Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Rules based system cai trị theo pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.38 KB, 11 trang )

Đề bài: Phân tích nội dung và ý nghĩa đặc trưng của WTO Rules
based system.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 01/01/1995
trên cơ sở kết quả Vòngđàm phánđa phương Uruguay (1986-1993). Trên nhiều
phương diện, WTO ra đời trên cơ sở tiền thân là GATT - Hiệpđịnh chung về
thuế quan và thương mại được ký kết vào năm 1948 và chấm dứt hiệu lực kể
từ ngày 31/12/19941.
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành Thành viên thứ 150
củaWTO2. Tư cách Thành viên củaWTO cho phép Việt Nam tham gia vào một
sân chơi bình đẳng, tiếp cận với thị trường hàng hóa, dịch vụ của các Thành
viên khác củaWTO trên cơ sở nguyên tắc không phân biệt đối xử, thúc đẩy
thương mại quốc tếđối với hàng hóa và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào
cản giữa các quốc gia, minh bạch và dựa trên luật lệ (Rules – Based system)3.
Trên cơ sở những nguyên tắc này có thể thấyWTO có hai đặc trưng cơ
bản sau:
Thứ nhất làtínhđa phương
Thứ hai là Rules – Based system (dựa trên cơ sở luật lệ).
Với đặc trưng thứ nhất về tính đa phương củaWTO, chúng ta có thể dễ
dàng hiểu nền tảng của đặc trưng này dựa trên Nguyên tắc tối huệ quốc
(MFN) và Nguyên tắc đốixử quốc gia (NT) nhằm tạo ra một sân chơi chung
có sự bình đẳng giữa các Quốc gia Thành viên trong WTO.
1

Nguyễn Bá Diến (2013), Giáo trình công pháp quốc tế, Khoa Luật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Xem Nghị quyết của Quốc hội số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành
lập Tổ chức thương mại thế giới của nước CHXHCN Việt Nam.
3
Xem Tờ trình số 150/TTr-CP của Chính phủ ngày 11/11/2006 về kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới.
2


1


Đặc trưng thứ hai củaWTO là Rules – Based system. Khi nhắc đến đặc
trưng này có rất nhiều người chưa thể hình dung được đặc trưng này được
biểu hiện ra sao. Vì vậy, em xin được trình bày rõ hơn về đặc trưng này
củaWTO qua những nội dung dướiđây.
1.

Rules based system là gì?

WTO luôn khẳngđịnh tôn chỉ hoạt động của mình: “WTO là một tổ
chức được điều hành bởi các thành viên dựa trên cơ sở luật lệ - mọi quyết
định đều được ban hành bởi các thành viên, và các luật lệ đều là kết quả của
việc đàm phán thống nhất giữa các thành viên”4
Luật lệ màWTO sử dụng phải là sự thống nhất của các Thành viên.
Nếu GATT chỉ là một hiệpđịnh thương mạiđa phương, không phải là
một tổ chức. Trong khi đó, WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các cơ
quan có thẩm quyền như Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, cácỦy ban chức
năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Các thành viên tham gia vào hoạt
động củaWTO thông qua pháiđoànđại diện. Các quyếtđịnh quan trọng nhất
củaWTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng (họpít nhất 2 năm một lần)
hoặc tại các cuộc họp củaĐại hội đồng (cấpđại sứ, họp thường xuyên tại Giơne-vơ). Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm
lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp5.
Có thể thấy, các cơ quan củaWTO đều là các cơ quan liên chính phủ
bao gồmđại diện của các nước Thành viên; đều là các cơ quan toàn thể không
mang tính chất hạn chế; mọi quyếtđịnh của các cơ quan này đều thông qua
bằng phương thức đồng thuận. Vậyđiều gì khiếnWTO cóảnh hưởngràng
4



Xem Tờ trình số 150/TTr-CP của Chính phủ ngày 11/11/2006 về kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới.
5

2


buộcđến các quốc gia Thành viên – đó chính là cơ quan giải quyết tranh chấp,
vì một cơ quan giải quyết tranh chấp hiệu quả là yếu tốquyếtđịnh đối với hoạt
động của một tổ chức được vận hành trên cơ sở các luật chơi được thỏa thuận
trước. Cơ sở pháp lý của cơ quan giải quyết tranh chấp hiện nay củaWTO là
Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp củaWTO (DUS) và cơ chế này được xây
dựng trên cơ sở kế thừa và phát triểnán lệ của GATT 1947 dựa trên Điều XXII
và XXIII Hiệpđịnh GATT 1947. NếuWTO có luật chơi chung nhằmđảm bảo
tính công bằng cho các Thành viên nhưng khi xảy ra tranh chấp không có cơ
quan nào đứng ra giải quyết hoặc có cơ quan đứng ra giải quyết tranh chấp
nhưng phán quyết của cơ quan đó lại không có giá trị buộc thi hành với các
bên thì việc các gia nhập vàoWTO không cóý nghĩa gì, luật chơi chung đã
thỏa thuận kia không có hiệu lực trên thực tế.


Như vậy,đặc trưng Rules – Based system củaWTO được

hiểu là các quyếtđịnh của tổ chức này sẽ căn cứ vào luật lệ mà các nước
Thành viên đã thống nhất. Hơn nữađểđảm bảo sự tồn tại của các luật
lệcũng như sự bìnhđẳng của các Thành viên thì cần có một cơ quan giải
quyết tranh chấp hiệu quả.
2.
Nội dung của Rules – Based system

2.1.
Hệ thống văn kiện pháp lý của WTO
Một là, Hiệpđịnh thành lậpWTO, thường gọi tắt là HiệpđịnhWTO
Hai là, Hiệpđịnh chung về thuế quan và thương mại (GATT), chuyên
điều chỉnh thương mại hàng hóa
Ba là, các hiệpđịnh phụ trợ cho GATT (như Hiệpđịnh Nồng nghiệp,
Hiệpđịnh về hàng rào kĩ thuật đối với thương mại, Hiệpđịnh về các biện pháp
đầu tư liên quan đến thương mại, Hiệpđịnh về xácđịnh trị giá hải quan,..)
3


Bốn là, Hiệpđịnh chung về thương mại dịch vụ (GATS), chuyên điều
chỉnh thương mại dịch vụ
Năm là, Hiệpđịnh về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ (TRIPs)
Sáu là, Thỏa thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp
Bảy là, Cơ chế rà soát chính sách thương mại
Tám là, Các hiệpđịnh thương mại nhiều bên (Hiệpđịnh về mua bán máy
bay dân dụng, Hiệpđịnh về mua sắm chính phủ)
Đối với 7 văn kiện pháp lý đầu củaWTO thì cần được sự đồngý của tất
cả các nước Thành viên chấp thuận vàđó chính là nguồn luậtáp dụng đối với
các nước Thành viên khi tham gia vào hoạt động củaWTO. Đây là luật chơi
chung mà chính các Thành viên củaWTOđã tạo dựng lên. Đối với các
hiệpđịnh thương mại nhiều bên thì nó chỉ là luật chơi chung của các bên tham
gia Hiệpđịnh, các Thành viên không tham gia khác không có nghĩa vụ phải
tuân theo. Chỉ những gìđã được các bên đã chấp thuận thìđó mới là nguồn để
giải quyết tranh chấp khi có phát sinh.
Như vậy, WTO đã tạo cho bản thân mình một luật chơi màởđó các
Thành viên củaWTO đều chấp nhận luật chơi chung đó.
2.2.


Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (chính là

Đại hội đồng bao gồm đại diện của các nước thành viên – DSB)
Để luật chơi chung kia thực sự được thực thi trên thực tế thì cần có cơ
chế bảo vệ chúng, hay nói cách khác khi có bất kì một sự vi phạm luật chơi
chung nào từ phía các quốc gia Thành viên thì có một cơ quan đứng ra giải
4


quyết (cơ quan này là bắt buộc phải tìm đến khi có tranh chấp xảy ra) và
quyếtđịnh của cơ quan này có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý đối với chủ thể
vi phạm và chủ thể bị xâm phạm.
Để khẳng định đặc trưng Rules – Based system củaWTO bởi hoạt động
của DSB thông qua những nội dung sau
Thứ nhất,cơ chế giải quyết tranh chấp củaWTO. DSB củaWTO có 2
cấp gồm Ban hội thẩm (Panel) và Cơ quan phúc thẩm (Appellate Body). DSB
không trực tiếp tham gia vào quá trình xét xử tranh chấp mà chỉ là nơi đưa ra
quyếtđịnh chính trị trong giải quyết tranh chấp tạiWTO. Ban hội thẩm và Cơ
quan phúc thẩm giữ vai trò là các thiết chế pháp lý đểđánh giá các khía cạnh
pháp lý của vụ tranh chấp. Nhiệm vụ của Ban hội thẩm là soạn thảo các báo
cáođưa ra cácđánh giá khách quan về vấn đề tranh chấp giữa các bên để trình
lên DBS xem xét thông qua theo nguyên tắc đồng thuân. Tuy nhiên điểm đặc
biệt của nguyên tắc đồng thuận của DBS làở chỗ nguyên tắc này được thực
hiện theo chiều ngược lại với nguyễn tắc đồng thuận thông thường, cụ thể là
quyếtđịnh sẽ được thông qua trừ khi có một sự đồng thuận không thông qua
quyếtđịnh này (hay được gọi là nguyên tắc đồng thuận ngược). Nguyên tắc
này dẫn đến việc mọi quyếtđịnh củaWTO hầu như chắc chắn được thông qua
một khi cơ quan có thẩm quyền khuyến nghị việc thông qua đệ trình dự
thảoquyếtđịnh ra trước các thành viên.

Điểm khác biệt so với cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT là có sự
xuất hiện của Cơ quan phúc thẩm. Thành viên của Cơ quan phúc thẩm là
những người có kinh nghiệm, uy tín về pháp luật thương mại quốc tế và không
đại diện cho lợiích của bất kỳ chính phủ nào. Cơ quan phúc thẩm chỉ xem xét
những vấn đề pháp lý và việc giải thchs luật được đề cập trong báo cáo của
5


Ban hội thẩm. Sau khi xem xét Cơ quan phúc thẩm có toàn quyền giữ nguyên,
sửa đổi hay hủy bỏ các kết luận pháp lý của Ban hội thẩm. Việc hình thành
thêm Cơ quan phúc thẩm làm giảm việcáp dụng sai sót luật của cơ Ban hội
thẩm, từđó góp phần vào việc giải quyết tranh chấp một cách công bằng và
khách quan nhất.
Thứ hai, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp. Về mặt trình tự, thủ tục,
thậm chí thời gian và từng giai đoạn đều đươc WTO quy định một cách chặt
chẽ và rõ ràng. Tóm gọn, theo cơ chế của WTO, một tranh chấp thương mại
được giải quyết lần lượt qua các giai đoạn sau: 1) Tham vấn; 2) Môi giới,
trung gian, hòa giải (được tiến hành trên cơ sở tự nguyện, bí mật và ở bất kỳ
thời điểm nào sau khi phát sinh tranh chấp); 3) Thành lập Ban hội thẩm và
hoạt động của Ban hội thẩm; 4) Thông qua Báo cáo của Ban hội thẩm (do
DSB thông qua); 5) Trình tự phúc thẩm (nếu có yêu cầu); 6) Khuyến nghị các
giải pháp; 7) Thi hành; 8) Bồi thường và trả đũa.
Thứ ba, quy định việc tham gia của bên thứ ba tham gia vào việc giải
quyết tranh chấp
Khoản 2 Điều 10 Thỏa thuận ghi nhận các quy tắc và thủ tụcđiều chỉnh
giải quyết tranh chấp dân sự củaWTO:
“Bất cứ Thành viên nào có quyền lợi đáng kể đối với một vấn đề được
Ban hội thẩm xem xét và đã thông báo quyền lợi của mình cho DSB đều phải
có cơ hội được trình bày vấn đề cho Ban hội thẩm và được trình bày bằng văn
cho Ban hội thẩm. Những văn bản đệ trình này cũng phải được gửi cho các

bên tranh chấp và phải được phản ánh trong bản báo cáo của Ban hội thẩm”

6


Như vậy bên thứ ba có cơ hội được biết việcáp dụng luật của Ban hội
thẩm từđó tích lũy những kinh nghiệm tố tụng cho bản thân nước thứ ba. Hơn
nữa, nếu nước thứ ba không tự tin khi tham gia với tư cách là nguyên đơn thì
quyền lợi của họ vẫn được bảo vệ thông qua cơ chế này.
Thứ tư, quy định một thủ tục riêng khi tham gia giải quyết tranh chấp
dành cho các nướcđang phát triển. Việc này tạo cơ hội thuận lợi để các
nướcđang phát triển có cơ hội tham gia giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền
lợi của họ mà không ngại hay lo lắng về vấn đề sẽ phải hứng chịu những hậu
quả bất lợi từ phía các nước phát triển tham gia vụ kiện (tránh tình trạng cá to
nuốt cá nhỏ).
Thứ năm, tính ràng buộc pháp lý đối với các bên tranh chấp khi
quyếtđịnh giải quyết tranh chấp được thông qua. Theo đó, quyếtđịnh giải
quyết tranh chấp được DSB thông qua có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các
bên tranh chấp. Đểđảm bảo là bên thua kiện sẽ thực hiệnnghiêm túc quyếtđịnh
của DSB và để tránh tình trạng rơi vào im lặng, WTO đề ra một cơ chế theo
dõi và giám sát việc thực hiện quyếtđịnh trọng vòng 30 ngày kể từ ngày thông
qua báo cáo của Ban hội thẩm vàđưa ra khuyến nghị. Nếu hết thời hạn thực
hiện khuyến nghị và thời hạn hợp lý (do không thể thực hiện được khuyến
nghị của Ban hội thẩm) thì Ban hội thẩm sẽ thương lượng với bên thắng kiện
về mức độ bồi thường thiệt hại. Trong vòng 20 ngày kể từ ngày chấm dứt thời
hạn hợp lý mà các bên không đạt được thỏa thuận về mức độ bồi thường thì
bên thắng kiện có quyền yêu cầu DSB cho phépáp dụng các biện pháp trảđũa.
Đểđảm bảo tính hiệu quả của các biệnpháp trảđũa và rút kinh nghiệm, WTO
quy định trong trườnghợp việcáp dụng biện pháp trảđũa mà lĩnh vực bị thiệt
hại là không thực tế hoặc không có hiệu quả thì bên thắng kiện có quyền yêu

cầu DSB cho phép trảđũa trong một lĩnh vực khác (trảđũa chéo). Bằng cách
7


thức này, các phán quyến của Ban hội thẩm được DSB thông qua thực sự phát
huy hiệu lực trên thực tế.
3.

Ý nghĩa của Rules – based system

Thứ nhất, nâng cao tính chất xét xử của cơ chế giải quyết tranh chấp
trong WTO cũng như tăng cường tính ràng buộc của các quyếtđịnh giải quyết
tranh chấp. Đảm bảo cho luật chơi chung củaWTO đượcđảm bảo thi hành trên
thực tế từđó tạo sự công bằng đối với các Thành viên củaWTO cũng nhưđảm
bảo cho sự tồn tại củaWTO với những chức năng đã được quy định.
Thứ hai, cung cấp các thủ tục đa phương giải quyết tranh chấp thay thế
cho các hành độngđơn phương của các quốc gia thành viên vốn tồn tại nhiều
nguy cơ bất công, gây trì trệ và xáo trộn sự vận hành chung của các quy tắc
thương mại quốc tế (giảm tốiđa tình trạng nước to bắt nạt nước nhỏ).
Thứ ba,đảm bảo được tính chất hội nhập kinh tế, bình đẳng củaWTO,
sự tham gia của các nướcđang phát triền có phần tự tin, mạnh dạn hơn khi có
cơ chế giải quyết tranh chấp khá hiệu quả. Điều này khiến họ bảo vệ được
quyền lợi của họ khi có tranh chấp xảy ra.


Tóm lại: Rules – Based system là một đặc trưng của WTO

nó được thể hiện thông qua nguồn luật và cơ chế giải quyết tranh
chấp.Đểđảm bảo cho quyền lợi của các Thành viên từ nước to đến nước
nhỏ thì cần phải có một luật chơi chung vàđược các nước thành viên

chấp nhận. Việc giải quyết tranh chấp chính làđể bảo vệ luật chơi chung
đó. Nếu không tồn tại luật chung của tổ chức thì không thể coi đó là
một tổ chứcđược. Mà không có cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả

8


thì luật chung lại mang tính hình thức, lúc này lẽ công bằng không
đượcáp dụng mà thay vàođó là ai mạnh thì ngườiđó thắng.
Pháp quyền và pháp trị là hai khái niệm rất dễ bị lẫn lộn với nhau, đặc
biệt là trong tiếng Việt. Trong tiếng Anh, pháp quyền là “the rule of law” và
pháp trị là “rule by law”. Dịch ra tiếng Việt, pháp quyền là “sự cai trị của
pháp luật”, và pháp trị là “sự cai trị bằng pháp luật”. Đây là hai khái niệm
rất khác nhau.
Pháp quyền là sáng tạo của người Anh. Người ta cho rằng tư tưởng
pháp quyền hình thành từ Đại hiến chương “Magna Carta” năm 1215. Đây
cũng là một trong những đóng góp lớn nhất của người Anh cho nhân loại.
Bằng chứng là nhiều nước theo pháp quyền đã trở nên giàu có, thịnh vượng
nhất

nhì

trên

thế

giới

Pháp trị là sáng tạo của người Trung Hoa. Nhà tư tưởng của pháp trị được
cho




Hàn

Phi

(281

-

233

TCN).

Tuy nhiên, lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, pháp trị đã không đưa lại
được một sự phát triển vượt bậc và bền lâu như pháp quyền. Bằng chứng là
đất nước Trung Hoa đã tụt hậu rất xa so với các nước theo pháp quyền trong
suốt nhiều thế kỷ. Chỉ đến ngày nay khi trong quá trình cải cách, nhiều yếu tố
của pháp quyền (đặc biệt là quyền tự do tài sản) được tiếp nhận, đất nước
Trung Hoa mới lại vươn lên trở thành một trong những cường quốc hàng đầu
của

thế

giới

hiện

đại.


Pháp quyền khác với pháp trị chỗ nào? Pháp trị là việc vua (hoặc giới cầm
quyền) có quyền ban hành pháp luật để cai trị (hay nói bằng ngôn từ hiện đại
là để quản lý). Mặc dù pháp luật được tuân thủ tuyệt đối, nhưng ban hành
9


pháp luật như thế nào lại là quyền độc đoán của vua (hoặc của giới cầm
quyền).

Pháp

quyền

lại

không

hoàn

toàn

như

vậy.

Trước hết, pháp quyền là việc pháp luật đứng trên tất cả, trên cả nhà nước
(trên cả vua). Và quan trọng hơn nữa, người dân cũng như nhà nước đều bình
đẳng trước pháp luật. Đối với người Anh, vua có quyền của vua, quý tộc có
quyền của quý tộc, thứ dân có quyền của thứ dân. Nếu vua hành xử trong

khuôn khổ các quyền của mình, thì thậm chí người Pháp làm vua Anh cũng
chẳng sao. (Thực tế, đã có thời kỳ người Pháp làm vua Anh). Thế nhưng, nếu
vua xâm phạm đến quyền của quý tộc hoặc của thứ dân, thì những tầng lớp
này sẽ đứng lên lật đổ vua, vì vua đã vi phạm pháp luật.
Thứ hai, pháp quyền công nhận nhiều quy phạm của pháp luật tự nhiên. “Tất
cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”. (Lời của Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ được
Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa). Các quyền mà tạo hóa ban cho con người (các quyền tự
nhiên của con người) được coi là phần cấu thành của Luật Hiến pháp - đạo
luật



hiệu

lực

pháp



cao

nhất.

Thứ ba, việc ban hành pháp luật bị điều chỉnh rất chặt chẽ. Bất cứ luật gì mà
nhà cầm quyền muốn có để dễ bề cai trị đều phải đáp ứng được một loạt các
quy định chặt chẽ về thủ tục lập pháp và đều phải được cơ quan đại diện cho

dân

(Quốc

hội)

thông

qua.

Thứ tư, các cơ quan nhà nước nắm giữ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
10


được thiết kế theo nguyên tắc kiểm soát và cân bằng lẫn nhau để không một
cơ quan nào có thể lạm quyền. Đặc biệt, một hệ thống tư pháp độc lập được
xây dựng để không chỉ nhà nước mới có quyền truy tố người dân, mà người
dân cũng có quyền khởi kiện nhà nước ra trước pháp luật. Hệ thống tư pháp
này còn có thẩm quyền kiểm tra lại các văn bản lập pháp (judicial review) để
chống lại lạm quyền và bảo vệ công lý

11



×