Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TIEU LUAN TRIET LI KINH DOANH THACH LONG HAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.73 KB, 12 trang )


Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN QUẢN TRỊ KINH DOANH
------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
(Trình độ sau đại học)

Đề tài:
“Triết lý kinh doanh và tác dụng của triết lý kinh doanh trong sự
phát triển của Công ty TNHH Long Hải”

Người thực hiện : Hoàng Thị Kim Dung
Mã học viên
: CH 240689
Lớp
: VMBA 19

Hà Nội – 2015

2

Lớp : VMBA 19


Tiểu luận triết học


GV: TS. Phạm Văn Sinh

LỜI MỞ ĐẦU
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng trước
ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh này, bộ phận quan
trọng nhất là nền kinh tế tri thức - có thể nói là hết sức cơ bản của thời đại thông tin. Đặc biệt
là trong thập niên 90 các thành tựu về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, thực
tế ảo, thương mại tin học …..đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế
thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức.
Ta có thể thấy vai trò không thể thiếu của các tri thức khoa học công nghệ trong
tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội hiện đại. Với sự phát triển của các lĩnh vực đó thì
nó càng thể hiện rõ được vai trò của nó. Tri thức khoa học, công nghệ luôn khẳng
định được vai trò chủ đạo của nó với sự phát triển đi lên của các lĩnh vực trong xã
hội hiện đại ngày nay. Việc ứng dụng các thành tựu của khoa học vào mục tiêu phát
triển là một điều tất yếu không thể thiếu vì những gì mà KHCN đem lại là hết sức to
lớn, góp phần cho sự phát triển nhanh chóng và hiệu quả.
Ngân hàng là một tổ chức có vai trò huyết mạch trong hệ thống tài chính của một đất
nước. Trong quá trình cạnh tranh và hội nhập các ngân hàng đang có nhiều nhu cầu về dịch vụ
kinh doanh ngân hàng và công nghệ, chính điều này đã giúp các ngân hàng có được sự tổng
quan cả về nghiệp vụ ngân hàng và kỹ năng công nghệ nhằm cung cấp thoả mãn mọi nhu của
khách hàng. Ngày nay việc ứng dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại là vấn đề tất
yếu, vấn đề sống còn của các ngân hàng nhằm để nâng cao năng lực hoạt động, năng lực cạnh
tranh của các NH trong quá trình hội nhập. Quá trình hội nhập của nền kinh tế sẽ diễn ra sâu
rộng hơn bao giờ hết. Quá trình này mở ra nhiều cơ hội cho hoạt động ngân hàng trong việc
tiếp cận với những kiến thức, kinh nghiệm hoạt động ngân hàng hiện đại, tiếp cận với những
thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, mở ra khả năng phát triển các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng phong phú dựa vào những thành tựu công nghệ đó. Tuy nhiên, song song
với nó còn có những thách thức to lớn: sự tham gia thị trường nội địa của các ngân hàng nước
ngoài với tiềm lực công nghệ to lớn sẽ đặt các ngân hàng Việt Nam trước sự cạnh tranh mạnh
mẽ.

Chính vì những yếu tố trên, em đã lựa chọn đề tài: “Luận chứng vai trò của hiện đại
hóa công nghệ ngân hàng tới sự phát triển ngành ngân hàng” để thấy được rõ hơn vai trò
của công nghệ ngân hàng tới sự phát triển của ngành ngân hàng và Việt Nam cần làm gì để
Ngành ngân hàng tài chính hội nhập được với thế giới.
CHƯƠNG I- LÝ LUẬN CHUNG CỦA TRIẾT HỌC VỀ TRIẾT LÝ KINH DOANH

1.1- Khái niệm về triết học:
1.2-

Khái niệm về triết lý:

1.3-

Triết lý kinh doanh:
1.3.1 Nội dung:
1.3.2 Hình thức:
1.3.3 Cơ sở:
3

Lớp : VMBA 19


Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh

1.3.4 Vai trò của triết lý kinh doanh trong phát triển doanh nghiệp:
1.3.5 Triết lý kinh doanh dưới các góc nhìn:
1.1.1. Khái niệm về tri thức
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì lúc đó có

tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến những thập kỷ gần đây tri
thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cặp nhiều. Vậy tri thức
là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo
và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nó(hiểu biết sáng tạo) vào việc tạo ra cái mới nhằm
mục đích phát triển kinh tế -xã hội.
Tri thức là hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới. Nói đến tri thức là nói đến
học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình thành và phát triển của ý thức có
liên quan mật thiết với qúa trình con người nhận biết và cải tạo thế giới tự nhiên. Con người
tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý thức thật cao, càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo
thế giới có hiệu quả hơn. Tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên. Nhấn mạnh tri thức
là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức có nghĩa là chống lại quan điểm giản đơn coi ý
thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý chí. Quan điểm đó là biểu hiện chủ quan, duy ý chí của sự
tưởng tượng chủ quan. Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình cảm, ý chí. Ngược lại
nếu tri thức biến thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con người hoạt đọng thì tự nó không có
vai trò gì đối với đời sống hiện thực.
Tóm lại, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức, ý thức bao gồm những yếu tố tri
thức và những yếu tố tình cảm, ý chí trong sự liên hệ tác đọng qua lại nhưng về căn bản ý thức
có nội dung tri thức và luôn hướng tới tri thức.
1.1.2- Vai trò của tri thức khoa học đối với sự phát triển của xã hội.
Khoa học hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất và hoạt động thực tiễn. Vai trò
của khoa học ngày càng tăng lên đối với sự phát triển của xã hội.
Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vai trò của nó thể hiện ở
chỗ khoa học trở thành điểm xuất phát, ra đời, những nghành sản xuất mới, công nghệ mới,
nguyên liệu mới. Khoa học trở thành yếu tố tri thức không thể thiếu được của người lao động,
biến người lao đọng thành người điều khiển kiểm tra quá trình sản xuất. Đội ngũ các nhà khoa
học, kỹ thuật viên trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ngày một đông. Bản thân khoa học
cũng trở thành một lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất với quy mô ngày càng lớn.
Cùng với khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, các khoa học xã hội như kinh tế
học, luật học, xã hội học... cũng không ngừng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong đời

sống xã hội. Khoa học không chỉ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn giúp con
người có đầu óc tư duy sáng tạo, tầm nhìn sâu rộng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các
nhà lãnh đạo vì phải nắm được cơ sở khoa học thực tế thì mới hoạch định được chính sách,
đường lối phát triển của một tổ chức hay một quốc gia.
Tóm lại, có khoa học là bạn đồng hành thì xã hội ngày càng văn minh tiến bộ.
Vai trò của tri thức đối với Kinh tế-Kinh tế tri thức
Nền kỉnh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng, khai thác,
sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải.
4

Lớp : VMBA 19


Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh

Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó:
-Tri thức khoa học-công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu và phát triển
rất mạnh
-Nguồn vốn quan trọng nhất, quý nhất là tri thức, nguồn vốn trí tuệ.
-Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát triển.
-Nền kinh tế mang tính học tập.
-Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính.
-Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng
động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa học - công
nghệ và toàn cầu hoá, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát triển và sẽ trở thành
một xu thế quốc tế lớn trong một, hai thập niên tới.
Sự xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức.

Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ yếu.
Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng tiền bạc,
nguyên vật liệu, nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào việc xử lý và sử
dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh. Cách tốt nhất để tăng
năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có được, sử dụng vì mục đích thương
mại và những kiến thức này cần được phát triển không ngừng.
Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và các công ty
công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình, mà còn nằm trong
những tài sản vô hình, như tri thức và các bằng sáng chế. Để trở thành một công ty được dẫn
dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng
giá trị kinh doanh. Vốn trí tuệ của công ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân
viên và công nhân cũng như khả năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp sản
xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh. Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vô
hình của các công ty công nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của các tài sản
vật thể của các công ty đó, như các toà nhà hay thiết bị. Ví dụ như các tài sản vật thể của công
ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị được vốn hoá trên thị truờng của
công ty này. Phần lớn là vốn trí tuệ. Sau hai mươi năm thành lập, số nhân viên công ty tăng 6
nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần, 1/10 số nhân viên trở thành triệu phú. Nguồn vốn con
người là một thành tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri thức.
Nền kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh. Đó là những sản
phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử dụng có thể hành động một
cách hiệu quả hơn. Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản phẩm mới
dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết cách sử dụng những thông tin về dinh
dưỡng. Số lượng ka-lo và chất béo được in lên hoá đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó
trước khi khách đặt hàng. Thậm chí có những sản phẩm thông minh vừa có thể truyền đạt
thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được thông tin.

5

Lớp : VMBA 19



Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh

Vốn tri thức- Vai trò của nó trong nền kinh tế tri thức
Vốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích sinh
lợi(tăng thêm giá trị).
Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất. Trong văn minh nông nghiệp thì
sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn, đất đai và nhất là
sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách là những yếu tố quan trọng trong sự phát triển
kinh tế-xã hội, góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử. Còn
trong kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển nền kinh tế-xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền
tệ, đất đai và dựa trên lao động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức.
Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn
tiền tệ và đất đai.
Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Nước Mỹ
nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định với
tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức như các ngành công
nghệ thông tin, viễn thông, vũ trụ, đầu tư, ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm…
Đồng thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng
tri thức cao. ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang
lại giá trị gia tăng cang lớn, tỷ xuất lợi nhuận càng cao.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp. Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức, các nhà quản lý có trình độ
cao, các công nghệ mới.
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước
đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội vừa là thách
thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Các quốc gia kém và

đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức, thông qua tri thức hoá các
ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để
nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát triển.
Vai trò tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri thức là có khả
năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực, đúng đắn. Điều này
rất quan trọng, một đất nước rất cần những con người như vây để điều hành công việc chính
trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự
chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con ngươì. Đại hội nhấn mạnh:”Phát
huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt
đông”chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách. Chúng ta cần có những
giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :
Tuyển chọn những người học rộng tài cao, đức độ trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa,
thuộc các lĩnh vực, tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu để bố
trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà
nước với những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi ích.
Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một hệ
thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp
tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tĩên. Hợp nhất các viện nghiên cứu
chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại học và các công ty, xí nghiệp. Các cơ
quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình, kế hoạch và
kinh phí dựa trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
6

Lớp : VMBA 19


Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh


Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng trách và các nhà
khoa học đầu nganh của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung tâm khoa học lớn của quốc gia,
liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch, sự tham gia của các
thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và khoa học-công nghệ quốc gia về những ý kiến tư
vấn, khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển
giáo dục-đào tạo. Phát triển khoa học –công nghệ, cách tuyển chon và giao chương trình đề
tài, giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa, giáo trình, làm chủ nhiệm
chương trình, đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt, thẩm định nghiệm thu các chương
trình, đề tài khoa học cấp Nhà nước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà khoa
học, dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn, những khuyến nghị xác thực có
giá trị với Đảng, Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ
vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thoát khỏi tình
trạng nghèo và kém phát triển.
Vai trò tri thức đối với văn hoá-giáo dục
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá -giáo dục của một quốc gia. Nó giúp con người
có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức , ý thức của con người được nâng cao. Và
do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh. Có những hiểu biết về tầm quan
trọng của giáo dục. Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
2.1. Khái quát thành tựu của hệ thống ngân hàng những năm qua
Hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển toàn diện, bám sát mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Hệ thống ngân hàng 2 cấp đã được hình thành rõ nét. Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) đã có bước củng cố và đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức, thực
hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về các mặt hoạt động, tiền tệ tín dụng, tạo nền tảng pháp lý
tương đối đồng bộ cho các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động an toàn, hiệu quả; thực hiện có
hiệu quả chức năng của Ngân hàng Trung ương (NHTƯ), không ngừng đổi mới và hoàn thiện
cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách quản lý ngoại hối theo thể

chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; không ngừng hoàn thiện và phát triển hệ
thống thanh toán, thực hiện tốt vai trò trung tâm thanh toán quốc gia, tạo được lòng tin của
dân chúng đối với hệ thống tiền tệ quốc gia; giữ được ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Hệ thống các TCTD đã phát triển đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình dịch vụ;
quy mô hoạt động và chất lượng hoạt động ngày càng tăng; năng lực tài chính, năng lực quản
trị điều hành, năng lực cạnh tranh, trình độ ứng dụng công nghệ thông tin được nâng lên; các
TCTD đã cơ bản thực hiện tốt vai trò trung gian, huy động và phân bổ nguồn vốn có hiệu quả,
cơ bản đáp ứng được nhu cầu vốn và tiện ích của nền kinh tế và xã hội.
2.2. Vai trò của Khoa học công nghệ tác động tới sự phát triển của ngành ngân hàng
Đóng góp vào những thành tựu của hệ thống ngân hàng trong những năm qua, không
thể không kể đến vai trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng trong
các lĩnh vực hoạt động của ngành Ngân hàng. Ngày nay việc ứng dụng và phát triển các dịch
vụ ngân hàng hiện đại là vấn đề tất yếu, vấn đề sống còn của các ngân hàng nhằm để nâng cao
năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh của các NH trong quá trình hội nhập.

7

Lớp : VMBA 19


Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh

2.2.1. Xu thế tất yếu của việc áp dụng Khoa học công nghệ vào ngành ngân hàng- tài
chính.
Thực tế cũng cho thấy rằng dịch vụ ngân hàng mang tính đồng nhất rất cao, do đó vấn
đề quan trọng là ngân hàng nào biết tạo ra sự khác biệt trong dịch vụ, tính tiện ích cao thì ngân
hàng đó sẽ có lợi thế mạnh trong cạnh tranh. Để ứng dụng được các dịch vụ hiện đại thì bắt

buộc phải thực hiện trên nền tảng công nghệ hiện đại. Điều đó, bất cứ một nhà quản lý, nhà
quản trị ngân hàng nào cũng biết, cũng hiểu, nhưng để thực hiện được điều đó không phải là
vấn đề đơn giản, bởi vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện.
- Xác định đúng tầm quan trọng của công nghệ và việc hiện đại hoá công nghệ là một trong
những điều kiện cơ bản để hướng tới việc đảm bảo các chuẩn mực quốc tế của các NHTM
Việt nam trong quá trình cạnh tranh và hội nhập . Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là điều
tất yếu phù hợp với tiềm lực tài chính của ngân hàng, phù hợp với mặt bằng chung về công
nghệ của đất nước, đảm bảo xu thế chung của khu vực và quốc tế.
- Ngày nay các NHTM cạnh tranh với nhau theo hướng phát triển đa dạng hoá các dịch vụ
ngân hàng đi kèm với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, mà chất lượng dịch vụ ngân hàng
luôn phụ thuộc và trình độ công nghệ ngân hàng. Nếu trình độ công nghệ ngân hàng không
tiên tiến , hiện đại thì chất lượng dịch vụ cũng không thể nâng cao được. Do đó một xu thế tất
yếu là các NHTM phải ứng dụng công nghệ tiên tiến để phát triển và nâng cao chất lượng dịch
vụ ngân hàng.
- Việc phát triển hệ thống thanh toán nội bộ các ngân hàng, thanh toán liên ngân hàng, phát
triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế và thương mại điện tử;
vấn đề bảo mật, an ninh, an toàn các hệ thống thông tin trong ngành Ngân hàng cũng chính là
tiền đề và là cơ sở pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ mới phát triển.
Có thể nói, công nghệ thông tin được xem như một xu hướng chính trong hoạt động
ngân hàng hiện đại thập niên vừa qua, các giải pháp kỹ thuật công nghệ được lựa chọn là phù
hợp đã bảo đảm cho sự phát triển công nghệ tin học ngân hàng đúng hướng, là yếu tố giúp các
ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, chiếm lĩnh
thị phần bằng các thiết bị giao dịch tự động, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại; đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tăng vòng quay tiền tệ,
qua đó góp phần nâng cao hiệu quả đồng vốn xã hội.
2.2.2. Vai trò của công nghệ thông tin tác động tới sự phát triển của ngành ngân hàng
hiện nay.
Điều trước tiên có thể khẳng định rằng không có công nghệ mới, tiên tiến thì không
thể có các dịch vụ ngân hàng hiện đại được. Điều đó được thể hiện qua những dịch vụ mà
những ngân hàng đã, đang và sẽ áp dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động:

- Những dịch vụ ngân hàng điện tử phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong điều kiện bùng
nỗ thông tin như các dịch vụ: Phonebanking giao dịch ngân hàng qua điện thoại với tiện ích để
kiểm tra tài khoản, chuyển tiền, hỏi thông tin về lãi suất và tỷ giá hối đoái. Internetbanking
giao dịch ngân hàng trên Internet là một cách thức tiện lợi và an toàn, đi kèm với việc sử dụng
Internet ngày càng gia tăng thì càng có nhiều ngân hàng sử dụng các trang Web để cung cấp
sản phẩm và dịch vụ của mình hoặc tăng cường giao tiếp với khách hàng. Mobibanking giao
dịch ngân hàng di động. Ngày nay, ở hầu hết các các nước thị trường đang phát triển nhanh,
người ta sẽ sử dụng điện thoại di động nhiều hơn điện thoại cố định. Tất nhiên để các dịch vụ
này phát triển thì phải trên nển tảng công nghệ tiên tiến.
- Dịch vụ “ngân hàng trực tuyến” với những tiện ích vượt trội, khách hàng có thể mở tài
khoản ở một nơi nhưng thực hiện giao dịch ở bất kỳ chi nhánh nào thuộc hệ thống NHTM đó
8

Lớp : VMBA 19


Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh

trên toàn quốc. Với những tiện ích đó được khai thác áp dụng cho toàn bộ các sản phẩm
chuyển tiền, tiền gửi, tiền vay, đầu tư dài hạn vào giấy tờ có giá. Đây là những dịch vụ tiên
tiến đã được được đánh giá là hệ thống an toàn về chất lượng cung ứng dịch vụ, tiện lợi trong
giao dịch, hiệu quả trong kinh doanh, kinh tế trong đầu tư trong lĩnh vực công nghệ. Dịch vụ
“ngân hàng trực tuyến” là tiền đề cho sự phát triển của các dịch vụ thẻ hiện đang được phát
triển ở thị trường Việt Nam . NH cung cấp và hỗ trợ khách hàng sử dụng các phương tiện
thanh toán điện tử như thẻ thông minh (Smart card), máy ATM, máy POS v.v..
- Sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ là mốc đầu tiên đánh dấu sự phát triển về công nghệ với
hệ thống thông tin tích hợp và tập trung, đã chính thức được đưa vào sử dụng ở một số
NHTM, đóng một vai trò quan trọng cho phép NHTM ứng dụng và triển khai các sản phẩm

bán lẻ trên nền tảng công nghệ hiện đại. Hàng loạt tiện ích đã được đưa vào sử dụng như
chuyển tiền tự động có chu kỳ linh hoạt hơn với nhiều tính năng bổ trợ; chức năng đầu tư tự
động cho phép khách hàng thanh toán lãi, gốc tiền vay toàn phần và từng phần; chức năng
khoanh giữ tài khoản cho nhiều mục đích khác nhau, khách hàng không phải mở TK ký quỹ;
quản lý hạn mức tiền vay với tiện ích tạo hạn mức tiền vay cho không chỉ hệ thống ngân hàng
bán lẻ mà còn cho tất cả các sản phẩm khác có sử dụng hạn mức như tài trợ thương mại, kinh
doanh vốn.
- Song song với việc phát triển đa dạng hoá các dịch vụ là phải nâng cao chất lượng dịch vụ
khách hàng chính vì vậy mà các NHTM phải tiếp tục mở rộng phát triển các ứng dụng ngân
hàng tiên tiến, tăng cường khả năng quản lý qua việc cập nhật, cung cấp những thông tin trực
tuyến về thương mại và tín dụng ; quản lý các thông tin khách hàng, quản lý hạn mức,
v.v...một cách hữu hiệu. Với những yêu cầu về chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng
dựa trên toàn bộ thông tin được quản lý tập trung trên hệ thống và những thông tin khác được
cập nhật từ bên ngoài. Dựa trên hệ thống này, ngân hàng sẽ xem xét và đánh giá khách hàng,
qua đó thiết lập các hạn mức tín dụng cho từng khách hàng để vừa đảm bảo an toàn vừa bảo
vệ hiệu quả nhất lợi ích cho khách hàng. Ngoài hệ thống tính điểm và xếp hạng tự động, ngân
hàng còn có hệ thống quản lý mối quan hệ và đánh giá lợi nhuận do khách hàng mang lại. Dựa
vào những phân tích của hệ thống, ngân hàng đã và đang sử dụng để phân tích thị trường,
phân đoạn khách hàng và xây dựng những chính sách hợp lý cho từng thị trường mục tiêu,
từng nhóm khách hàng tiềm năng của mình.
Xét về động lực cạnh tranh trên thị trường, thì công nghệ có tầm quan trọng ra sao đối
với hoạt động ngân hàng?
Với việc tự do hóa cơ chế quản lý, thì công nghệ là phương tiện giúp các ngân hàng có thể
đánh bại các đối thủ cạnh tranh. Đối với các ngân hàng, ứng dụng công nghệ trong hoạt động
ngân hàng tạo ra những cơ hội giảm thiểu giấy tờ và nhân sự. Sự đổi mới công nghệ trong
hoạt động ngân hàng trước hết thể hiện trong các hệ thống chuyển tiền điện tử. Cấu phần chủ
yếu của hệ thống chuyển tiền điện tử là máy giao dịch tự động ATM, thiết bị ngoại vi tại điểm
bán hàng POS, trung tâm thanh toán bù trừ tự động ACH. Những thiết bị công nghệ này liên
quan tới khả năng tự động hoá trong giao dịch ngân hàng và theo đó khách hàng có khả năng
nhận được những sản phẩm dịch vụ tiện ích phù hợp với nhu cầu của mình. Có thể nói công

nghệ ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc cải thiện năng lực cạnh tranh và
tăng khả năng chiếm thị phần của các ngân hàng.
Chính vì vậy, trong chiến lược phát triển các TCTD, phát triển công nghệ ngân hàng có thể
được xem như khâu đột phá quan trọng trong hoạt động của các TCTD để ngành Ngân hàng
Việt Nam tận dụng được những lợi thế sẵn có, cải thiện hoạt động của mình dựa trên nền tảng
công nghệ thông tin do quá trình hội nhập đem lại và giành được lợi thế cạnh tranh quốc gia
và quốc tế.

9

Lớp : VMBA 19


Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh

2.2.3. Những yếu tố cần hoàn thiện để công nghệ ngân hàng ngày càng phát huy vai trò
mạnh mẽ hơn vào sự phát triển của ngành Ngân hàng- tài chính.
Thực trạng hiện nay cho thấy các ngân hàng đang trong quá trình ứng dụng công nghệ
có ba đặc điểm như sau:
- Mỗi ngân hàng có định hướng phát triển về dịch vụ và công nghệ riêng, chính vì vậy nên
chưa tạo sự liên kết giữa các ngân hàng trong phát triển dịch vụ nhất là các dịch vụ về thanh
toán thẻ.
- Vốn tự có của các ngân hàng thấp so với yêu cầu; quy mô và năng lực hoạt động mạnh yếu
khác nhau tuỳ vào khả năng tài chính khác nhau; do đó vốn thấp hoặc thiếu vốn là một yếu tố
quan trọng quyết định đến việc ứng dụng công nghệ của các ngân hàng.
- Việc ứng dụng công nghệ của các ngân hàng ở các mức độ khác nhau, tạo sự chênh lệch khá
cao về trình độ công nghệ ở một số ngân hàng.
Từ đó, để phát triển công nghệ, ứng dụng thành tựu của công nghệ ngân hàng mạnh

mẽ hơn vào sự phát triển của ngành ngân hàng tài chính, bản thân các ngân hàng, tổ chức tài
chính cũng như Nhà nước cần tập trung vào hoàn thiện các yếu tố sau:
Thứ nhất, đảm bảo mục tiêu - yêu cầu ứng dụng công nghệ:
NHTM Việt Nam đang trong quá trình cạnh tranh và hội nhập vì vậy phải nỗ lực phấn đấu để
đạt mục tiêu trở thành những NH mạnh về vốn, hiện đại về công nghệ, đa dạng hoá về sản
phẩm dịch vụ, đảm bảo hiệu quả cho ngân hàng và nền kinh tế, đây là vấn đề quan tâm hàng
đầu của các NHTM và cũng là mục tiêu phải đạt được .
Các NHTM phải đảm bảo bốn yêu cầu khi hiện đại hoá công nghệ: Một là đáp ứng tiện ích tối
đa cho khách hàng và cho nền kinh tế; đây là yêu cầu tiên quyết đầu tiên của NH. Hai là, khi
hiện đại hoá công nghệ, NH phải được nâng cao được năng lực cạnh tranh và có khả năng hội
nhập. Ba là, phát triển và ứng dụng công nghệ trên cơ sở điều kiện và khả năng, đặc điểm hoạt
động kinh doanh của từng ngân hàng. Bốn là, phát triển công nghệ phải đảm bảo khả năng kết
nối với các ngân hàng, các tổ chức kinh tế để phát triển dịch vụ; năm là ứng dụng công nghệ
phải đảm bảo được sự quản lý an toàn, tiện ích và bảo mật. đây là vấn đề cơ bản để NH phối
hợp với các tổ chức cung ứng dịch vụ phát triển các dịch vụ thanh toán qua NH.
Thứ hai, đảm bảo điều kiện cần và đủ để ứng dụng công nghệ ngân hàng
- Hai điều kiện cần:
+ Cơ chế chính sách phù hợp chuẩn mực quốc tế là cơ sở định hướng để hiện đại hoá ngân
hàng. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước phải định hướng về phát triển công nghệ làm cơ sở cho
các TCTD thực hiện thống nhất. Ban hành các cơ chế, nghiệp vụ hoạt động theo chuẩn mực
quốc tế để khi các ngân hàng hiện đại hoá công nghệ thì các qu định này được áp dụng tương
thích với công nghệ hiện đại.
+ NHNN nên có định hướng thống nhất về việc áp dụng nền tảng công nghệ và tiêu chuẩn an
toàn cần thiết để phát triển của hệ thống thanh toán hiện đại và an toàn; xây dựng cơ chế phối
hợp trong việc phát hiện sớm, phòng ngừa hiện tượng, hành vi gian lận và giả mạo thẻ; xây
dựng những quy định về dự phòng rủi ro cho các ngân hàng trong lĩnh vực kinh doanh thẻ nói
chung và rủi ro về giả mạo thẻ nói riêng là vấn đề cấp bách, quan trọng hiện nay nhằm tạo
thuận lợi cho các ngân hàng đã, đang và sẽ tham gia vào thị trường thẻ Việt Nam. Song song
bên cạnh đó cần thực hiện đồng bộ trong toàn hệ thống ngân hàng, tạo sự thống nhất và giảm
thiểu chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chíp.

Bốn điều kiện đủ:
10
10

Lớp : VMBA 19


Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh

+ Phải có vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng và công nghệ hiện đại. Về vốn, NH có thể thực hiện
bằng nhiều hình thức như phát hành cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi trên thị trường chứng
khoán; hoặc có thể liên kết với các tổ chức tài chính nước ngoài để đầu tư công nghệ; nếu
không thì các NH có thể thuê thiết bị và công nghệ hiện đại ở nước ngoài.
+ Khi ứng dụng công nghệ các NHTM phải thực hiện được vấn đề quản trị mạng, quản trị
kinh doanh, quản trị rủi ro, quản trị thanh khoản. Đây là những yếu tố an toàn trong hoạt động
của NH. Riêng về dịch vụ thẻ thanh toán, để đảm an toàn và chống gian lận thẻ các NHTM
phải thiết lập hệ thống theo dõi các giao dịch nghi ngờ gian lận, thiết lập các thông số giao
dịch để có hình thức xử lý kịp thời, thích hợp. Tận dụng hệ thống quản lý rủi ro của các tổ
chức thẻ quốc tế Visa, MasterCard.
+ Hiện đại hoá công nghệ phải đi liền với việc phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đây
là vấn đề phù hợp với thực tiễn NHTM Việt Nam vừa cạnh tranh vừa liên kết nhau cùng phát
triển .
+ Phải có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kỹ thuật công nghệ hiện đại theo hướng năng
động, nhạy bén trong việc tìm thị trường , phát triển sản phẩm dịch vụ tương thích; biết đưa ra
những sản phẩm mới từ trong những dịch vụ truyền thống; biết hoàn thiện và nâng cao chất
lượng dịch vụ truyền thống trên nền tảng công nghệ hiện đại.
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN
Tóm lại, hệ thống ngân hàng trong 20 năm qua đã có sự phát triển toàn diện, bám sát

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Điểm nổi bật trong sự phát triển này là
ứng dụng công nghệ thông tin trong các nghiệp vụ hoạt động ngân hàng. Nói một cách khác,
công nghệ ngân hàng được xem như xu hướng phát triển trong hoạt động hệ thống ngân hàng
thời gian qua. Các giải pháp công nghệ được lựa chọn cơ bản là phù hợp, đã góp phần quan
trọng thúc đẩy các TCTD nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm
dịch vụ, chiếm lĩnh thị phần bằng các thiết bị giao dịch tự động; đẩy nhanh tốc độ thanh toán,
tăng vòng quay tiền tệ, qua đó mà góp phần nâng cao hiệu quả đồng vốn xã hội; nâng cao
năng lực quản lý điều hành của NHNN. Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống ngân hàng nói
chung và công nghệ ngân hàng nói riêng còn chưa theo kịp với nhu cầu phát triển và yêu cầu
hội nhập của nền kinh tế.
Thập kỷ sắp tới đóng vai trò hết sức quan trọng, do đây là giai đoạn mà Việt Nam cần
tạo dựng cho mình những tiền đề cần thiết để trở thành một nước công nghiệp. Vì vậy, công
nghệ nói chung và công nghệ ngành Ngân hàng nói riêng sẽ chiếm một vị trí đặc biệt quan
trọng trong chiến lược phát triển của Ngành.
Trong thập kỷ tiếp theo, bối cảnh hoạt động của khu vực tài chính ngân hàng có những
thay đổi lớn. Triển vọng phát triển hệ thống ngân hàng đến năm 2020 là đảm bảo sự phát triển
ổn định của khu vực tài chính, phát triển theo chiều sâu, nâng cao vị thế, vai trò và tầm ảnh
hưởng của khu vực tài chính trong nền kinh tế quốc dân, hệ thống tài chính của khu vực và thế
giới nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế - xã hội về các sản phẩm và dịch vụ tài
chính. Công nghệ ngân hàng sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thập kỷ tới và sẽ là
những đột phá mới cho triển vọng phát triển hệ thống ngân hàng đến năm 2020. Với những cơ
hội to lớn mà nó đem lại trong việc nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động ngân hàng, vị trí và
tầm quan trọng của công nghệ ngân hàng sẽ trở thành tâm điểm của các nhà hoạch định chiến
lược, hoạch định chính sách phát triển ngân hàng cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô.

11
11

Lớp : VMBA 19



Tiểu luận triết học

GV: TS. Phạm Văn Sinh
MỤC LỤC

12
12

Lớp : VMBA 19



×