Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Phương thức giải quyết tranh chấp thương mai bằng hòa giải thương mại NTT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.02 KB, 64 trang )

MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP BẰNG HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI
1.1.
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………...
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..


MỞ ĐẦU.
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất đáng lạc quan theo cơ
chế thị trường. Sau hơn 30 năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực,
hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Nhưng trong bối cảnh đó thì các
quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ
được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức,
cá nhân nước ngoài. Chính vì vậy tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi
và cần được quan tâm giải quyết kịp thời; hay nói cách khác, để các quan hệ kinh
doanh thương mại ngày càng phát triển thì cần có một phương thức giải quyết tranh
chấp có hiệu quả.
Pháp luật Việt Nam công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại bao gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó khi xảy ra tranh
chấp các bên có thể thương lượng với nhau để giải quyết, trường hợp không thương
lượng được thì có thể thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua hòa giải,
trọng tài hoặc tòa án. Mỗi phương thức đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng


nhưng nhìn chung đều hướng tới việc giải quyết xung đột giữa các bên, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên khi tham gia vào hoạt động kinh doanh
thương mại.
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp, bên cạnh thương lượng và trọng
tài thì phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải rất phổ biến trên thế giới, đặc
biệt được ưa chuộng tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển do những ưu điểm vượt
trội của phương thức này so với phương thức tố tụng. Tuy nhiên, tại Việt Nam phương
thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trong hoạt động thương mại còn khá mới và
chưa được sử dụng rộng rãi bởi nhiều nguyên nhân về pháp lý cũng như con người.
Trước khi có Nghị định quy định về trình tự, thủ tục hòa giải thương mại thì việc giải
quyết tranh chấp bằng hòa giải đã được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật


chuyên ngành mà chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng hòa giải.
Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, Nghị định về hòa giải thương mại được “thai
nghén” khoảng thời gian 5 năm trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cùng với đó là tình trạng quá tải của tòa án
đối với các tranh chấp có tính kinh doanh, thương mại đã mở ra một kênh giải quyết
tranh chấp mới với nhiều ưu điểm trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Do đó để
thúc đẩy sự phát triển và áp dụng rộng rãi của phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải, cần phải có những công trình nghiên cứu chỉ ra những ưu
điểm, khuyết điểm của phương thức này cũng như thực tiễn liên quan đến hòa giải tại
Việt Nam trên cơ sở đối chiếu và so sánh, để tăng thêm sự hiểu biết xã hội và chấp
nhận rộng rãi phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải. Với lý do
như trên, tôi chọn đề tài “Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải thương mại theo pháp luật Việt Nam – Thực tiễn áp dụng”
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài


Trong nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh đều muốn xây dựng lòng tin,
duy trì mối quan hệ kinh tế đối với các đối tác một cách lâu dài để đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh, thương mại ổn định và phát triển. Tuy vậy, đôi khi nhiều lý do chủ
quan và khách quan, các mối quan hệ kinh doanh thương mại giữa các nhà kinh doanh
cũng có những bất đồng và mâu thuẫn dẫn đến các tranh chấp trong việc thực hiện cam
kết. Vì thế, giải quyết tranh chấp thương mại là một vấn đề cấp thiết, hiện nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng,
bằng trọng tài, bằng tòa án như khóa luận tốt nghiệp năm 2009 “Giải quyết tranh chấp
thương mại bằng thương lượng” của tác giả Ngô Thế Lập – Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội; khóa luận tốt nghiệp năm 2010 “Hòa giải trong tố tụng dân sự - một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả La Phương Na – trường Đại học Luật Hà Nội;
Tập bài giảng về giải quyết tranh chấp thương mại, PGS.TS. Phan Thị Thanh Thủy –
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; “Hòa giải thương mại và xu hướng phát triển tại
Việt Nam”, TS.Nguyễn Thị Minh, Phó vụ trưởng Vụ bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp, năm


2011; “Hoàn thiện cơ chế hòa giải ở Việt Nam – Bài học kinh nghiệm các nước”, ThS.
Lê Thị Hoàng Thanh, năm 2012; Luận văn thạc sĩ năm 2014 “Xây dựng pháp luật về
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam” của tác giả
Ngô Thị Thanh Tuyền – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn Thạc sĩ năm
2014 “Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam” của tác giả
Phạm Lê Mai Ly – Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội;….
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại. Tuy nhiên các công
trình trên chủ yếu tiếp cận phương thức hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại từ
góc độ luật thực định, mà hiện nay luật đã có nhiều thay đổi. Sự ra đời của Nghị định
số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương mại và sự đổi mới của hàng loạt các
Luật chuyên ngành khác đã làm vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
vốn đã mới ở Việt Nam nay lại càng mới hơn. Đề tài nghiên cứu việc quy định phương

thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải theo pháp luật Việt Nam hiện
hành có những ưu điểm, nhược điểm gì; thực tiễn áp dụng nó ra sao; từ đó đề xuất các
giải pháp để tiếp tục hoàn thiện và củng cố hệ thống pháp luật về hòa giải thương mại.
Đây là vấn đề cấp thiết trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt
Nam hiện nay.
3.
3.1.

Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát

Nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung của phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hòa giải theo pháp luật Việt Nam hiện nay để từ đó có cơ sở xây
dựng, hoàn thiện và áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
ở Việt Nam.
3.2.

Mục tiêu cụ thể

Thứ nhất, tìm hiểu và phân tích khái niệm, đặc điểm của tranh chấp thương mại.
Từ đó làm rõ các vấn đề lý luận và nội dung của phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải.


Thứ hai, tìm hiểu các quy định pháp luật của Việt Nam cũng như thực trạng của
pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng hòa giải.
Thứ ba, kiến nghị một số giải pháp để xây dựng, hoàn thiện và áp dụng pháp
luật có hiệu quả trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
4.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung về lý luận, thực tiễn pháp luật Việt Nam và
thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam để giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải.
Đối với phương thức hòa giải để giải quyết tranh chấp thì có hòa giải tư pháp
tức là hòa giải gắn liền với hoạt động của Tòa án, Trọng tài (hay còn gọi là hòa giải
trong tố tụng), hòa giải hành chính gắn với hoạt động của các cơ quan hành chính và
hòa giải cơ sở mang tính chất xã hội đối với những tranh chấp nhỏ. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài thì tác giả tập trung nghiên cứu về hòa giải ngoài tố tụng – một
phương thức để giải quyết tranh chấp gắn với các tranh chấp trong hoạt động thương
mại (hay còn gọi là hòa giải thương mại).
5.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của triết học
Marx – Lenin và trên quan điểm, định hướng của Đảng cũng như của Nhà nước trong
việc phát triển kinh tế Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới
Đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống, như
phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, đối chiếu, so sánh các quy phạm pháp luật,
các vụ việc thực tiễn giải quyết tranh chấp
6.

Tính mới và đóng góp của đề tài

Tuy đã có nhiều đề tài nghiên cứu vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về hòa
giải trong các tranh chấp kinh doanh thương mại, song các đề tài đó nghiên cứu dựa
trên nền tảng những quy định pháp luật cũ về hòa giải thương mại. Hiện nay Nghị định
số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại ra đời, có những quy định pháp luật mới



cần được giải thích có hệ thống phục vụ cho việc áp dụng hòa giải vào giải quyết các
tranh chấp thương mại một cách có hiệu quả; bên cạnh việc cập nhật những quy định
pháp luật mới về hòa giải đề tài cũng sẽ nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và
thực tiễn về pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải. Vì vậy, đề tài
“Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại theo
pháp luật Việt Nam – thực tiễn áp dụng” về cơ bản là mới. Đề tài sẽ làm rõ những vấn
đề lý luận, khái niệm, đặc điểm, nội dung của phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải theo pháp luật hiện hành. Từ đó tìm ra những điểm hạn chế
trong các quy định pháp luật để góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về hòa giải
cũng như việc áp dụng phương thức này vào giải quyết các tranh chấp thương mại thực
sự có hiệu quả.
7.

Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì khóa luận tốt nghiệp bao gồm có ba
chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải
Chương 2: Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức hòa
giải ở Việt Nam và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong
giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam.


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HÒA GIẢI.
1.1.

1.1.1.

Khái quát về tranh chấp thương mại
Khái niệm tranh chấp thương mại

Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động thương mại,
đó là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong hoạt động của nền kinh tế
thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể
tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam
cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này cũng như các phương
thức giải quyết. Tranh chấp thương mại (hay tranh chấp kinh doanh thương mại) là
thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế - xã hội ở các nước trên thế giới. Khái
niệm này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây
bởi sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc của
cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam.
Tranh chấp có thể biểu hiện ở những dạng sau:
- Tranh chấp trong kinh doanh: được diễn ra giữa các chủ thể tham gia kinh
doanh, đó là tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ trên thị
trường hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư: loại tranh chấp này nảy
sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BOT, BTO, BT, thực hiện điều ước quốc tế
khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương hoặc đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong việc thực
hiện điều ước quốc tế về thương mại đa phương, ví dụ tranh chấp giữa Mỹ và EU về
nhập khẩu chuối.
Có thể nói trong các loại hình tranh chấp trên thì tranh chấp về thương mại là
loại hình tranh chấp phổ biến nhất
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại là tranh
chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước thành viên WTO



khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp định nào đó của WTO bị triệt
tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành viên khác áp dụng một biện pháp thương
mại hoặc không thực hiện một nghĩa vụ; hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định
bị cản trở, triệt tiêu hoặc suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của
một thành viên bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không; hoặc
khi có bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục tiêu hiệp
định. Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp của WTO khi nó được chính
thức thông báo cho Ban thư ký WTO.
Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là bất đồng
giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các
Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho Ban
thư ký WTO vì vậy nó có đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại trong WTO là tranh chấp thương mại quốc tế
liên quốc gia, liên chính phủ
Thứ hai, các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế, các cá
nhân, pháp nhân không thể là một bên của tranh chấp
Thứ ba, khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO
Thứ tư, tranh chấp phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO.
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại trong từng giai đoạn là khác nhau
cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Lần đầu tiên khái niệm tranh chấp thương mại
được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997 tại Điều 238 như sau: “Tranh chấp
thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Theo đó, nội hàm hoạt động thương mại
theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về
thương mại. Hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba nhóm: Hoạt động mua bán hàng
hóa; cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại. Tranh chấp



thương mại và hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã
loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được coi là
tranh chấp thương mại. Vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong hệ thống pháp
luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong đó có cả những Công ước quốc
tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công ước New York năm 1958) gây
không ít những trở ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập [40].
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về
tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt động thương mại”
theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm về thương mại và tranh chấp
thương mại của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ
quốc tế.
Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra một khái niệm về hoạt động thương mại
theo đó khái niệm này mở rộng hoạt động thương mại bao gồm tất cả mọi hoạt động có
mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này cho thấy khái niệm về hoạt động thương mại đã
thể hiện sự tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp 1999, Luật
doanh nghiệp 2005 cũng như Luật doanh nghiệp năm 2014.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã liệt kê các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy sử dụng thuật ngữ các tranh
chấp kinh doanh, thương mại nhưng về nội hàm thì tương đồng với các tranh chấp
thương mại theo Luật Thương mại năm 2005.
Từ các tiếp cận trên có thể hiểu: tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn,
bất đồng, xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể (có thể là thương nhân hoặc
không phải là thương nhân) trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại (các
hoạt động có mục đích sinh lời).

1.1.2.

Đặc điểm của tranh chấp thương mại



Tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp phát sinh từ những quan hệ do
ngành luật thương mại điều chỉnh, vì vậy nó có những đặc trưng khác biệt so với tranh
chấp dân sự và tranh chấp lao động. Về cơ bản tranh chấp kinh doanh thương mại có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (trạng thái xung đột) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ thương mại. Quan hệ thương mại và
bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều kiện cần và đủ để tranh chấp
phát sinh. Trong hoạt động thương mại,các bên vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh
nhau để đạt được những mục đích đề ra. Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất
đồng trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.
Thứ hai, những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát sinh từ
hoạt động thương mại. Theo đó, tranh chấp thương mại phải là những mâu thuẫn, bất
đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thứ ba, về chủ thể, tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát
sinh giữa các thương nhân (cá nhân, pháp nhân) kinh doanh với nhau. Ngoài thương
nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong những trường hợp nhất định,
các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh
chấp thương mại khi trong các giao dịch trên bên không có mục đích sinh lợi chọn áp
dụng luật thương mại [Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005]. Khoa học pháp lý gọi
giao dịch này là giao dịch hỗn hợp. Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh
lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại
thuần túy, nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng luật thương mại
thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan
hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại [65].
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp thương mại là do các bên trong tranh chấp tự
định đoạt. Điều này thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp có quyền lựa chọn giải



pháp giải quyết tranh chấp phù hợp trong các phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại được pháp luật quy định như thương lượng, hòa giải, trong tài, Tòa án. Tuy
nhiên, các bên vẫn phải đảm bảo tôn trọng lợi ích của nhau và lợi ích của nhà nước.
Tóm lại, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể
(có thể là thương nhân hoặc không) trong quá trình hoạt động thương mại. Nó đã trở
thành một hiện tượng tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường. Khi tranh chấp
thương mại phát sinh đòi hỏi cần phải được giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm
pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội.
Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế dưới sự tác động trực tiếp của quy luật
cạnh tranh, tranh chấp thương mại cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại, gay gắt,
phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Chính vì thế, việc áp dụng hình thức và phương
thức giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo đảm nguyên tắc
pháp chế Xã hội chủ nghĩa, thông qua đó góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh
để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế.
1.1.3.

Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại

Giải quyết tranh chấp thương mại có thể được hiểu là việc lựa chọn các hình
thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các
bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được, theo đó
bên vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm của mình đối với bên bị vi phạm.
Hoặc có thể hiểu giải quyết tranh chấp thương mại là việc các bên tranh chấp thông
qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ những mâu
thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích trong hoạt động thương mại nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Tranh chấp thương mại xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của

các bên trong quan hệ thương mại mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của
nền kinh tế đất nước. Việc giải quyết tranh chấp thương mại là yếu tố quan trọng đối


với sự phát triển của nền kinh tế đang ngày càng hội nhập của Việt Nam, nó cần phải
đáp ứng những yêu cầu sau: đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể; giữ gìn
bí mật kinh doanh và uy tín của các bên tranh chấp; không làm hạn chế hay cản trở
hoạt động thương mại; nhanh chóng khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác và tín
nhiệm của các bên trong hoạt động thương mại, đảm bảo chi phí giải quyết tranh chấp
là ít tốn kém nhất.
Nói chung, giải quyết tranh chấp thương mại là quá trình các bên trong quan hệ
tranh chấp tìm ra các phương thức, biện pháp để tháo bỏ những xung đột, mâu thuẫn
về lợi ích của các bên. Quá trình giải quyết tranh chấp này không chỉ giúp các bên bảo
vệ được quyền và lợi ích chính đáng của họ mà còn giúp cho nền kinh tế có cơ hội
ngày càng phát triển ổn định.
1.2.

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại

Một nền kinh tế phát triển là một nền kinh tế ở đó tồn tại những phương thức
giải quyết tranh chấp hiệu quả. Bởi lẽ, suy cho cùng khi tham gia vào môi trường kinh
doanh thương mại, các chủ thể đều theo đuổi tìm kiếm mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu
này đã làm các chủ thể có những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể khác hoặc có thể do những lý do khách quan khác mà nảy sinh tranh chấp giữa
các bên trong quan hệ kinh doanh thương mại. Để thúc đẩy sự tham gia của các chủ thể
vào hoạt động kinh doanh thương mại thì cần có cơ chế giải quyết tranh chấp hữu hiệu
để chắc chắn rằng quyền lợi của họ sẽ được bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Giải quyết
tranh chấp thương mại một cách kịp thời và hiệu quả đem lại những lợi ích sau: 1) Tạo
động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế; 2) Cho phép hạn chế đến mức tối thiểu
sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở mức chi phí thấp nhất; 3) Bảo vệ

một cách có hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các chủ thể khi tham
gia vào quan hệ kinh doanh thương mại, từ đó tạo niềm tin, thực hiện công bằng và
bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Có thể nói, hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu
quả đáp ứng nhu cầu trên, hòa giải thương mại đã được sử dụng phổ biến ở các quốc


gia trên thế giới từ nhiều năm nay, đặc biệt là các quốc gia phát triển. Ở Việt Nam,
phương thức giải quyết tranh chấp này còn khá mới và ít được phổ biến như là một
phương thức giải quyết thay thế độc lập.
1.2.1.

Khái niệm

Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đã và đang là xu
thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến nay,
Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế với
phương châm “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là
bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”. Sự hội nhập này đã mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế Việt Nam, song bên
cạnh đó cũng còn phát sinh nhiều khó khăn, đặc biệt là sự phức tạp của các tranh chấp
thương mại. Vì thế, cần phải có những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
nhanh gọn, tiết kiệm và có thể duy trì được mối quan hệ hợp tác giữa các bên. Giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải (hay hòa giải thương mại) là một trong
những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trên thế giới và đáp ứng được
những yêu cầu về tính hiệu quả như thủ tục nhanh gọn, tiết kiệm chi phí,… Cùng với
thương lượng và trọng tài, hòa giải thương mại được coi là một trong những phương
thức giải quyết tranh chấp thay thế (ADR). Phương thức giải quyết tranh chấp thay thế
được hiểu một cách chính xác những gì mà nó thể hiện đó là phương thức giải quyết
tranh chấp thay cho việc khởi kiện ra tòa [61, tr.196]. Điều này đặt ra câu hỏi là nó thay

thế cho cái gì. Ở đây, “thay thế” hàm nghĩa những khác biệt với hình thức tố tụng của
Tòa án. Ngoài ra, “thay thế” còn hàm ý có một sự tự do lựa chọn, các bên có quyền lựa
chọn sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khác như thương lượng,
hòa giải,…vì những ưu điểm vượt trội của nó so với phương thức giải quyết tranh chấp
thông qua Tòa án.
Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiệu quả, tuy
nhiên hiện nay quan niệm về hòa giải còn nhiều vấn đề chưa thống nhất và vẫn còn
nhiều định nghĩa khác nhau về hòa giải, cụ thể như sau:


Theo từ điển Tiếng Việt “Hòa giải là thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt
xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” [48, tr.430]. Khái niệm này đã đề cập đến
hành động và mục đích của hòa giải nhưng chưa nêu được các yếu tố như bản chất, nội
dung và chủ thể của hòa giải.
Theo từ điển Luật học Black’s Law định nghĩa “Hòa giải là sự can thiệp, sự
làm trung gian hòa giải, hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh
chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp giữa họ, việc giải quyết
tranh chấp thông qua người trung gian hòa giải (bên trung lập)” [38. Tr.307]. Định
nghĩa này đã nhắc đến chủ thể, bản chất của hòa giải, khắc phục được một phần hạn
chế trong định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt.
Theo định nghĩa của Luật mẫu của Ủy ban Pháp luật thương mại Quốc tế
(UNCITRAL) về hòa giải thương mại thì “Hòa giải là một quá trình trong đó các bên
yêu cầu một hay nhiều bên thứ ba (hòa giải viên) tham gia nỗ lực hỗ trợ các bên nhằm
giải quyết êm thấm tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan một mối quan hệ trên cơ sở
hợp đồng hoặc một mối quan hệ pháp luật khác. Hòa giải viên không có quyền áp đặt
các bên phải thực hiện một giải pháp giải quyết tranh chấp” [Khoản 3 Điều 1].
Theo định nghĩa của giáo trình luật thương mại thì “Hòa giải là phương thức
giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ
trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp
đã phát sinh” [60, tr.441].

Theo giáo trình pháp luật về cạnh tranh và giải quyết thương mại “Hòa giải là
hình thức giải quyết tranh chấp thương mại có sự tham gia của bên thứ ba với vai trò
làm trung gian để giúp các bên có được tiếng nói chung trong việc giải quyết các bất
đồng” [61, tr.323].
Theo Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương mại định
nghĩa “Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các
bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải
quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định này” [Khoản 1 Điều 3].


Một vài quan điểm khác cho rằng hòa giải còn được hiểu ở góc độ rộng hơn là
một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng
giải quyết vấn đề của họ. Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối của quá trình thương
lượng trong đó các bên cố gắng điều hòa những ý kiến bất đồng thông qua sự hỗ trợ
của bên thứ ba trung lập.
Có thể thấy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hòa giải, nhưng qua các khái
niệm trên có thể hiểu: “Hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp
có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng thỏa thuận chấp nhận hay chỉ
định giữ vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên tìm kiếm giải pháp thích hợp giúp
chấm dứt những mâu thuẫn, xung đột đang tồn tại giữa các bên”.
1.2.2.

Đặc điểm

Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải có sự hiện diện
của bên thứ ba đóng vai trò là hòa giải viên để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối
ưu nhằm loại trừ tranh chấp, xung đột. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa hòa giải và
thương lượng vì thương lượng là việc tự giải quyết tranh chấp giữa các bên mà không
có sự xuất hiện của người thứ ba. Đồng thời đó cũng là điểm khác biệt với phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tòa án, hòa giải viên không có quyền phán xét

cũng như không đưa ra bất cứ quyết định hay giải pháp nào ràng buộc các bên tranh
chấp như trọng tài viên và thẩm phán. Hòa giải viên có vai trò là khuyến khích và trợ
giúp các bên đạt được sự thống nhất ý chí và đưa ra quyết định cuối cùng.
Thứ hai, giống như thương lượng, hòa giải là giải pháp tự nguyện, tùy thuộc vào
sự tự nguyện và thiện ý của các bên tham gia tranh chấp. Tuy nhiên, quá trình hòa giải
các bên tranh chấp cũng vẫn chịu sự chi phối nhất định mang tính thể thức như điều lệ
của Trung tâm hòa giải, các quy định cơ bản của pháp luật về thủ tục hòa giải. Hòa giải
là một cơ chế linh hoạt, mềm dẻo cho các bên tranh chấp bởi khi sử dụng hòa giải để
giải quyết tranh chấp, mối quan hệ giữa các bên thường thân thiện hơn, giữ được quan
hệ hợp tác, làm ăn trong tương lai. Bởi lẽ, khi sử dụng phương thức hòa giải thì không
có kẻ thắng, người thua mà là đi tìm giải pháp tối ưu để cả hai cùng thắng. Trong khi


đó, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và tòa án phải thực hiện theo thủ
tục tố tụng do pháp luật quy định, sau khi giải quyết tranh chấp kết quả sẽ có kẻ thắng
người thua nên mối quan hệ giữa các bên có thể trở nên căng thẳng trong tương lai.
Chính vì vậy trong thực tiễn hoạt động thương mại của các nước phát triển, các doanh
nhân có xu hướng lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại.
Thứ ba, văn bản về kết quả hòa giải thành được xem xét công nhận theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự. Tức là khi văn bản hòa giải thành được công nhân
bởi Tòa án thì nó có giá trị như một bản án, vì vậy nó có hiệu lực buộc phải thực hiện.
Từ những đặc điểm trên có thể rút ra được bản chất của hòa giải thương mại như
sau:
Hòa giải là quá trình các bên đàm phán với nhau về việc giải quyết tranh chấp
với sự trợ giúp của một bên thứ ba độc lập (hòa giải viên) [64, Tr.103]. Hòa giải khác
với thương lượng ở sự có mặt của bên thứ ba và cũng khác phương thức trọng tài ở
chỗ, hòa giải viên không có quyền xét xử và ra phán quyết như trọng tài viên. Vai trò
của hòa giải viên trong quá trình hòa giải chỉ dừng lại ở việc khuyến khích và trợ giúp
các bên tìm ra một giải pháp mang tính thực tế mà tất cả các bên liên quan đều có thể
chấp nhận sau khi xem xét, nghiên cứu những lợi ích và nhu cầu của họ.

1.2.3.

Nguyên tắc hòa giải

Hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại độc
lập với tố tụng tòa án và trọng tài và được tiến hành bởi một cơ quan có chức năng hòa
giải độc lập. Hòa giải thương mại được tiến hành theo nguyên tắc quy định tại Điều 4
Nghị định số 22/2017/NĐ-CP như sau:
Thứ nhất, hòa giải mang tính chất tự nguyện, thể hiện ở chỗ các bên tự nguyện
đưa tranh chấp ra hòa giải, không bên nào ép buộc bên nào tham gia vào. Sự tự nguyện
được thể hiện bằng việc các bên có thể quyết định quy trình hòa giải, quyền tự do thỏa
thuận về phương pháp, lựa chọn hòa giải viên, tự do ý chí về các giải pháp giải quyết
tranh chấp, thỏa thuận lựa chọn phương án giải quyết thích hợp, quyền của các bên
chấm dứt hòa giải khi không đạt được mục tiêu. Hòa giải viên sẽ cung cấp những nhận


định, đánh giá về nội dung vụ tranh chấp cũng như ý kiến tư vấn về cách thức giải
quyết vụ tranh chấp, nhưng những nhận định và ý kiến của hòa giải viên chỉ có tính
chất tham khảo và không có tính chất ràng buộc đối với các bên. Việc các bên có đi đến
thỏa thuận hòa giải hay không và nội dung của thỏa thuận đó sẽ do các bên tự quyết
định.
Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ uy tín, các yếu tố bí mật, bí mật kinh doanh của các
bên tranh chấp trong hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại.
Hòa giải là một quá trình giải quyết tranh chấp có tính tự nguyện, riêng tư mà ở
đó các bên có thể trao đổi trực tiếp, thẳng thắn với nhau về các tài liệu, chứng cứ liên
quan đến tranh chấp trong đó có cả những vấn đề về bí mật kinh doanh. Trong quá
trình hòa giải các bên cùng nhau thảo luận về các phương án khác nhau do hòa giải
viên đưa ra, chủ động đưa ra những yêu cầu hoặc nhượng bộ để đạt tới một giải pháp
dung hòa lợi ích của hai bên. Điều đó giữ gìn được uy tín của mỗi bên vừa duy trì mối
quan hệ thương mại lâu dài, do đó việc bảo toàn bí mật, tài liệu, chứng cứ, ý kiến của

các bên và của hòa giải viên trong quá trình hòa giải là điều vô cùng quan trọng. Bởi
nếu hòa giải không được thì tài liệu, bí mật của các bên sẽ có nguy cơ lộ ra, do vậy các
bên cần có tinh thần hợp tác thân thiện để các bên an tâm tiến hành hòa giải.
Thứ ba, đảm bảo tính khách quan, phù hợp quy định của pháp luật và các tập
quán thương mại quốc tế, không trái thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội, không xâm
phạm đến quyền lợi ích của bên thứ ba.
Tính khách quan thể hiện ở chỗ bên thứ ba làm trung gian hòa giải phải đảm bảo
sự tin cậy của các bên với những tư vấn, đề xuất phương án giải quyết của hòa giải
viên. Hòa giải viên không được thể hiện thái độ thiên vị đối với bất cứ bên tranh chấp
nào trong việc điều khiển quá trình hòa giải cũng như trong việc đưa ra các nhận định
hay ý kiến tư vấn. Trong trường hợp một trong các bên thấy hòa giải viên thiên vị vi
phạm nguyên tắc khách quan, bên đó có quyền yêu cầu thay đổi hòa giải viên hoặc yêu
cầu chấm dứt và rút lui khỏi quá trình hòa giải.


Hơn nữa trong quá trình hòa giải phải đảm bảo thỏa thuận hòa giải không trái
với thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Đặc biệt thỏa thuận hòa giải còn không làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba. Ví dụ: Các quan hệ tranh
chấp kinh doanh thương mại giữa các bên có liên quan trực tiếp đến người tiêu dùng,
thì thỏa thuận hòa giải giữa các bên phải không xâm phạm đến quyền lợi chính đáng
mà người tiêu dùng được hưởng.
1.2.4.


Ưu và nhược điểm
Về ưu điểm:

Thứ nhất, hòa giải thương mại linh hoạt về thủ tục. Hòa giải có thể được tiến
hành trong nhiều môi trường khác nhau, thủ tục có thể được thỏa thuận và điều chỉnh
cho thích nghi. Tính linh hoạt đem lại lợi thế là các bên được bày tỏ ý kiến xem quá

trình nào thì phù hợp với họ; cho phép có những điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp
và các bên tranh chấp đòi hỏi phải vậy; tránh khả năng về việc có những yêu cầu về thủ
tục kỹ thuật quá phức tạp. Trong hòa giải thường không có quy định nào về chứng cứ
và cũng không có quy định về kiểm chứng cũng như xem xét về mặt thủ tục.
Thứ hai, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đáp ứng
nhu cầu phổ biến của các nhà kinh doanh là khi tranh chấp phát sinh, các bên muốn tự
thương lượng hoặc thông qua người thứ ba trung lập để giải quyết tranh chấp theo con
đường hữu nghị chứ không muốn dựa vào hình thức tài phán (Tòa án hay Trọng tài) để
phân xử các tranh chấp ngay từ ban đầu. Hòa giải được tiến hành trên cơ sở ý chí tự
nguyện của các bên tranh chấp, không ai có thể hiểu rõ mọi tình tiết, nguyên nhân tranh
chấp bằng chính các bên tranh chấp, do đó, sẽ có khả năng giải quyết tranh chấp một
cách nhanh chóng. Bên cạnh đó hòa giải đảm bảo sự tham gia đầy đủ, trực tiếp của các
bên, khuyến khích các bên dàn xếp với nhau, bày tỏ nguyện vọng của mình nên sẽ tiết
kiệm được chi phí, thời gian và quan trọng là khi hòa giải thành, không có kẻ thằng
người thua như khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hoặc tòa án nên không gây ra
tình trạng đối đầu, vẫn duy trì được mối quan hệ hợp tác, làm ăn giữa các bên.
Thứ ba, bên thứ ba là hòa giải viên do các bên lựa chọn nên thường là những
người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực thương mại. Vì vậy, họ dễ dàng nắm


bắt được nguyện vọng của các bên tranh chấp, từ đó biết cách làm cho ý chí của các
bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để giải quyết tranh chấp một cách thuyết
phục và có tính khả thi, cơ hội thành công cao. Ngoài ra, kết quả hòa giải được ghi
nhận và chứng kiến bởi người thứ ba nên mức độ tôn trọng và tự nguyện thực hiện các
cam kết đạt được trong hòa giải sẽ cao hơn so với thương lượng.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải đảm bảo sự kín đáo và tính bảo mật
thể hiện ở việc: phiên họp hòa giải được tổ chức kín, không công khai, người ngoài chỉ
có thể biết được trình tự thủ tục và nội dung nếu được các bên đồng ý; không công bố
công khai nội dung được trao đổi trong phiên họp; việc công bố điều khoản giải quyết
là vấn đề phải được hai bên thỏa thuận.

Thứ tư, kết quả hòa giải thành khi được một hoặc các bên yêu cầu tòa án công
nhận thì nó có giá trị buộc các bên phải thi hành y như một bản án. Điều này tránh tình
trạng kết quả hòa giải chỉ là trên giấy còn việc thực thi hay không là quyền của các
bên. Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể về việc thi hành kết quả hòa giải thành khi được
tòa án công nhận, nhưng về cơ bản bước đầu đã có một cơ quan có thẩm quyền đứng ra
công nhận quyết định hòa giải thành được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.


Về nhược điểm

Tuy hòa giải thương mại có nhiều ưu điểm vượt trội song vẫn còn tồn tại một số
những hạn chế sau. Trong quá trình hòa giải vẫn cần sự thiện chí và hợp tác của các
bên, bởi lẽ nếu không có sự hợp tác, thấu hiểu nhau thì các bên có thể tự ý chấm dứt
hòa giải vào bất cứ giai đoạn nào. Như vậy không những mục đích hòa giải không đạt
được mà còn trì hoãn, kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp có thể gây thiệt hại cho
các bên.
1.2.5.

Các phương thức hòa giải

Theo thông lệ chung thì hòa giải được tiến hành cả ngoài tố tụng và trong tố
tụng của tòa án hoặc trọng tài:


Hòa giải trong thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được tiến hành tại Tòa án, trọng
tài khi các cơ quan này tiến hành giải quyết tranh chấp theo đơn kiện của một bên.
Trường hợp hòa giải thành, thẩm phán hoặc trọng tài viên sẽ ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các bên, quyết định này có hiệu lực và được thi hành như một bản án
của tòa án hay phán quyết của trọng tài. Theo pháp luật Việt Nam, hoạt động hòa giải

trong tố tụng tại Tòa án được ghi nhận và quy định trong BLTTDS 2015, từ các Điều
205 đến Điều 213. Hoạt động hòa giải trong tố tụng tại trọng tài được quy định cụ thể
tại Điều 58 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, như đã chỉ ra trong phạm
vi nghiên cứu đề tài, Khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu về hòa giải ngoài tố tụng với tư
cách là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập.
Hòa giải ngoài tố tụng là hình thức hòa giải qua bên thứ ba, được các bên tiến
hành trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tài phán như Tòa án hoặc Trọng tài hòa
giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng. Đối với hòa
giải thương mại pháp luật một số quốc gia trên thế giới coi đây là công việc riêng của
các bên nên không điều chỉnh trực tiếp và chi tiết. Các bên tranh chấp thông tin cho
nhau và trình bày quan điểm của mình, hòa giải viên hướng các bên tham gia vào việc
tìm kiếm những giải pháp thích hợp nhằm loại trừ những ý kiến bất đồng, những xung
đột về lợi ích phát sinh giữa các bên. Sự nhất trí trong giải quyết tranh chấp được thể
hiện bằng văn bản, có sự xác nhận của bên thứ ba hòa giải và có giá trị ràng buộc với
các bên tham gia.
Nếu so sánh phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trong tài, thì
hòa giải ngoài tố tụng cũng có hai phương thức cơ bản là hòa giải vụ việc và hòa giải
quy chế, cụ thể:
Hòa giải vụ việc là phương thức hòa giải mà trong đó việc tổ chức và giám sát
do các bên tự quy định không có sự trợ giúp của bất kỳ tổ chức hoặc người hòa giải thứ
ba nào [61, tr.284]. Các bên có thể tự thỏa thuận để xây dựng trình tự thủ tục hòa giải
hoặc thống nhất thỏa thuận lựa chọn Quy tắc hòa giải của bất kỳ trung tâm hòa giải
nào.


Hòa giải quy chế do một tổ chức, hoặc trung tâm hòa giải chuyên nghiệp, giám
sát tố tụng trọng tài tiến hành, phải tuân theo quy tắc hòa giải riêng của tổ chức hòa
giải đó [60, tr.284]. Ví dụ quy tắc hòa giải của Trung tâm hệ thống trọng tài Châu Âu Ả Rập có hiệu lực từ ngày 17/12/1997 là quy tắc hòa giải được trung tâm này sử dụng
để hòa giải tranh chấp khi có yêu cầu của các bên, quy trình về hòa giải được quy định
từ Điều 11 đến Điều 18.

Ngoài ra, qua thực tiễn tổ chức, hoạt động hòa giải ở một số nước, căn cứ vào tổ
chức đứng ra thực hiện việc hòa giải, hòa giải được chia ra thành hai hình thức là hòa
giải công (public mediation) và hòa giải tư (private mediation). Hòa giải công do các
cơ quan nhà nước, chủ yếu là do tòa án đứng ra thực hiện. Hòa giải tư thường do các tổ
chức trọng tài thương mại hoặc các tổ chức hòa giải thương mại chuyên nghiệp tiến
hành, hay các bên cũng có thể yêu cầu các cá nhân đứng ra hòa giải (thường là chuyên
gia về hòa giải hoặc lĩnh vực đang có tranh chấp) [60, tr.43]
1.2.6.

Quy trình hòa giải

Trên thực tế không có một quy trình hòa giải mang tính thống nhất trên toàn thế
giới mà mỗi trung tâm hòa giải và mỗi hòa giải viên sẽ áp dụng những quy trình riêng
phù hợp với nội dung và tính chất của vụ tranh chấp. Để có thể tiến hành quy trình hòa
giải thì đầu tiên giữa các bên có thỏa thuận rằng sẽ dùng biện pháp hòa giải để giải
quyết tranh chấp hay nói một cách khác quy trình hòa giải thường bắt đầu bằng việc
hai bên tranh chấp cùng đề nghị hòa giải với hòa giải viên hoặc một tổ chức hòa giải;
một bên cũng có thể đơn phương liên hệ với hòa giải viên hoặc với một tổ chức hòa
giải để yêu cầu tiến hành hòa giải, khi đó hòa giải viên hoặc tổ chức hòa giải sẽ liên hệ
và thuyết phục phía bên kia tham gia hòa giải. Việc hòa giải chỉ được tiến hành sau khi
có sự đồng ý của cả hai bên tranh chấp.
Về cơ bản quy trình hòa giải được tiến hành theo trình tự như sau:
Bước 1: Lựa chọn người hòa giải
Các bên tranh chấp phải thảo luận thống nhất lựa chọn hòa giải viên. Việc lựa
chọn được hòa giải viên giỏi là phần rất quan trọng vì hòa giải viên có kiến thức


chuyên môn, khéo léo trong giao tiếp, nắm vững pháp luật và thực tế của vụ tranh chấp
sẽ được các bên đương sự tin cậy và giúp cho các bên giải quyết tranh chấp một cách
có nhanh chóng. Sau khi lựa chọn được hòa giải viên, hòa giải viên sẽ tiếp tục tiến

hành đến bước sau
Bước 2: Hòa giải viên tìm hiểu mâu thuẫn
Trước khi tiến hành hòa giải, hòa giải viên được tự do liên lạc hoặc gặp riêng
từng bên, yêu cầu mỗi bên cung cấp thông tin và các văn bản có liên quan đến vụ tranh
chấp để hòa giải viên có thể nắm vững và tìm hiểu về tranh chấp một cách chính xác.
Bước 3: Giải quyết mâu thuẫn
Qua bản tường trình, tài liệu mà các bên đã nộp cùng ý kiến trình bày với biên
bản tại các cuộc họp giữa các bên, hòa giải viên có thể xác định được mâu thuẫn,
những quan điểm khác nhau của các bên về vụ việc tranh chấp. Từ đó, hòa giải viên có
thể nhìn nhận và khám phá tìm hiểu rõ nguyện vọng và những lợi ích chung của các
bên tranh chấp. Tiếp theo, hòa giải viên sẽ sắp xếp, tổ chức phiên hòa giải cho các bên
tranh chấp thương lượng cùng nhau và đi đến thỏa thuận. Trong phiên hòa giải, các bên
trình bày ý kiến, quan điểm của mình về nội dung vụ tranh chấp, lắng nghe ý kiến của
bên kia và đề xuất phương án giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp các bên không
đề xuất được phương án thì hòa giải viên sẽ áp dụng các kỹ năng và hiểu biết của mình
để gợi ý các giải pháp nhất định. Nếu các bên đạt được thỏa thuận, hòa giải viên sẽ
giúp các bên soạn thảo thỏa thuận hòa giải thành một cách chi tiết, người đại diện hợp
pháp của các bên tranh chấp và hòa giải viên sẽ ký vào biên bản. Văn bản thỏa thuận
này có giá trị pháp lý như một hợp đồng, ràng buộc các bên đã ký kết các bên phải tôn
trọng và thi hành cam kết. Như vậy, bằng việc ký vào văn bản thỏa thuận hòa giải
thành, các bên kết thúc tranh chấp và bị ràng buộc bởi thỏa thuận hòa giải thành đó.
Quá trình hòa giải sẽ chấm dứt vào ngày mà các bên ký vào văn bản thỏa thuận
hòa giải thành. Ngoài ra, một trong các bên hoặc bản thân hòa giải viên có quyền chấm
dứt hòa giải vào bất cứ giai đoạn nào của quá trình hòa giải khi thấy việc hòa giải sẽ
không mang lại hiệu quả, hoặc quá trình hòa giải kết thúc vào ngày mà một hoặc các


bên đưa vụ tranh chấp đang là đối tượng của quá trình hòa giải kiện tại Tòa án hoặc
Trọng tài. Một điều cần lưu ý là trong quá trình hòa giải, các bên phải cam kết không
tiến hành bất cứ tố tụng trọng tài hoặc tòa án nào đối với tranh chấp đang là đối tượng

của quá trình hòa giải và toàn bộ quá trình hòa giải phải được giữ bí mật, các bên tranh
chấp và hòa giải viên không được tiết lộ các thông tin có liên quan đến quá trình hòa
giải cho người khác, trừ khi các bên đã đồng ý.
1.2.7.

Hình thức pháp lý và hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành

Thỏa thuận hòa giải thành về mặt bản chất là một cam kết thỏa thuận giữa các
bên về việc thực hiện (không thực hiện) nghĩa vụ nào đó để giải quyết tranh chấp. Nó
hoàn toàn mang tính chất của một hợp đồng. Đây là cách tiếp cận hiện nay của Luật
mẫu.
Trên thế giới việc thi hành thỏa thuận hòa giải vẫn còn là một vấn đề đáng quan
tâm. Kết quả hòa giải thành được ghi nhận vào thỏa thuận hòa giải, thỏa thuận hòa giải
này được coi là một hợp đồng có hiệu lực ràng buộc các bên. Hiệu lực của thỏa thuận
hòa giải ràng buộc như một hợp đồng được điều chỉnh theo pháp luật hợp đồng [53].
Trong trường hợp hợp đồng này không được tôn trọng thi hành bởi một trong các bên,
bên kia có thể yêu cầu tòa án thi hành như việc vi phạm hợp đồng. Vậy liệu tòa án có
xem xét và phải xét xử lại trong một vụ kiện về thỏa thuận hòa giải thành này không?
Thỏa thuận hòa giải thành không được coi là một phán quyết trọng tài và do vậy
không thể thi hành như phán quyết trọng tài theo công ước New York 1985 về công
nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên, một bản công nhận thỏa
thuận của các bên thông qua hòa giải trong phiên trọng tài thì có khả năng được thi
hành theo công ước New York 1985.
Tại Châu Âu, vì thông tri của EU ngày 21/5/2008 về một số khía cạnh hòa giải
thương mại và dân sự, nhiều nước EU đã ban hành các đạo luật bảo đảm rằng các thỏa
thuận hòa giải được công nhận và thi hành bởi các nước thành viên như là phán quyết
của Tòa án.


Tại Điều 417 BLTTDS 2015 quy định về điều kiện công nhận kết quả hòa giải

thành ngoài Tòa án như sau:
Thứ nhất, các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự
Thứ hai, các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối
với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên
quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý.
Thứ ba, một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu tòa án công nhận
Thứ tư, nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện,
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh
nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba
Như vậy, thỏa thuận hòa giải thành có giá trị như một hợp đồng và quyết định
công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có thể được thi hành như một bản án,
tức là nó có giá trị ràng buộc thực hiện với các bên.
1.2.8.

Vai trò, chức năng và ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết tranh chấp

thương mại
1.2.8.1. Vai trò, chức năng của hòa giải thương mại
Hòa giải thương mại có những chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, hòa giải là biện pháp có tác dụng giảm thiểu mâu thuẫn, xung đột giữa
các bên. Khi xảy ra tranh chấp ai cũng đặt lợi ích của mình lên hàng đầu và không chịu
nhường nhịn ai khiến mâu thuẫn trở nên ngày càng gay gắt. Lúc này sự có mặt của bên
thứ ba trung gian sẽ làm dịu đi những mâu thuẫn, các bên bình tĩnh hơn, suy xét kỹ hơn
và họ luôn hiểu rằng người ngoài cuộc sẽ có cái nhìn khách quan hơn. Hòa giải đem lại
cơ hội cho các bên trình bày, giải thích và đưa ra lời xin lỗi với nhau. Sự tham gia trực
tiếp của các bên tranh chấp trong hòa giải là rất cần thiết vì nó đề cao được tinh thần,
trách nhiệm của các bên đối với các lựa chọn của mình.



Thứ hai, hòa giải là cách thức thể hiện và bảo đảm quyền tự do lựa chọn cơ
quan giải quyết tranh chấp. Từ khi Việt Nam chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang
kinh tế thị trường có sự tham gia nhiều thành phần kinh tế thì hoạt động kinh doanh
thương mại trở nên đa dạng và phong phú. Cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động
thương mại có quyền tự do lựa chọn loại hình kinh doanh, phương thức kinh doanh,
đối tác kinh doanh và phương thức giải quyết tranh chấp. Các bên tranh chấp có thể lựa
chọn các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại như thương lượng, hòa giải,
trọng tài hoặc tòa án. Riêng đối với hòa giải các bên có thể lựa chọn hòa giải trong tố
tụng hoặc hòa giải ngoài tố tụng.
Thứ ba, hòa giải thương mại là tìm cách cứu vãn mối quan hệ giữa các bên. Khi
các bên xảy ra tranh chấp thường có xu hướng rất căng thẳng, mà đặc tính của kinh
doanh là làm bạn với tất cả các đối tác có khả năng sinh lời cho mình. Vì thế, cần lựa
chọn một phương thức giải quyết tranh chấp ôn hòa, khi đó mối quan hệ hợp tác giữa
các bên sẽ không bị phá vỡ trong tương lai. Hòa giải thương mại làm được điều đó.
Thứ tư, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho các bên, với thủ tục giải
quyết nhanh, linh hoạt, chi phí thấp mà hiệu quả lại cao. Như vậy, công việc kinh
doanh của các bên sẽ không bị trì hoãn, không gây những thiệt hại không mong muốn.
1.2.8.2. Ý nghĩa của hòa giải thương mại

Mặc dù còn có nhiều ý kiến tranh luận về vai trò, ý nghĩa của hòa giải thương
mại nhưng không thể phủ nhận những lợi ích mà hòa giải thương mại mang lại
Thứ nhất, hòa giải là cách thức giữ gìn mối quan hệ làm ăn kinh doanh lâu dài,
khôi phục quan hệ giữa các bên, tìm thấy sự thông cảm. Các bên có thể đưa ra những
yêu cầu, sự nhượng bộ để cùng nhau đạt được mục đích, duy trì mối quan hệ làm ăn
lâu dài. Hòa giải mang tính chất riêng tư, bí mật góp phần tạo nên sự an tâm, thoải mái,
cởi mở hơn giữa các bên tranh chấp, hạn chế tâm lý được – thua do mất mát thể diện,
uy tín với bạn hàng.
Thứ hai, hòa giải là biện pháp tiết kiệm chi phí, vật chất, thời gian của nhà nước,
xã hôi, của tổ chức kinh tế. Khi có tranh chấp xảy ra, các bên phải huy động nguồn lực,



×