nhà văn, nhà thơ. Người phụ nữ xuất hiện với hai nét
nổi bật: phụ nữ là hiện thân của sắc đẹp và người phụ nữ cũng là hiện thân
cho những số phận bất hạnh. Đọc truyện ngắn của Bunin, ta thường nghĩ ngay
tới thế giới nhân vật của ông. Thế giới nhân vật của Bunin xuất hiện nhiều
những con người bình thường, họ chỉ xuất hiện trong một vài dòng hoặc xuất
hiện trong một vài trang truyện và hầu hết độc giả ấn tượng với người phụ nữ.
Khi viết về người phụ nữ, đó là một hành trình khám phá những bí ẩn trong
thế giới nội tâm của các nhân vật. Trong văn học, người phụ nữ vừa là chủ thể
sáng tác, vừa là trung tâm của đối tượng miêu tả. Mỗi người phụ nữ đều mang
trong mình những nét đẹp riêng, không trùng lặp với bất kì ai.Vẻ đẹp của
những người phụ nữ trong những trang văn của ông được nhìn qua đôi mắt
của những chàng trai trẻ và thường gắn liền với tình yêu. Qua đó, người nghệ
sĩ có thể viết nên những trang truyện độc đáo mà qua việc đọc các tác phẩm ,
người đọc có thể thấy được hình tượng những người phụ nữ với những nét
đẹp về ngoại hình cũng như những nét đẹp trong tính cách của họ. Trong các
tác phẩm của mình, Bunin đã viết rất nhiều về người phụ nữ. Qua khảo sát,
chúng ta có thể đề cập đến những truyện ngắn đặc biệt viết về người phụ nữ,
cụ thể như sau: “Hơi thở nhẹ, Say nắng, Natali, Một chuyện tình nho nhỏ,
Cuộc đời tươi đẹp, Ruxia, Những tấm danh thiếp,..”.
Trong truyện ngắn Ruxia, vẻ đẹp của Ruxia tượng trưng cho nét mỏng
manh, trong trắng và trẻ trung của người con gái. Nàng xuất hiện với ngoại
hình: “Cô ta tết đuôi sam dài sau lưng, mặt ngăm đen lấm tấm những nốt ruồi
đen, mũi dọc dừa thanh thanh, mắt đen, lông mày đen... Mái tóc khô cứng, hơi
quăn” [4-tr.239]; “Cả mắt cá chân và bàn chân cô ta đều gày gò trong đôi giày
bện, với những khớp xương trồi lên dưới làn da mỏng ngăm đen” [4-tr.240].
Và trong mắt chàng trai đang yêu, những đặc điểm ấy thật đáng yêu. Bên
cạnh đó, nhà văn cũng viết về trang phục của nàng: “Nàng đi đôi giày mềm,

không có đế, nên toàn thân nàng phập phồng trong tấm xiêm áo dài cụt tay
màu vàng ấy. Tấm xiêm rộng, nhẹ nhàng, nên tấm thân thanh nữ thon mảnh
của nàng được thoải mái xiết bao” [4-tr.241]. Ngoài những nét đẹp về ngoại
hình, vẻ đẹp của Ruxia còn được thể hiện qua việc miêu tả tình yêu của chàng
9


trai dành cho Ruxia. Trong “một hôm dầm mưa ướt cả chân, nàng từ ngoài
vườn chạy vào phòng khách, chàng thấy vậy bèn chạy vội đến cởi giày cho
nàng và hôn lên đôi bàn chân bé nhỏ, ướt át của nàng và cảm thấy suốt đời
mình chưa bao giờ có được niềm hạnh phúc như thế” [4-tr.241]. Ruxia còn
giúp người đọc thấy được sự ngại ngùng và bối rối của cô: “Lúc đầu nàng
luôn chăm chú nhìn chàng, mỗi khi chàng bắt chuyện thì nàng đỏ mặt một
cách kín đáo và lúng búng đáp lại với vẻ giễu cợt” [4-tr.242]. Vẻ e thẹn, nhút
nhát này của Ruxia là nét đẹp thường thấy của mỗi người con gái trong tình
yêu. Trong con mắt tràn đầy tình yêu của chàng khi ấy: “Trong không gian
bóng tối lờ mờ xuất hiện, cặp mắt đen và mái tóc kết thành bím của nàng thật
tuyệt diệu. Chàng chẳng dám đụng vào người nàng nữa, chỉ hôn đôi tay nàng
và im lặng vì sung sướng vô biên” [4-tr.248]. “Và chàng lại áp môi mình lên
tay nàng, đôi khi hôn lên bô ngực lạnh ngắt của nàng như hôn một vật gì
thiêng liêng vậy” [4-tr.248]. Khi đang trò chuyện với chàng, Ruxia bỗng hét
lên sợ hãi, kéo váy lên đến tận đầu gối, giậm chân hét “Rắn! Rắn”. Chính nỗi
sợ hãi của nàng khiến cho chàng cảm thấy choáng váng, ngây ngất và chàng
nghĩ rằng nàng còn trẻ con quá. Phụ nữ vốn là phái yếu và sự sợ hãi của
Ruxia khiến cho chàng có mong muốn được bảo vệ và che chở cho nàng.
Tình yêu của Ruxia đến một cách tự nhiên và trong sáng. Nàng cũng là người
con gái chủ động và bạo dạn trong tình yêu, điều đó được thể hiện qua chi tiết
nàng chủ động rủ chàng trai hôm nào đó đi bơi thuyền và mạnh dạn hỏi chàng
trai “Anh có yêu em không?” [4-tr.246]. Nàng cũng thừa nhận rằng mình
cũng yêu chàng trai và giải thích ban đầu nàng cũng ghét anh, được thể hiện

qua chi tiết: “Cả em cũng thế, - nàng nói. - Mà không đâu, mới đầu em ghét
anh đấy, em ngỡ là anh chẳng chú ý gì đến em cả. Nhưng, ơn Chúa, tất cả
những cái đó đều đã qua rồi” [4-tr.246]. Qua đó cho thấy nàng là người phụ
nữ chủ động, say đắm trong tình yêu.
Ruxia còn được tái hiện như một thiên thần qua chi tiết : “Mọi chuyện
mùa hè năm ấy đều dị thường. Thật lạ lùng rằng chúng chỉ cho mỗi mình
nàng lại gần, cúi cong cái cổ dài thanh thanh, từ phía trên nhìn xuống nàng
với vẻ rất nghiêm nghị nhưng đầy tò mò hiền lành, khi nàng nhẹ nhàng thanh
thoát chạy đến bên chúng, chân đi hài sặc sỡ. Bất thần, nàng ngồi xổm trước
đôi sếu, tấm váy xaraphan màu vàng xòe ra trên bãi cỏ xanh ven đầm ẩm ướt,
10


ấm áp; với vẻ say sưa thơ trẻ nàng nhìn vào đôi mắt đẹp đen dữ tợn của
chúng, đôi mắt lọt vào giữa mép vòng viền màu xám sẫm”[2- tr.32].
Tất cả những vẻ đẹp trên cho thấy Ruxia là một cô gái hiền từ và thật đặc
biệt được thể hiện qua chi tiết chỉ có cô mới có thể lại gần những con sếu.
Ruxia là một cô gái trẻ trung, ngây thơ, trong sáng, là biểu tượng cho khát
vọng tình yêu, khát vọng được yêu thương. Trong truyện ngắn này, Bunin đã
xây dựng hình tượng Ruxia với những nét đẹp tự nhiên, trong sáng, thánh
thiện với khát vọng yêu thương bởi tình yêu của nàng với chàng trai trong câu
chuyện không thành, họ yêu nhau nhưng không đến được với nhau do sự ngăn
cản của mẹ Ruxia. Bà ta coi chàng trai là thằng đểu và không cho phép chàng
trai ấy lấy con gái bà và bà đã đe dọa dùng cái chết nếu như Ruxia bỏ nhà
theo chàng trai. Tình yêu là thứ tình cảm luôn tồn tại song song trong cuộc
sống của mỗi con người, nhưng thay vì lựa chọn tình yêu với chàng gia sư thì
Ruxia đã chọn chữ “hiếu” thay vì chữ “tình”. Với Ruxia trong câu chuyện
này, chữ “hiếu” nặng hơn chữ “tình”. Nàng chấp nhận hi sinh hạnh phúc của
mình để ở bên cạnh và chăm sóc mẹ bởi nếu cô bỏ đi lấy chồng, mẹ cô sẽ phát
điên và không thể chịu nổi. Mặc dù yêu nhau nhưng không đến được với

nhau, nhưng trong trái tim chàng gia sư kia, nàng mãi mãi là mối tình duy
nhất của cuộc đời mình.
Bunin biết khơi dậy trong mỗi nhân vật sự say đắm của tình yêu lứa
đôi, khiến cho mỗi nhân vật đều mang trong mình những khát vọng yêu
thương và một tình yêu đẹp, thuỷ chung nhưng không kém phần mãnh liệt.
Nhưng bên cạnh đó, cũng phải nói đến những cái dang dở của tình yêu, thể
hiện ở việc Ruxia và chàng gia sư yêu nhau nhưng không đến được với nhau.
Như trong câu thơ của Xuân Diệu - ông hoàng thơ tình của văn học Việt Nam
đã viết : “Yêu là chết trong lòng một ít” và chúng ta thấy “tình chỉ đẹp khi còn
dang dở” nên nhân vật trong truyện ngắn của Bunhin, cụ thể là nàng Ruxia
đến với tình yêu mãnh liệt bao nhiêu thì thời gian hạnh phúc và giây phút chia
tay càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Đến cuối cùng, thay vì chọn tình yêu, nàng đã
chọn người mẹ điên và cô gái này đã ám ảnh chàng suốt cả cuộc đời khiến
người vợ phát ghen bởi Ruxia chính là người đầu tiên mang đến cho anh ta
hạnh phúc của một tình yêu hồn nhiên và trong sáng.
Trong truyện ngắn Hơi thở nhẹ, I.Bunin đã xây dựng nhân vật Olia
11


Meserskaia là nhân vật trẻ tuổi nhất, xinh đẹp, ngây thơ và vui tươi như một
bông hoa rực rỡ trong nắng mai, vẻ đẹp của nàng tượng trưng cho sự thuần
khiết, tự nhiên và đầy sức sống của cô gái đang sống trong những năm tháng
thanh xuân tươi đẹp. Olia xinh đẹp, đầy sức sống, nhưng nàng lại có cuộc đời
bất hạnh. Nhà văn đã khéo léo sử dụng nhiều tính từ để miêu tả vẻ đẹp của cô,
trong đó đôi mắt được miêu tả rất nhiều lần và sức thu hút của Olia được khắc
họa thành công: “Đôi mắt đầy vui sướng và vô cùng linh lợi”; “ánh mắt sáng
long lanh”; “cặp mắt sáng tinh lợi”; “ánh mắt trong sáng”. Vẻ đẹp của nàng là
vẻ đẹp không cần chải chuốt mà đó là vẻ đẹp tự nhiên sẵn có. Vẻ đẹp của Olia
khiến nhiều người si mê. Nét đẹp tự nhiên, sẵn có ấy được thể hiện ở chi tiết :
“Olia thì chẳng e sợ gì, kệ cho có vết mực dây ra ngón tay, kệ cho mặt đỏ gay

gắt, đầu tóc rối bù, và khi chạy ngã chân hở ra quá đầu gối cô cũng mặc. Tuy
chẳng phải chăm sóc hay cố gắng đặc biệt gì, trong hai năm qua tất cả những
gì đã khiến cô nổi bật lên trong trường dường như đã cũng đến với cô một
cách hết sức tự nhiên: nào là duyên dáng, thanh lịch, yểu điệu và cặp mắt sáng
long lanh”[4-tr.192]. Olia là hiện thân của vẻ đẹp tự nhiên, đằm thắm, quyến
rũ nhưng vô cùng trong sáng và đầy sức sống.
Chân dung của Olia được Bunin xây dựng trên phông nền đám đông khi
cô hòa mình vào đám nữ sinh mặc đồng phục, khi thì nổi bật lên trong vũ hội,
trên sân băng bởi: “Trong các cuộc vũ hội chẳng ai nhảy đẹp bằng Olia, chẳng
ai trượt băng nhanh như cô, trong vũ hội cũng chẳng ai được săn đón nhiều
như cô, và cũng chẳng hiểu vì sao chẳng ai được các lớp dưới yêu chuộng
bằng cô”[4-tr.192]. Xinh đẹp, quyến rũ nhưng cũng có nhiều tiếng xì xào bàn
tán nàng nông nổi và không thể sống thiếu những chàng trai dành tình cảm
mến mộ cho mình. Bên cạnh đó, hình ảnh Olia còn được Bunin. khắc họa
trong khung cảnh khu vườn, trong không gian cứng nhắc, đầy khuôn phép của
căn phòng bà hiệu trưởng. Bằng tài năng của mình, tác giả đã tạo nên sự hòa
quyện giữa con người với thiên nhiên. Bunin đã vẽ nên không khí trong lành,
tươi mát của khu vườn sau cơn mưa, sự tươi mát ấy phù hợp với sự trẻ trung,
hạnh phúc của Olia và nàng cảm thấy thế giới này chỉ có một mình nàng.
Không khí tươi mát của khu vườn trái ngược với căn phòng cứng nhắc, đầy
khuôn phép của bà hiệu trưởng: “sạch như ly như lau” với “đường ngôi đều
đặn”, “mái tóc uốn rất khéo của bà hiệu trưởng”, với những lời nhắc nhở
12


nghiêm khắc, mỉa mai của bà. Những chi tiết xung quanh ngoại hình và tính
cách của bà hiệu trưởng càng làm nổi bật lên sự trẻ trung, hồn nhiên, ngây thơ
và ngời sáng của Olia. Dường như nhân vật là sự hòa hợp giữa con người với
thiên nhiên đất trời, bởi những bước ngoặt trong cuộc đời của Olia đều có sự
xuất hiện của thiên nhiên. Những rung động đầu đời của nàng thiếu nữ Olia

cũng diễn ra trong khung cảnh thiên nhiên trữ tình, mộng mơ. Nàng đã trao
thân cho một người đàn ông lịch lãm đã từng trải qua bao sóng gió cuộc đời
tại cái khung cảnh thiên nhiên trữ tình ấy. Là người có sắc đẹp, nàng tự cho
mình cái quyền được đùa cợt tình cảm với người khác. Và rồi, nàng đã chết
dưới họng súng của Kazak, cái chết diễn ra bất ngờ nhưng có lẽ cô gái ấy sẽ
không hối hận vì bản thân đã được sống thật với cảm xúc của mình.Vào mùa
đông cuối cùng của Olia “có tuyết rơi, có nắng đẹp”. Như vậy, có thể thấy
cuộc sống cũng như cái chết của Olia đều có sự xuất hiện của thiên nhiên như
để minh chứng cho một tâm hồn người thiếu nữ trong sáng, tươi vui và tràn
ngập sự sống. Thậm chí ngay cả trong bức chân dung trên mộ Olia, ánh mắt
trong trẻo, vui tươi của Olia dường như đã làm lu mờ, xua đi sự ảm đạm của
những tấm bia đá trong nghĩa trang vào những ngày mùa đông lạnh lẽo.
Hình ảnh hơi thở nhẹ kết thúc câu chuyện, một câu kết thúc rất gợi hình:
“Giờ đây cái hơi thở nhẹ ấy lại một lần nữa lan đi trong thế gian này, trong
bầu trời đầy mây này, trong làn gió xuân giá lạnh này”[4-tr.201]. Hình ảnh
Olia đã trở thành yếu tố cân bằng, khẳng định sức sống bất diệt, vượt qua cái
chết của tuổi trẻ. Olia là hiện thân cho vẻ đẹp của tuổi thanh xuân, với những
vẻ đẹp trong trẻo, hồn nhiên, vui tươi, ngời sáng, tràn đầy sức sống và thánh
thiện. Không ai có thể ngờ rằng, sự thẳng thắn, mạnh mẽ, bồng bột của một
cô gái đang còn ở lứa tuổi học trò lại có thể trở thành lí tưởng sống cho bà
giáo viên chủ nhiệm của nàng. Những vẻ đẹp ấy lại có thể mang đến ý nghĩa
lớn lao, mang đến sức sống cho tất cả mọi người.
Khác với những nhân vật nữ trong các truyện ngắn khác, nhân vật Naxtia
trong truyện ngắn Cuộc đời tươi đẹp hiện lên là một người con gái có ngoại
hình đẹp, nhưng khác biệt ở chỗ đó là vẻ đẹp tháo vát, chất phác, đầy sức
sống của một cô gái nghèo bị chèn ép, không có nơi bấu víu. Với hoàn cảnh
khó khăn, không biết nương tựa bấu víu vào ai, Naxtia phải tìm cách để đứng
vững, để sống sót và tự bảo vệ mình trước cuộc sống đói nghèo. Ở truyện
13



ngắn này, người phụ nữ đã xưng “tôi” và kể lại cuộc đời mình. Bunin đã cho
người đọc tự hình dung về người phụ nữ qua ngôn ngữ, hành động, những
biến cố trong cuộc đời nàng và qua những diễn biến tâm trạng của nàng. Sau
khi chứng kiến bố bị bắt đi đày, nàng đã nghĩ: “Rõ ràng là sống với lẽ phải là
không được rồi, và rõ ràng là phải tính toán thận trọng mới được” [4-tr.52].
Nàng đã suy nghĩ tới việc phải mau mau lấy chồng, nàng thích một người, rất
thích, nhưng anh ta nghèo chẳng kém gì nàng và cuối cùng nàng đã quyết
định từ bỏ người mình thích để lấy một người bạn của bố trong thành phố:
“Tôi nghĩ đi nghĩ lại rồi bằng lòng, mặc dù dĩ nhiên tôi biết là ông ta đã luống
tuổi, rượu chè, tính hay nóng nảy, nó quả đáng là một ông ăn cướp..”[4-tr.52].
Nàng lấy chồng và trở thành một thị dân trong thành phố. Với nàng, tiền là
thứ duy nhất đáng được chú ý, nhưng cuộc sống với ông chồng ấy khiến nàng
khổ sở, mang tiếng là thị dân nhưng lại nghèo chẳng hơn gì nông dân. “Ờ,
may mờ trời cũng còn thương tôi, đem ông ấy đi”[4-tr.53] sau 9 năm khổ sở.
Cuộc đời Naxtia là những chuỗi ngày khó khăn và đầy biến động, cha bị đi
đày, mất cả ruộng bắp cải sắp đến mùa thu hoạch. Sau khi cha bị đi đày, nàng
quyết định lấy một ông chồng đã luống tuổi, tưởng như sẽ được hưởng hạnh
phúc với cuộc sống giàu sang. Thực chất lại không phải như vậy, người nàng
lấy là một người đàn ông mê rượu chè, tính nóng nảy, nghèo. Người đàn ông
ấy đã đeo bám người phụ nữ này suốt 9 năm trời. Tên truyện ngắn là Cuộc
đời tươi đẹp, chính nhân vật cũng tự nhận cuộc đời mình tươi đẹp và xưng
“tôi” kể lại, nhưng thực chất đó là cuộc sống khổ sở, đầy nỗi đau. Trong
truyện hiện lên là nàng Naxtia bản lĩnh, tháo vát nhưng khá tàn nhẫn: Nàng đã
làm ngơ trước tình yêu của cậu công tử tàn tật mới qua tuổi 14, tên là Nikanor
Matvêits, làm ngơ trước lời van xin của chàng trai đó. Chàng công tử đó mê
Naxtia, thậm chí còn cho Naxtia số tiền mà mẹ cậu cho bao năm qua với điều
kiện cô hôn chàng một cái. Nàng tàn nhẫn tới mức bình thản trước lời đe dọa
sẽ tự tử của cậu và nàng vẫn rời khỏi nhà chủ, mở quán rượu và xây dựng một
cuộc sống mới. Naxtia còn ngăn cản con trai bà yêu Phenka - một cô gái theo

bà nghĩ đó là “con đĩ trăm thằng”. Sau đó, Naxtia được làm mối cho một ông
góa vợ nhưng ông này yêu cầu bà phải từ bỏ đứa con trai của mình và Naxtia
đã nhẫn tâm đuổi con trai của mình là Vania đi để có thể thực hiện cuộc hôn
nhân này. Đằng sau cái giọng kể lạnh lùng ấy chỉ là vỏ bọc để giấu đi sự khổ
14


đau của cuộc đời người phụ nữ. Đuổi con đi để cưới một người đàn ông góa
vợ có điều kiện, nhưng Naxtia vẫn là người mẹ đầy yêu thương dành cho
con của mình. Điều đó được thể hiện qua chi tiết: “còn tôi, tuy vốn không
phải người mau nước mắt mà đã phải tuôn trào nước mắt. Ngày hôm trước
khóc, ngày hôm sau khóc, cứ nghĩ làm sao nó có thể nói với mình những lời
lẽ như vậy, thế là lại không cầm được nước mắt” [3- tr.95]; “Tôi nhìn, nhìn
mãi, nghe ngóng rồi đi ra. Và một nỗi buồn khôn tả xâm chiếm lòng tôi! Tôi
cố ăn cho xong bữa chiều, dọn dẹp bàn ăn, tắt đèn...Tôi không sao ngủ được
và cứ mãi như thế, nằm mà toàn thân rung lên”; “Thế nhưng đôi lúc tôi cũng
thấy nhức nhối trong tim(...) cũng lại có lúc tôi buồn nhớ đến thằng Vania”
[3-tr.98]. Mặc dù Naxtia đuổi con đi để thực hiện cuộc hôn nhân đầy toan
tính với ông chồng khá giả, nhưng trong bà vẫn có tình yêu thương con da
diết, khi một mình lại chan chứa nước mắt khóc thầm, do hoàn cảnh đã bắt
bà phải lựa chọn từ bỏ đứa con của mình. Chính cuộc sống khắc nghiệt,
nghèo khổ đã đẩy người phụ nữ ấy tới sự lạnh lùng, tới những lựa chọn,
những mong cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nói đến Bunin, nói đến người phụ nữ, chúng ta không thể không kể đến
truyện ngắn Natali. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công
hình tượng hai nhân vật nữ: Natali và Xônhia. Bên cạnh đó, nhà văn cũng
khắc họa thành công nhân vật “tôi” trong mối quan hệ tình cảm với hai nhân
vật nữ. Những cảm xúc tình yêu hay những dục vọng xác thịt đều được tái
hiện qua mùa hè năm ấy. Xônhia hiện lên là một người quyết liệt chiếm giữ
tình cảm của chàng trai. Đối lập với Xônhia lại là hình ảnh cô nàng Natali

xinh đẹp, nhẹ nhàng và dịu dàng. Ở nhân vật “tôi” đối với hai người con gái
này lại có những cảm xúc hoàn toàn khác nhau. Đối với Xônhia chỉ xuất hiện
tình yêu xác thịt, đắm đuối và mệt nhọc mỗi đêm nhưng đối với Natali thì
khác, nhân vật “ tôi” dành sự quan tâm của mình đối với Natali, theo dõi từng
cử chỉ cũng như từng bước đi của Natali và giữa họ tồn tại tình yêu trong sáng
nhưng cũng rất đau đớn, bởi Natali biết được người con trai mình yêu đang
trong mối quan hệ song song với một người con gái khác. Ở nhân vật “tôi”
này xuất hiện thứ ý nghĩ muốn được kết hôn với Natali, nhưng hằng đêm
nhân vật “tôi” này vẫn chìm đắm trong những ân ái xác thịt với Xônhia. Nhà
văn đã tạo nên thành công cho tác phẩm khi xây dựng được những nhân vật
15


đều đẹp và hết sức quyến rũ, họ là những cô gái trẻ trung và rất thu hút ánh
nhìn, sự để tâm của mọi người xung quanh.
Hầu hết trong các truyện ngắn của mình , Bunin đã xây dựng những
người phụ nữ luôn bị đẩy vào những thái cực cảm xúc trái ngược nên họ có
những hành động khó hiểu. Cụ thể, trong truyện ngắn Say nắng hiện lên một
thiếu phụ mà ở nàng mọi nét đều rất có duyên. Truyện ngắn này kể về câu
chuyện tình yêu ngắn ngủi nhưng tự nhiên giữa chàng trung úy với người
thiếu phụ. Câu chuyện tình yêu này diễn ra và kết thúc rất nhanh chóng, chỉ
vỏn vẹn trong vòng một ngày, từ trưa ngày hôm trước và kết thúc vào sáng
ngày hôm sau. Nàng đã tình nguyện tiến tới cuộc tình chốc lát với chàng trung
úy trẻ, để rồi hôm sau lại quay trở về với cuộc sống thường ngày của mình mà
không để lại cho chàng trung úy ngay cả cái tên và nàng tự gọi đùa mình là
một “người đẹp không quen biết”. Ban đầu, họ chỉ tình cờ gặp nhau và giữa
họ chỉ xuất hiện những đam mê về thể xác chứ không hề có tình yêu. Dường
như họ chỉ coi đó là giải trí, người phụ nữ còn không hiểu tại sao mình lại có
thể đi theo chàng trai và ở cùng chàng trai một đêm. Nhưng sau đó tình yêu
bất ngờ trỗi dậy - người ta gọi đó là say nắng, nhưng chính cái say nắng ấy lại

ám ảnh anh sĩ quan trẻ tuổi. Chàng trung úy ấy đã yêu người thiếu phụ, yêu
một cách si mê, say đắm. Chính sự ra đi của người thiếu phụ ấy đã khiến trái
tim chàng trai tan nát, để lại chàng trung úy một trái tim đầy đau khổ với
những thiếu hụt và trống trải trong tâm hồn. Dường như, sự gặp gỡ tình cờ
giữa chàng trung úy và người thiếu phụ, phải chăng chỉ là cái cớ để Bunin
diễn tả sự phong phú trong thế giới nội tâm của con người. Có lẽ Say nắng
chính là truyện tình ấn tượng và bất ngờ nhất của Bunin, ở đó người đọc ngạc
nhiên, bàng hoàng về một tình yêu trỗi dậy chỉ sau một lần gặp gỡ và ra đi sau
một đêm gần gũi.
Hay hình tượng một người phụ nữ nghèo nàn, chất phác trong truyện
ngắn Những tấm danh thiếp. Nàng đã có chồng, là một người hiền lành, tốt
bụng nhưng không thú vị và nàng không hề yêu chồng mình. Khi nàng trò
chuyện với nhà văn lừng danh, nàng đã châm thuốc hút một cách dũng cảm,
rít những hơi nhanh theo kiểu phụ nữ. Do tác dụng của rượu, khuôn mặt nàng
đỏ ửng lên, đôi môi cũng hồng hào, cặp mắt mơ màng. Nàng đã đón nhận tình
yêu của nhà văn trẻ.Tình yêu của họ đã nảy sinh trên một chuyến tàu tốc
16


hành, ban đầu chỉ là những đam mê thấp hèn, sự đùa cợt, nhưng đến khoảnh
khắc phải chia li, chàng đã nhận ra tình cảm của mình.
Trong truyện ngắn Ngày thứ hai chay tịnh, Bunin cũng khắc họa thành
công hình tượng về một cô tiểu thư giàu có đã dứt khoát gạt bỏ về câu chuyện
tương lai, nàng luôn dửng dưng, lạnh lùng với anh chàng bảnh trai ấy. Dường
như nàng là một cô gái chẳng thiết cái gì cả, bởi những lần chàng trai tặng cô
hoa, socola và những quyển sách thì nàng chỉ chìa tay ra cho chàng trai hôn
rồi nói cám ơn. Nàng được xây dựng với vẻ đẹp: “khuôn mặt nàng ngăm
ngăm màu hổ phách, mớ tóc nàng đẹp tuyệt vời mà lại có phần dữ dội vì vừa
đen lại vừa rậm, đôi hàng lông mày của nàng vừa mềm mại vừa bóng lên, đôi
mắt đen, miệng nàng quyến rũ với đôi môi đỏ thắm mịn màng” [4-tr.266].

Xuyên suốt truyện ngắn này là hình tượng của người phụ nữ với tình yêu
mỏng manh, thoáng chốc có thể tan vỡ và biến mất. Nhà văn đã xây dựng lên
hình tượng một cô tiểu thư giàu có luôn dửng dưng, lạnh lùng để rồi lại bất
ngờ chấp nhận hiến dâng cho chàng trai ấy với cuộc ái ân chớp nhoáng trong
một đêm và từ đó về sau không bao giờ gặp lại anh ta nữa
Bunin đã xây dựng hình tượng những người phụ nữ không muốn xưng
tên như “người thiếu phụ vô danh nhỏ nhắn”, “là người đẹp không quen biết”
như trong Say nắng. Trong truyện ngắn Ngày thứ hai chay tịnh, nhân vật
người phụ nữ cũng được gọi là “nàng” mà không hề có tên. Những người phụ
nữ trong truyện ngắn của Bunin còn rất đặc biệt, họ luôn có những tính cách
và những hành động khó lí giải, mỗi người đều có dấu ấn và cách sống riêng
nhưng đều là điển hình cho phụ nữ Nga với tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng
thương yêu và tràn đầy sức sống nhưng cũng đầy bản lĩnh. Viết về người phụ
nữ, Bunin luôn dành cho họ những tình cảm chân thành và thái độ trân trọng
qua những số phận và tính cách của mỗi nhân vật. Kết thúc truyện thường là
nỗi buồn man mác, nhưng trong truyện ngắn của Bunin, cái buồn ở đây là cái
buồn của tình yêu không trọn vẹn. Tình yêu và hạnh phúc trong truyện ngắn
của Bunin không bao giờ trọn vẹn, nó luôn bị khiếm khuyết, thậm chí là rơi
vào bi kịch, nhưng điều nhà văn hướng tới đôi khi không phải một cái kết có
hậu mà là những khoảnh khắc hạnh phúc được sống, được yêu. Nhân vật
trong truyện ngắn của I. Bunin thường đến với nhau một cách tình cờ và say
mê, chìm đắm trong tình yêu nhưng lại nhanh chóng rời đi, trở về cuộc sống
17


thường ngày của mình một cách lí trí, thậm chí có phần lạnh lùng. Mặc dù chỉ
là những cơn say nắng, những tình yêu đến bất chợt, nhưng lại để lại trong
trái tim họ những kí ức về tình yêu thật đẹp đẽ, ngọt ngào và để lại dấu ấn đặc
biệt trong tâm trí người đọc.
Xuyên suốt các truyện ngắn của Bunin là những câu chuyện tình yêu với

khát khao về một tình yêu đẹp, khát khao hạnh phúc cháy bỏng.Vì thế, giai
điệu tình yêu trở thành âm thanh chủ đạo trong truyện ngắn của Bunin, có sự
cộng hưởng và lan tỏa mạnh mẽ. Nhà văn biết làm thế nào để khơi dậy trong
nhân vật của mình sự say mê tình yêu, ham muốn tình yêu và một tình yêu
mãnh liệt, chung thủy. Đồng thời, nhà văn cũng đau lòng khi nói đến những
điều còn dang dở, buồn, thậm chí là bi kịch của tình yêu. Đắm chìm trong
những truyện ngắn về tình yêu của Bunin là nỗi buồn và sự chia ly. Mỗi câu
chuyện lại mang trong mình những sắc thái tình yêu khác nhau. Chẳng hạn
như cuộc tình thoáng qua trong truyện ngắn Những tấm danh thiếp; mối tình
thực dụng trong Chiếc cốc đời, Những lối đi dưới hàng cây tăm tối; bên cạnh
đó cũng có một tình yêu ngây ngất như Hơi thở nhẹ. Những khoảnh khắc
hạnh phúc trong tình yêu của các nhân vật thường rất ngắn ngủi và hầu hết
quãng đời còn lại của họ chỉ sống trong nỗi nhớ của những kí ức cũ. Với họ,
hạnh phúc trong tình yêu là điều quan trọng nhất. Bởi vậy, người phụ nữ trong
truyện ngắn của Bunin luôn mang trong mình khát khao hạnh phúc đến cháy
bỏng.
Bên cạnh những khát khao về hạnh phúc ấy, Bunin cũng xây dựng nên
những nhân vật mang trong mình những nỗi buồn không tên với những nỗi u
sầu mà chỉ đọc tác phẩm mới có thể cảm nhận được. Tóm lại, Bunin đã thể
hiện được cái nhìn chiều sâu về con người, đó là những con người thiên về
cảm xúc, thường đứng trước nhiều tình huống cảm xúc bất chợt khiến người
đọc cũng như nhân vật rơi vào trạng thái ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Người phụ
nữ được hiện lên với tất cả những điều chân thật nhất. Nhà văn đã nắm bắt
được tâm lí của người phụ nữ nên những nhân vật nữ trong truyện ngắn của
ông đều gắn với tình yêu, dưới con mắt của những chàng trai, để họ tự bộc lộ
được những vẻ đẹp cũng như góc khuất trong tâm hồn mình.
1.3. Hình tượng người nông dân
Không phải ngẫu nhiên mà người đọc gọi Bunin là nhà văn của nông
18



thôn Nga. Nếu như Êxênhin được mệnh danh là “nhà thơ cuối cùng của đồng
ruộng Nga” thì Bunin lại thành công khi viết về thể loại truyện ngắn . Vốn
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nga tươi đẹp, hẳn Bunin phải là người am
hiểu rất rõ về đời sống, con người Nga, trong đó phải kể tới những người
nông dân nghèo nhưng hiền lành, chất phác.
Với truyện ngắn Meliton, nhà văn đã phác thảo được chân dung của
người nông dân Nga độc thân, cô đơn trong khu rừng già với “đôi mắt màu
xanh lam mờ nhạt, vóc người bác to cao, thân hình bác gày gò, xương xẩu.
Cặp lông mày rậm, xám, và cả bộ ria màu xám tua tủa lan ra cả hai bên má
giống như người để râu quai nón, tất cả đều khiến bác có vẻ khắc nghiệt” [4tr.40]. Nhưng cuộc sống của bác lại là cuộc sống hiền lành, ẩn dật được thể
hiện qua chi tiết: “ Thế nhưng cái đầu hói, cặp mắt màu ngọc lam và chiếc áo
sơ mi nông dân sạch sẽ của bác thường xuyên cho thấy bất kỳ lúc nào bác
cũng sẵn sàng lăn mình “dưới các tượng thánh” [4-tr. 40]. Ngay từ ngoại hình
đã khiến người đọc thấy được sự cô đơn, khổ cực của một người đàn ông
không vợ, không con cái. Cô đơn cùng cực là thế, nhưng lúc nào bác cũng tỏ
ra bình thản để cố giấu nỗi buồn và người nông dân ấy đã sống một cuộc đời
thanh bạch, giản dị, nghèo nàn.
Khác với truyện ngắn Meliton, truyện ngắn Cỏ gày đã thể hiện được đời
sống nội tâm phong phú và những khát vọng của nhân vật. Ngay từ những
dòng mở đầu, Bunin đã khắc họa được hình ảnh một người nông dân nghèo
khổ, phải đi làm thuê làm mướn ngay cả khi ốm đau bệnh tật. Vẻ khắc khổ
được thể hiện ngay từ ngoại hình : “rất khẳng khiu, tay dài, khung xương nói
chung to nhưng đôi vai thì lại hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có
vẻ yếu ớt”; “đầu bác không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhưng
thưa, bộ mặt bác phờ phạc, mũi thanh, xương xương, đôi mắt xanh lơ, ươn
ướt, bộ râu đang ngả bạc và nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm
gày rộc” [4-tr.116]. Trong khi đấu tranh để giành giật sự sống, bác nông dân
Averki đã trôi dòng kí ức: “Ở lưng trời trong vắt, một vằng trăng khuyết mảnh
như sợi chỉ lung linh trên khoảng đồng bằng thoai thoải đen ngòm bên kia

sông. Ở thôn xóm xa xa, các cô gái đang véo von, ngân dài giọng hát một bài
ca tán tụng cổ xưa” [4-tr.124]. Tất cả đã làm tăng nghị lực sống của bác nông
dân yếu ớt đang phải đối mặt với cái chết.
19


Như vậy có thể thấy, Bunin đã khắc họa thành công những người nông
dân nghèo khổ nhưng hồn nhiên và đôn hậu. Hai nhân vật Meliton và Averki
qua ngòi bút của Bunin đã trở nên sống động trong trí tưởng tượng của người
đọc, họ biểu tượng cho con người Nga, tâm hồn Nga.
1.4. Hình tượng những con người nhỏ bé
Con người nhỏ bé là tầng lớp dưới đáy xã hội, là sản phẩm, đồng thời là
nạn nhân của xã hội mà chế độ phong kiến bị chủ nghĩa tư bản lấn át. Viết về
hình tượng những con người nhỏ bé không còn là điều xa lạ đối với Bunin.
Trong nền văn học Nga, không chỉ có Bunin, mà Puskin, A. Chekhov cũng
dành sự quan tâm của mình đối với hình tượng những con người nhỏ bé.
Bunin viết về những thân phận nhỏ bé, yếu ớt và ít có tiếng nói trong xã hội.
Mặc dù ông dành cho họ sự nâng niu, trân trọng, xót xa, nhưng đó không phải
sự thương xót đơn thuần. Nhà văn không chỉ nhận thấy được những thiệt thòi,
khổ đau của nhân vật mà còn thấy được vẻ đẹp ẩn giấu sau vẻ ngoài xù xì,
lặng lẽ của họ.
Trong truyện ngắn Meliton, nhà văn đã xây dựng nên một con người
buồn bã, cô đơn, lặng lẽ và đáng thương: “Bác làm ngay ra vẻ bình thản,
dường như để cố giấu nỗi buồn thường có trong đôi mắt xanh lam mờ nhạt
của mình”[4-tr.40]. Nỗi đau của bác Meliton là nỗi đau của một kẻ cô đơn khi
sống một mình. Nỗi đau ấy được thể hiện qua “đôi gò má nhăn nheo”, “đôi mí
mắt sụp xuống” và nỗi đau ấy còn ẩn giấu qua tiếng thở dài, trong hình ảnh
“đầu cúi xuống, từ tốn vò dúm thuốc lá”, trong giọng hát “nghe buồn rượi”
của nhân vật. Bác là một người cô đơn, cả cuộc đời chỉ quẩn quanh chăm sóc
mảnh rừng cho điền chủ với sự lễ phép và cung phụng. Nhà văn không đi sâu

vào cuộc sống, vào thân phận nghèo hèn của bác, mà nhà văn hướng người
đọc về quá khứ, thấy được thời gian trong quá khứ cũng như sự hoài niệm của
nhân vật qua những lời kể đứt đoạn, bình thản của nhân vật về quá khứ:
“Trước cũng có vợ, nhưng lâu rồi, chả nhớ được ; “Cũng có cả con cái nữa
đấy ạ, mà Chúa cũng đã đem chúng đi từ hồi nào ấy rồi..”[4-tr.41]. Quãng
thời gian trong quá khứ của bác Meliton còn được thể hiện qua lời hát than
thở về những khu vườn xanh tươi, về mối tình xưa, những vòng hoa tết không
biết để cho ai. Những chi tiết trên đã hé mở cuộc sống trong quá khứ của bác
Meliton, hé mở cho người đọc thấy được đời sống nội tâm phong phú của
20


×