Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật bang giao hảo thoại của ngô thì nhậm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.72 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THỊ VI

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ
NGHỆ THUẬT BANG GIAO HẢO
THOẠI CỦA NGÔ THÌ NHẬM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THỊ VI

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ
NGHỆ THUẬT BANG GIAO HẢO
THOẠI CỦA NGÔ THÌ NHẬM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học

ThS. LÊ THỊ HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2018




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai làm khóa luận, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ
của thầy cô khoa Ngữ Văn, các thầy cô trong tổ bộ môn Văn học Việt Nam, đặc biệt
là ThS. Lê Thị Hải Yến, giảng viên trực tiếp hướng dẫn. Nhân khóa luận được hoàn
thành, chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy cô và các bạn.
Vì thời gian có hạn và cũng là lần đầu tiên làm quen với việc nghiên cứu
khoa học, chắc chắn khóa luận còn nhiều hạn chế. Chúng tôi mong nhận được đóng
góp của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Vi


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ
thuật Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm là kết quả nghiên cứu của bản thân,
có sự tham khảo và kế thừa ý kiến của những người đi trước dưới sự hướng dẫn
khoa học của giáo viên hướng dẫn. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo, các số
liệu kết quả trình bày trong khóa luận là hoàn toàn trung thực, nếu sai tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Vi


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................2
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3
6. Đóng góp của khóa luận..........................................................................................4
7. Cấu trúc của khóa luận............................................................................................4
NỘI DUNG .................................................................................................................5
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................5
1.1. Tình hình lịch sử - xã hội, văn hóa tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII ..................5
1.1.1. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân .....................................................5
1.1.2. Phong trào nông dân rầm rộ - thế kỷ “nông dân khởi nghĩa” ...........................7
1.1.3. Về triều đại Tây Sơn .........................................................................................8
1.1.3.1. Sự ra đời của triều đại Tây Sơn......................................................................8
1.1.3.2. Hoạt động ngoại giao thời Tây Sơn ...............................................................9
1.2. Ngô Thì Nhậm và Bang giao hảo thoại .............................................................12
1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp ........................................................................................12
1.2.1.1. Cuộc đời .......................................................................................................12
1.2.1.2. Sự nghiệp......................................................................................................17
1.2.2. Bang giao hảo thoại.........................................................................................19
Tiểu kết chương 1......................................................................................................20
Chương 2: BANG GIAO HẢO THOẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG...21
2.1. Khẳng định độc lập chủ quyền đất nước............................................................21
2.2. Giữ quan hệ hòa hiếu với nước láng giềng ........................................................27
2.3. Hình ảnh vua Quang Trung................................................................................37
Tiểu kết chương 2......................................................................................................39
Chương 3: BANG GIAO HẢO THOẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
...................................................................................................................................40



3.1. Thể loại, hệ thống văn thể ..................................................................................40
3.2. Lý lẽ, lập luận.....................................................................................................48
3.3. Thủ pháp ngôn từ ...............................................................................................55
Tiểu kết chương 3......................................................................................................59
KẾT LUẬN ...............................................................................................................60
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do khoa học
Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, vương
triều Tây Sơn của Quang Trung - Nguyễn Huệ là một trong những trang sử vẻ vang,
oai hùng nhất. Lịch sử không chỉ ghi nhận những chiến công vang dội trên mặt trận
chống ngoại xâm của phong trào Tây Sơn, mà còn ghi lại những trang sử ngoại giao
hào hùng, chói lọi của triều Tây Sơn trong bang giao với triều Mãn Thanh phương
Bắc. Thành quả ngoại giao to lớn của vương triều Tây Sơn đối với nhà Thanh Trung
Quốc không thể tách rời tư tưởng ngoại giao lỗi lạc của Ngô Thì Nhậm. Đó là tư
tưởng ngoại giao chủ động, dựa trên sức mạnh chính nghĩa và thực lực của dân tộc,
vừa kiên quyết vừa mềm dẻo, linh hoạt, khôn khéo đồng thời biết giữ “thể diện”
nước lớn cho Thanh triều. Nhận định về vai trò của Ngô Thì Nhậm với ngoại giao
thời Tây Sơn, tiến sĩ Trần Ngọc Ánh trong bài báo “Ngoại giao Tây Sơn - Những tư
tưởng đặc sắc và bài học lịch sử” in trên báo Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà
Nẵng có viết: “Với Bang giao hảo thoại, qua ngòi bút sắc bén, vừa đanh thép, kiên
quyết nêu cao chính nghĩa, vừa khéo léo, mềm mỏng, hợp tình hợp lý, Ngô Thì
Nhậm đã thể hiện xuất sắc thiên tài chính trị của vua Quang Trung là khéo bi lẽ mới
dẹp nổi việc binh đao, khi mà nhà Thanh bị đánh thua, nhịn thì thẹn mà báo thù thì
khó. Vị quân sư số một của Quang Trung, đáng được xếp vào hàng nhân vật đứng
ngay sau Nguyễn Trãi trong lịch sử ngoại giao của nước Việt, đáng được liệt vào
những người viết thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời.” [1, 97 - 103].

Tìm hiểu, đi sâu nghiên cứu Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm sẽ giúp
chúng ta không chỉ thấy được giá trị nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm
mà còn hiểu thêm về một trong những trang sử đáng tự hào nhất của mặt trận ngoại
giao và những bài học lịch sử quý giá mà tác phẩm này để lại cho hậu thế. Đó là
những lí do khoa học mà chúng tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài này.
1.2. Lí do thực tiễn
Thực tế hiện nay tác giả Ngô Thì Nhậm được giới phê bình, nghiên cứu quan
tâm và tìm hiểu trên nhiều bình diện nhưng vẫn còn nhiều điều đáng nói. Các sáng

1


tác của Ngô Thì Nhậm có dung lượng khá lớn, tuy nhiên trong giáo trình văn học
trung đại cũng chưa giới thiệu nhiều đến các tác phẩm của ông, đặc biệt là Bang
giao hảo thoại.
Bản thân là một giáo viên, tôi luôn muốn tìm hiểu sâu sắc các tác giả và tác
phẩm của văn học trung đại để có cái nhìn toàn diện về dòng chảy văn học Việt
Nam. Đặc biệt là những tác giả có tư tưởng và tài năng văn học, chính trị, bang giao
lỗi lạc như Ngô Thì Nhậm.
Đây là lí do mà chúng tôi chọn đề tài: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật
Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm. Nghiên cứu đề tài này phần nào thấy được
giá trị của tác phầm, đồng thời chỉ ra được vị trí của nó trong tiến trình văn chính
luận trung đại Việt Nam cũng như thấy được vị trí của Ngô Thì Nhậm trong dòng
chảy văn học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Qua khảo sát, tìm hiểu chúng tôi thấy Bang giao hảo thoại là một đề tài khá
hấp dẫn, tuy nhiên chưa được giới nghiên cứu quan tâm và dụng công phân tích.
Tác phẩm này mới được đề cập đến trong cái nhìn khái quát về ngoại giao thời Tây
Sơn nói chung, hay những đánh giá về tư tưởng ngoại giao của vua Quang Trung,
hoặc những nghiên cứu về thể loại văn chính luận trung đại Việt Nam.

Trong sách Quang Trung anh hùng dân tộc của nhà nghiên cứu Hoa Bằng,
nhà xuất bản Bốn Phương (1944), Bang giao hảo thoại được nhắc đến bên cạnh
những đánh giá về vua Quang Trung và triều đại Tây Sơn. Trong cuốn Cách mạng
Tây Sơn của nhà sử học Văn Tân, nhà xuất bản Sử - Địa (1958), Bang giao hảo
thoại mới chỉ được đề cập đến trong những trang phân tích về quan hệ bang giao
giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc vào những năm 1789 - 1802, đặc biệt là đề
cao công lao và tài năng ngoại giao của vua Quang Trung mà chưa có những nhìn
nhận về vai trò to lớn của Ngô Thì Nhậm trong công cuộc ngoại giao phức tạp ấy.
Một số công trình nghiên cứu về ngoại giao thời Tây Sơn như: năm 1996 có luận án
Tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Nhuận với đề tài Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn
bang giao đi sứ của Phan Huy Ích. Trong đó tác giả đã phân tích, đánh giá về giá trị


nội dung và nghệ thuật các tác phẩm của ông cũng như tài năng của Phan Huy Ích
trong công cuộc bang giao với nhà Thanh, Bang giao hảo thoại và Ngô Thì Nhậm
được nhắc đến bên cạnh những tác phẩm của Phan Huy Ích giúp ngoại giao thời
Tây Sơn thành công mà thôi. Hay trong luận án tiến sĩ năm 2014 của nghiên cứu
sinh Nguyễn Đức Thăng Văn chính luận trung đại Việt Nam - Trung Quốc tiếp biến
và phát triển, tác giả cũng đề cập đến nhiều khía cạnh nội dung và nghệ thuật đặc
sắc của các thể loại thư từ bang giao trong ngoại giao dưới thời trung đại nói chung
và triều đại Tây Sơn nói riêng, Bang giao hảo thoại được đề cập đến trong cái nhìn
khái quát đó.
Vậy chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu nào về giá trị nội
dung và nghệ thuật của Bang giao hảo thoại, đánh giá đúng tài năng của Ngô Thì
Nhậm về quân sự, ngoại giao, tài năng văn chương của ông trong tác phẩm này. Với
thái độ trân trọng và kế thừa những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước,
trong khuôn khổ cho phép, khóa luận xin phép được tiếp tục mở rộng và bổ sung
nhiều ý kiến, quan điểm của bản thân về tập Bang giao hảo thoại của Ngô Thì
Nhậm trong tiến trình văn chính luận trung đại Việt Nam.
3. Mục đích ngiên cứu

Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng đến mục đích sau:
- Góp phần tìm hiểu thêm một tác phẩm thộc thể loại văn chính luận trung đại
Việt Nam, chỉ ra được đặc điểm nội dung và nghệ thuật của tập Bang giao hảo
thoại.
- Qua nhưng đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Bang giao hảo thoại,
khẳng định vì trí, vai trò của tác phẩm nói riêng và của Ngô Thì Nhậm nói chung
trong ngoại giao thời Tây Sơn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Bang giao hảo thoại trong sách Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 3 do Lâm Giang
- Nguyễn Công Việt (chủ biên) (2005), NXB Khoa học Xã hội, từ trang 395 - 853.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu
văn bản văn học, phương pháp nghiên cứu văn học sử. Ngoài ra, luận văn còn sử


dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để khai thác tài liệu liên quan đến lịch sử
bang giao thời Tây Sơn, cuộc đời và sự nghiệp của vua Quang Trung và trí sĩ Ngô
Thì Nhậm; phương pháp phân tích tác phẩm để thấy được giá trị nội dung và nghệ
thuật của Bang giao hảo thoại.
6. Đóng góp của khóa luận
Qua việc khảo sát về tác phẩm Bang giao hảo thoại, luận văn góp thêm một
cái nhìn mới về ngoại giao thời Tây Sơn, vua Quang Trung trên mặt trận ngoại giao
cũng như đánh giá đúng tài năng và công lao của mưu sĩ Ngỗ Thì Nhậm - cận thần
trung thành, trợ thủ đắc lực, tri âm tri kỷ của vua Quang Trung. Đồng thời, ông
cũng được coi là mắt xích quan trọng trong ngoại giao giữa Đại Việt và Trung Quốc
dưới triều Tây Sơn.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa luận gồm
3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung

Chương 2: Bang giao hảo thoại nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Bang giao hảo thoại nhìn từ phương diện nghệ thuật


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tình hình lịch sử - xã hội, văn hóa tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII
Thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng
trầm trọng. Sự tồn tại của hai thế lực phong kiến lớn (Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và
chúa Nguyễn ở Đàng Trong) chính là vật cản trên con đường phát triển của lịch sử
dân tộc. Các thế lực phong kiến này càng ngày càng tha hóa, không ngừng tranh
giành xâu xé nhau đưa đến những cuộc chiến tranh liên miên, gây ra biết bao đau
thương cho dân tộc Việt Nam.
Đời sống của người dân hết sức khổ cực (đặc biệt là người nông dân) vì
chiến tranh, mất mùa, đói kém, nạn tham ô, gánh nặng thuế khóa… Không còn lựa
chọn nào khác, họ buộc phải đứng lên đấu tranh để tự giải phóng cho mình. Trong
thế kỉ này, hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân đã bùng nổ khắp Đàng Ngoài lẫn
Đàng Trong tạo thành một phong trào đấu tranh của nông dân rộng lớn, quyết liệt
làm lung lay hệ thống chính trị của các tập đoàn phong kiến. Đỉnh cao của chíến
tranh nông dân khởi nghĩa thế kỷ XVIII là phong trào Tây Sơn với những cống hiến
vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc.
Với những biến cố như vậy, thế kỷ XVIII được mệnh danh là “thế kỷ nông
dân khởi nghĩa”. Tình hình lịch sử - xã hội Việt Nam thế kỷ này có những đặc điểm
nổi bật sau:
1.1.1. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân
Sự chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ: chiến tranh phong kiến trong
hơn một thế kỉ sau khi nhà Lê sụp đổ đã tạo điều kiện cho các làng xã, địa phương
xa trung ương tách khỏi sự quản lý trực tiếp từ nhà nước và nâng cao tính tự trị.
Trước tình hình đó, năm 1664 nhà nước phải ban hành phép “Bình lệ” để có thể thu
thuế. Tuy nhiên, do bấy giờ nhà nước chỉ đánh thuế ruộng công, nên số hộ tăng

giảm thất thường, ruộng đất dần lọt vào tay các nhà hào phú. Cường hào địa chủ thi
nhau vơ vét, chiếm đoạt ruộng đất của dân và còn làm lũng đoạn ruộng đất công
vốn đã bị nhà nước cắt xén nhiều.


Vì lý do trên, trong mấy chục năm cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII đã
diễn ra 9-10 trận đói lớn, cùng với đó hình thành những địa chủ lớn có hàng nghìn
mẫu ruộng. Tình hình nghiêm trọng đến mức, năm 1728, chúa Trịnh Cương đã phải
kêu lên “Ruộng đất rơi hết vào các nhà hào phú, còn dân nghèo thì không có một
miếng đất cắm dùi.” [25, 393-394]. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở đồng bằng
mà còn diễn ra ở cả những miền thượng du, bọn quyền thế làm văn khế giả để
chiếm đoạt ruộng đất của dân cày, buộc người dân phải bỏ đi lưu tán, cuộc sống vô
cùng khổ cực.
Một tình trạng nổi bật nữa có thể kể đến là: do hậu quả của các cuộc chiến
tranh phong kiến, cát cứ, nhiều người đã tình nguyện cúng ruộng đất tư của mình cho
làng xã hay cho chùa, với hi vọng được thờ cúng sau khi qua đời (gọi là ruộng hậu).
Từ đó, làng xã trở thành chủ một số ruộng đáng kể. Với tình trạng như vậy, năm
1722, chúa Trịnh đã thực hiện một cuộc cải cách về chế độ tô thuế, bắt đầu đánh thuế
ruộng tư. Tuy nhiên, khi thực hiện, nhà nước lại quy định miễn thuế ruộng tư cho
quan lại theo thứ bậc, thành ra ruộng đất của quan lại, địa chủ lại ngày càng tăng lên.
Cuộc sống của nhân dân vốn không được cải thiện mà ngày càng khổ cực.
Mâu thuẫn, đối kháng giai cấp trở lên quyết liệt hơn, năm 1740 Trịnh Doanh
thực hiện chính sách “tỉnh điền” với hi vọng “quân bình giàu nghèo”, “san đều thuế
dịch”. Tuy nhiên, việc làm đó không cải thiện được tình hình là bao, bởi việc khám
đạc ruộng đất chỉ thêm phiền nhiễu, nạn trộm cướp vẫn hoành hành chưa được giải
quyết. Sự phát triển của chế độ tư hữu địa chủ về ruộng đất đã đạt đến đỉnh cao, ảnh
hưởng to lớn đến đời sống xã hội.
Bộ máy quan lại thời Lê - Trịnh ở đầu thế kỷ XVIII không còn được như
trước nữa. Để thực hiện chính sách chuyên quyền, nắm hết quyền hành trong tay,
phủ chúa đã thay 3 phiên cũ trước đây thành 6 phiên mới (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình,

Công), mỗi phiên gồm 60 người, phụ trách chính những hoạt động của các bộ. Số
lượng quan lại tăng lên, bộ máy quan lại cồng kềnh. Bãi bỏ chế độ lộc điền cũ, nhà
Lê - Trịnh đặt ra chế độ ban cấp xã dân lộc cho các quan, trực tiếp đặt gánh nặng
phú dịch lên xã dân. Khi đặt chế độ thuế khóa ruộng đất, mọi chính sách của nhà
nước đều bất lợi và đè nặng lên người dân. Khiến đời sống của nông dân ngày càng
khổ cực.


Đói kém xảy ra liên miên, nhu cầu chi tiêu của nhà nước ngày càng gia tăng,
nhân dân không nộp được thuế phải bỏ đi lưu tán. Lúc này nhà nước lại đặt ra lệ
mua quan bán tước để thu tiền, thóc; không chỉ thế còn đặt “tiền thông kinh” (cứ
nộp tiền là được vào thi Hương). Điều này dẫn đến tình trạng khoa cử suy đồi, quan
lại thối nát tham nhũng ngày càng gia tăng.
Trong tình trạng đó, thay vì các chúa tập trung giải quyết tình hình, quan tâm
đến đời sống của nhân dân thì chính các chúa lại làm gia tăng sự khổ cực cho người
dân bằng việc xây dựng các chùa chiền, cung tẩm…
Do bất lực trong việc quản lý và bảo về các công trình thủy lợi, chính vì vậy
nhà nước Lê - Trịnh đã bỏ mặc cho quan lại các địa phương thu tiền của người dân
và thuê người làm. Bọn chúng thừa cơ hội nhũng nhiễu nhân dân, hạch sách, tham
ô, vơ vét tiền của không kể siết. Lụt lội, mất mùa, đói kém xảy ra liên miên trong
suốt các năm từ 1690 đến năm 1729, thảm cảnh xảy ra khi dân nghèo phải ăn vỏ
cây, rau cỏ, lá cây, thây chết đói đầy đường, thôn xóm tiêu điều.
Thiên tai, sản xuất nông nghiệp chỉ là một trong nhiều nguyên nhân đẩy nhân
nhân đến thảm cảnh đói khổ. Chính chính sách thuế khóa nặng nề của nhà nước mới
là nguyên nhân lớn gây ra sự cực khổ của người dân. Khắp nơi làng xóm điêu tàn,
kinh tế suy sụp, người nông dân lưu tán hoặc chết đói, tha phương cầu thực hoặc
dùng chút lực tàn cuối cùng để khai phá đất hoang hay canh tác trên các thửa ruộng
bỏ hóa của các hộ lân cận.
Cuối cùng, khi tình hình không thể cứu vãn được nữa, “tức nước vỡ bờ”, họ
đành nổi dậy chống phá, lật đổ giai cấp cường hào ác bá và nhà nước phong kiến.

Phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp mọi miền, trở thành xu thế thời đại này.
1.1.2. Phong trào nông dân rầm rộ - thế kỷ “nông dân khởi nghĩa”
Bước sang thế kỷ XVIII, đặc biệt là giữa thế kỷ XVIII, phong trào nổi dậy
của nhân dân diễn ra ở khắp nơi. Năm 1737, có cuộc nổi dậy của nhà sư Nguyễn
Dương Hưng ở vùng Sơn Tây. Năm 1738, có cuộc khởi nghĩa do Lê Duy Mật ở
Thanh Hoá, cuộc khởi nghĩa này duy trì được đến năm 1770. Năm 1740 - 1741 có
cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh Thoan, thủ lĩnh Thiều lãnh đạo ở Hưng Hoá. Ở Sơn Tây
có cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Tương từ năm 1741 đến năm 1752. Hay Toản Cơ


lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Lạng Sơn từ năm 1740 đến 1742. Ngoài ra còn có các
cuộc khởi nghĩa khác ở vùng trung tâm đồng bằng bắc bộ như: Nguyễn Tuyển,
Nguyễn Cừ, Vĩ Trác Oánh, Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, Nguyễn
Danh Phương (1741 - 1751), Nguyễn Hữu Cầu (1741 - 1751), Hoàng Công Chất
(1739 - 1769). Mặc dù hầu hết các cuộc khởi nghĩa này đều thất bại, nhưng ít nhiều
nó đã góp phần làm cho bộ máy chính tri của chúa Trịnh ngày một suy tàn và sau
đó bi kết thúc bởi cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ.
1.1.3. Về triều đại Tây Sơn
1.1.3.1. Sự ra đời của triều đại Tây Sơn
Nhà Tây Sơn được ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Ở Đàng Ngoài thế
lực họ Trịnh ngày một suy yếu, mệt mỏi bởi các cuộc khởi nghĩa liên miên, bản thân
nội bộ họ Trịnh cũng lục đục chia rẽ. Bên cạnh đó thế lực họ Trịnh đã từ lâu không
thể kiểm soát nổi họ Nguyễn ở Đàng Trong, nên lúc này họ Trịnh không còn thời
gian chú ý đến các việc xảy ra ở Đàng Trong nữa. Trong khi đó ở Đàng Trong, tuy
các cuộc khởi nghĩa không nhiều nhưng đúng lúc đó nhà Nguyễn rơi vào cảnh suy
tàn dưới tay của Trương Phúc Loan. Chính vì thế, sau khi cuộc khởi nghĩa do
Nguyễn Nhạc phát động với khẩu hiệu “diệt Trương Phúc Loan phò chúa Nguyễn”
đã nhanh chóng được người dân ủng hộ, khiến cho cuộc khởi nghĩa Tây Sơn từ một
cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ bỗng chốc gặt hái được nhiều thành công. Trong khoảng
thời gian từ

1771 đến 1789, không chỉ dẹp tan chế độ Trịnh - Nguyễn mà đội quân Tây Sơn với
sức mạnh phi thường đã đánh tan được các cuộc ngoại xâm của Trung Hoa.
Trước những thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự, năm Mậu Tuất (1778),
Nguyễn Nhạc tự lập làm Hoàng đế lấy là năm đầu niên hiệu Thái Đức, gọi thành Đồ
Bàn là thành Hoàng Đế. Đồng thời phong cho Nguyễn Lữ là Tiết chế, phong cho
Nguyễn Huệ làm Long tướng Tướng quân. Như vậy, có thể nói giai đoạn này quân
Tây Sơn đã dần hình thành một vương triều phong kiến chứ không còn mang dáng
dấp của một cuộc khởi nghĩa nông dân nữa, trong đó những quyền lợi của mỗi cá
nhân cũng được phân định theo ngôi thứ.


Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ một lần nữa đại thắng tại
Cần Giờ, quân họ Nguyễn phải chạy ra đảo Côn Lôn. Năm Giáp Thìn (1784),
Nguyễn Vương phải chạy sang Xiêm cứu viện nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh cho
đại bại.
Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Huệ tiếp tục phản công chiếm đuợc
thành Phú Xuân, sai người mang thư về cho Nguyễn Nhạc nói dẫn thủy quân tiến
thẳng ra Đàng Ngoài, trong vòng một tháng đã đánh tan quân Trịnh. Trong suốt
khoảng thời gian từ năm 1785 đến 1786 Nguyễn Huệ thực sự phát huy đuợc vai trò
của mình trong việc đánh tan giặc ngoại xâm và tiêu diệt hai tập đoàn Trịnh Nguyễn. Không dừng ở đó, sau khi dẹp tan chế độ họ Trịnh và trao quyền lại cho
nhà Lê chẳng bao lâu, năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ một lần nữa phải kéo
quân ra Bắc để dẹp loạn. Lúc này để giữ yên Đàng Ngoài vì bộ máy chính quyền
nhà Lê thực sự đã suy yếu không còn sức để vực dậy được nữa, nên Nguyễn Huệ đã
cho Ngô Văn Sở trấn giữ Thăng Long, đồng thời chiêu mời các sĩ phu tài giỏi ở Bắc
Hà như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thế Lịch, Phan Huy Ích, Trần Bá Lãm… giúp
mình giữ yên đất nước trên các mặt trận ngoại giao cũng như chiến trận.
1.1.3.2. Hoạt động ngoại giao thời Tây Sơn
Trong lịch sử Việt Nam, nhà Tây Sơn tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng để lại một
vết son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cả về quân sự
lẫn nghệ thuật ngoại giao. Ngay từ những buổi đầu trứng nước, dưới sự lãnh đạo tài

tình và khéo léo của Nguyễn Huệ, nhà Tây Sơn đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Điều đáng chú ý hơn cả, với vai trò là một người lãnh đạo đất nước, vấn đề
mà Nguyễn Huệ luôn quan tâm, đó là việc tránh cho dân không bị rơi vào cảnh
chiến tranh, tận dụng cơ hội, tranh thủ xây dựng đất nước vững mạnh. Chính vì thế
ông đã có chính sách ngoại giao khôn khéo với nhà Thanh. Quan điểm này đã được
thể hiện rất ro trong lời nói của Nguyễn Huệ như sau: “Chẳng qua 10 ngày là có thể
đuổi được người Thanh, nhưng nghĩ nó là nước lớn gấp 10 nước mình, sau khi thua
trận ắt lấy làm hổ thẹn mà cố báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt, thật


không phải phúc cho dân, lòng ta không nỡ làm vậy. Tới lúc đó chỉ có một cách nói
thật khéo thì mới ngăn được cái ngòi chiến tranh” [22, 372].
Qua đây ta thấy thêm tình cảm yêu quý dân của Nguyễn Huệ, đồng thời thấy
được cả trách nhiệm của ông trong việc xác định phương thức ngoại giao. Đối với
nhà Thanh, một kẻ thù mạnh nhất lúc bấy giờ, việc khôn khéo trong xử lý khi nước
nhà vẫn còn đang chìm trong thù trong giặc ngoài là một điều hết sức khôn ngoan.
Để có thể có một chiến lược lâu dài ra sức củng cố xây dựng đất nước, ông cho rằng
chỉ có sức mạnh nội lực mới thực sự là chỗ dựa của đất nước. Chính sách ngoại giao
dù khôn khéo đến đâu nhưng nền kinh tế không đủ mạnh thì không thể đem lại nền
hòa bình thực sự và lâu dài. Điều này được thể hiện khi Nguyễn Huệ ra Tam Điệp
đã từng nói với Ngô Thì Nhậm: “Cứ để cho ta mười năm nữa, nước ta giàu dân ta
mạnh, thì ta có sợ gì chúng” [22]. Cuộc ngoại giao đầu tiên giữa Nguyễn Huệ với
nhà Thanh không phải sau khi nhà Tây Sơn chính thức được nhà Thanh công nhận,
mà ngay từ khi Tôn Sy Nghị đưa quân sang xâm lược với danh nghĩa giúp nhà Lê
thì Nguyễn Huệ đã có những động thái ngoại giao quan trọng.
Khi sắp kéo quân sang Đại Việt, Tôn Sy Nghị cho người đưa thư loan báo:
“Ai bắt sống được Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem nộp sẽ được công đầu”. Đây
thực chất là mục đích phô trương thanh thế, cũng như muốn thị uy với dân Đại Việt
của Tôn Sy Nghi ̣. Y đã đưa ra một chỉ dụ hòng mượn tay của những kẻ phản bội để
giết anh em nhà Tây Sơn một cách dễ dàng, từ đó có thể nhanh chóng xâm lược Đại

Việt.
Sau khi chiếm được Thăng Long một cách dễ dàng, Tôn Sĩ Nghi vô cùng
hống hách. Hiểu ro được vấn đề này, Nguyễn Huệ một mặt củng cố lòng tin cho
quân sy để chiến đấu chống quân Thanh, một mặt “Để nuôi lòng kiêu căng của giặc,
vua Quang Trung vừa cho gấp rút tiến quân vừa cử một sứ đoàn gồm 8 người đi
theo Trần Danh Bính đến gặp Tổng đốc họ Tôn với ba đạo bẩm văn (một của Lê
Duy Cẩn, một của các cựu thần nhà Lê, một của nhân dân) bày tỏ sự tình phải thay
nhà Lê và ngỏ ý "cung thuận" với "Thiên triều", đồng thời nhà vua lại nộp trả bọn
tuần dương binh của nhà Thanh có bốn chục người bị tướng Tây Sơn bắt được khi
còn đóng ở Thăng Long. Tôn Sy Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam toàn thể


nhân viên sứ đoàn lại, rồi truyền hịch kể tội vua Quang Trung và cho biết sẽ bắt nhà
vua cùng đánh tới Quảng Nam cho sạch cả gốc lẫn ngọn”.
Chính vì thế sau chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, Nguyễn Huệ đã rất khôn
khéo nhìn nhận ro tình hình trong nước lúc bấy giờ không thể tiếp tục gây chiến
hoặc có thêm bất kỳ cuộc chiến nào với nhà Thanh, nên Nguyễn Huệ đã sai nguời
sang gặp Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp là Tả Giang Binh bị đạo để mở
đường cho cuộc giảng hòa. Về phía nhà Thanh sau cuộc bại trận của Tôn Sy Nghị,
các quan tướng nhà Thanh cũng rất e ngại thế mạnh của Đại Việt, đặc biệt là Phúc
Khang An và Thang Hùng Nghiệp cũng không muốn gây chiến với Đại Việt nữa.
Nên khi đoàn sứ giả của Đại Việt sang đã rất vui mừng và tận tình giúp đỡ. Thậm
chí ngay cả sau này mọi thuận lợi của Nguyễn Huệ có được cũng do sự giúp đỡ của
Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp.
Ngoài việc cho sứ giả sang gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng để dọn đường cho
công việc giải hòa và cầu phong vương, ở trong nước Nguyễn Huệ cũng thực thi
những chính sách tạo nên uy tín và thể hiện thiện chí hòa hữu với nhà Thanh. Cụ thể
đối với đám tàn quân của nhà Thanh, Nguyễn Huệ đã nghiêm cấm quân lính và
người dân truy giết, đồng thời cho phép quân Thanh được ra đầu thú. Đối với những
binh lính nhà Thanh sau khi ra đầu thú còn được cấp lương ăn, quần áo mặc chờ

ngày trao trả về nước.
Với những chính sách nhân đạo của Nguyễn Huệ và được sự giúp đỡ của
Tổng đốc Lưỡng Quảng, nhà Thanh đã chấp nhận phong vương cho Nguyễn Huệ,
đồng nghĩa với việc nhà Thanh công nhận Đại Việt chính thức có một vương chủ
mới. Đây được coi là một trong những thắng lợi lớn trên mặt trận ngoại giao của
nhà Tây Sơn với nhà Thanh. Điều đáng chú ý hơn nữa, khi Nguyễn Huệ từ chối
sang Trung Quốc nhận phong vương theo thông lệ thì nhà Thanh đã cho sứ thần
sang Đại Việt để thực hiện việc phong vương cho Nguyễn Huệ. Lần thứ hai Nguyễn
Huệ từ chối ra Thăng Long nhận phong vương với lý do sức khỏe không tốt, thì nhà
Thanh lại một lần nữa nhún mình đến tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn
Huệ. Có thể nói, mặc dù Nguyễn Huệ trên danh nghĩa chấp nhận triều kiến nhà
Thanh, nhưng trên thực tế, nhà Thanh luôn bị động trước những mưu tính khôn


khéo của Nguyễn Hụê. Chính vì thế mà nhà Thanh hết lần này đến lần khác phải
nhượng bộ những yêu cầu của Nguyễn Huệ, điều mà trong lịch sử Việt Nam trước
đây chưa bao giờ làm được. Thậm chí ngay việc sang dự lễ bát tuần của Càn Long,
Nguyễn Huệ cũng không đi mà sai người đóng giả đi thay. Sau những thành công
kể trên của nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã tiếp tục thực hiện thêm những chính sách
phản kháng của mình với nhà Thanh. Cụ thể Nguyễn Huệ yêu cầu nhà Thanh bỏ tục
cống người vàng, và mở chợ buôn bán giao thương tại Cao Bằng và Lạng Sơn. Tiếp
đó, năm 1792 Nguyễn Huệ còn cử Vũ Văn Dũng làm Chánh sứ mang biểu sang cầu
hôn công chúa nhà Thanh và đòi lại vùng đất Lưỡng Quảng. Thật đáng tiếc ngày 16
tháng 9 năm 1792, Nguyễn Huệ đột ngột qua đời khiến cho những kế hoạch còn
dang dở của ông không thực hiện được.
Có thể nói sau 15 năm khởi nghĩa đánh Nam dẹp Bắc, quân Tây Sơn đã hoàn
thành một sứ mệnh to lớn, thay đổi tình tình đất nước trên mọi phương diện: đánh
đổ 3 tập đoàn phong kiến thống trị Nguyễn, Trịnh, Lê; làm chủ cả đất nước. Mặc dù
sự nghiệp của phong trào Tây Sơn chưa trọn vẹn do thế lực của nhà Lê còn lay lắt
và trong bước đường cùng đã cầu cứu nhà Thanh “cong rắn cắn gà nhà”; tuy nhiên

phong trào và những chính sách và thành tựu to lớn mà nhà Tây Sơn đạt được đã
ghi dấu trong sử sách và trong lòng dân tộc những dấu son sáng chói. Bên cạnh đó,
phong trào cũng làm nổi bật tài năng, đức độ của vị tướng tài, anh hùng giải phóng
dân tộc - Quang Trung (Nguyễn Huệ), cùng với đó là hàng loạt các trí thức đã góp
phần to lớn vào những thành tựu của đất nước trong giai đoạn này. Họ không chỉ
góp sức vào công cuộc ổn định tình hình chính trị, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, vì
nhân dân; mà bằng tài năng họ đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm văn chương có giá
trị cả về nội dung và nghệ thuật. Trong đó không thể không kể đến tác phẩm Bang
giao hảo thoại của trí sĩ Ngô Thì Nhậm.
1.2. Ngô Thì Nhậm và Bang giao hảo thoại
1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp
1.2.1.1. Cuộc đời
Ngô Thì Nhậm sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần, tức ngày 25 tháng 10
năm 1746, tại làng Tả Thanh Oai, tục gọi là làng Tó, trấn Sơn Nam (nay thuộc


huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Thuở nhỏ có tên là Phó, sau đổi thành
Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên (khi nghiên cứu Thiền học ông lấy đạo hiệu
Hải Lượng).
Ngô Thì Nhậm đỗ Tiến sĩ năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), làm quan tới Đốc
đồng Kinh Bắc, rồi thăng tới chức Công bộ Hữu thị lang. Năm 29 tuổi - 1775 Ngô
Thì Nhậm ra phụng sự nhà Tây Sơn và được Nguyễn Huệ trọng dụng, trao cho chức
Thị lang Bộ Công, tước Tình Phái hầu, sau thăng đến chức Thượng thư Bộ Binh.
Ông mất ngày 16 tháng 2 năm Quý Hợi (tức ngày 9 tháng 3 năm 1803).
Cuộc đời của Ngô Thì Nhậm có những nét cơ bản như sau:
Ngô Thì Nhậm là con trưởng của Ngô Thì Sy (1726-1780), tên tự là Thế
Lộc, hiệu Ngọ Phong, biệt hiệu Nhị Thanh cư sỹ. Ngô Thì Sy có tài, từ chương lại
nổi tiếng nhưng nhiều năm thi không đỗ, vì vậy gia cảnh đã nghèo túng lại càng
nghèo túng hơn. Đến khoa thi năm Nhâm Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 12 (1752),
ông lại thi trượt, tuy nhiên được Minh Đô Vương Trịnh Doanh mến tài cho làm một

chức nhỏ Thiêm sai tri Công phiên ở Phủ Chúa. Nếu như người cha Ngô Thì Sy 7
tuổi đi học, 8 tuổi làm được văn, 9 tuổi biết làm thơ, 11 tuổi mồ côi cha phải theo
học ông nội Đan Nhạc công (tức Ngô Trân), thì Ngô Thì Nhậm 7 tuổi cũng đi học
và đến năm 11 tuổi cũng được cụ nội Đan Nhạc công dạy bảo. Chỉ 2 năm sau đó,
Ngô Thì Nhậm đã đọc thông các loại sách Kinh, Truyện, Sử và Tính lý; đến năm 16
tuổi (tức năm Tân Tỵ - 1761) cụ nội Đan Nhạc qua đời thì Ngô Thì Nhậm mới học
với phụ thân Ngô Thì Sỹ. Vốn thiên tư thông minh, lại chăm chỉ học hỏi, nên mới
16 tuổi Ngô Thì Nhậm đã soạn sách Nhị thập thất sử toát yếu (đây là sách chủ yếu
dùng trong học tập). Năm 17 tuổi, Ngô Thì Nhậm trải qua 2 lần sát hạch ở trường
đều đạt loại ưu. Cùng năm này, mẹ ông qua đời ở tuổi 33, để lại 5 người con.
Năm 1763 (năm Quý Mùi), Ngô Thì Nhậm 18 tuổi, người cha Ngô Thì Sy
được chúa Ân Vương Trịnh Doanh, đặc cách cho tiến triều, trao cho chức Cấp sự
trung Bộ Công. Đến năm sau, 1764 (năm Giáp Thân) trao cho chức Giám sát Ngự
sử đạo Sơn Tây, và chỉ vài tháng sau đó đã thăng đến chức Đốc đồng xứ Thái
Nguyên (Hào mân ai lục). Từ đây gia đình Ngô Thì Sy mới dần thoát khỏi cảng


nghèo khó, và cũng năm này Ngô Thì Sy lấy vợ kế, bà đưa 4 người con chồng đến
nhậm sở ở với chồng tại Sơn Tây. Lúc này chỉ còn lại Ngô Thì Nhậm ở nhà với
người vợ mới cưới là Ngô Thị Anh, tiếp tục học tập.
Năm 1766 (năm Bính Tuất), Ngô Thì Nhậm 20 tuổi, ông đã cùng Lưu Hi Trí
(người cùng ấp, đỗ đầu thi Hương khoa Ất Dậu), đến theo học thầy Đan Sy là Tham
chính Thanh Hóa; và cũng năm đó phụ thân ông - Ngô Thì Sy thi đậu Hoàng giáp
(khoa Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 - 1766).
Năm 1771 (năm Mậu Tý), Ngô Thì Nhậm 23 tuổi, ông thi Hương đậu giải
Nguyên, năm sau ông lại đỗ Sy vọng, được bổ chức Hiến sát phó sứ Hải Dương
(hàm Chánh thất phẩm). Ngô Thì Nhậm là một người thanh liêm, giản dị; khi rỗi
việc ông mở lớp dạy học, học trò theo học rất đông.
Năm 1771 (năm Tân Mão), Ngô Thì Sy làm Tham chính Nghệ An, tư đồ
Hoàng Ngũ Phúc ghen ghét, ghép ông vào tội gian lận ở trường thi Hương, bị cách

chức tước mất mấy năm liền. Cùng năm đó, vợ kế của Ngô Thì Sy qua đời khi ông
đang ở Nghệ An. Mọi việc thuốc thang lúc đau ốm và tang ma khi mất của mẹ kế
đều Ngô Thì Nhậm một tay lo liệu. Sau đó, Ngô Thì Nhậm cũng xin cáo quan về
quê với lý do sớm hôm phụng dưỡng cha, năm đó ông 26 tuổi.
Năm 1772 (năm Nhâm Thìn), Ngô Thì Nhậm dự khảo khóa ở Quốc Tử
Giám, đỗ hạng ưu, nhưng lấy lý do ốm, cố từ chối không ra làm quan.
Năm 1775 (năm Ất Mùi), Ngô Thì Nhậm thi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến Sy
xuất thân, đứng hàng thứ 5, khi đó ông vừa tròn 30 tuổi. Sau khi thi đỗ ông được bổ
làm Hộ bộ Đô cấp sự trung, năm sau thì thăng đến chức Giám sát Ngự sử sạo Sơn
Nam, lại được làm quan Giám khảo trường thi ở Hải Dương.
Đến năm 1778 (năm Mậu Tuất), Ngô Thì Nhậm được thăng chức Đốc đồng
Kinh Bắc. Chức Đốc đồng một trấn, dưới chức Trấn thủ một bậc, là chức phó, có
nhiệm vụ tra xét ngục tụng. Năm đó phụ thân ông cũng nhậm chức Đốc trấn Lạng
Sơn. Hai cha con cùng đi nhậm chức một ngày (Ngô gia thế phả). Cùng năm đó,
Ngô Thì Nhậm còn kiêm giữ chức Đốc đồng Thái Nguyên. Tại đây, ông đã cùng
cha phối hợp với Trấn thủ Tuân Vãng hầu, đánh dẹp tại vùng Vũ Nhai, và cũng năm
đó ông soạn xong tập Công vụ thành thư. Năm 1779 (năm Kỷ Hợi), Ngô Thì Nhậm


được thăng chức Đông các hiệu thư, phụng mệnh hiệp đồng với Trấn thủ Tuyên,
Thái đánh dẹp các cuộc nổi dậy của Hoàng Văn Đồng ở Tuyên Quang. Ít lâu sau
ông lại được phái đi kinh lược ở mỏ bạc Tống Tinh. Năm 1780 (năm Canh Tý) trở
về, ông dâng sớ về phương sách thu thuế ở xưởng bạc, được chúa Trịnh Sâm khen
ngợi, ban thưởng rất hậu. Gần cuối năm đó xảy ra vụ án tranh đoạt ngôi chúa, người
đời sau gọi là “vụ án năm Canh Tý”. Cuối tháng 9 cùng năm đó, phụ thân ông bị
cảm tại động Nhị Thanh (Lạng Sơn) và không lâu sau thì qua đời.
Năm 1782 (năm Nhâm Dần), trong kinh có biến, Trịnh Sâm qua đời, những
người có liên quan ít nhiều đến vụ án năm Canh Tý hoặc bị giết, hoặc bị bắt giam,
tịch thu gia sản… Ngô Thì Nhậm vì bị dư luận ghép cho đã dính líu đến vụ án năm
Canh Tý, đồng thời lại là thầy dạy của Trịnh Tông nên lo lắng không bảo toàn được

tính mạng. Vì vậy ông phải lánh về quê vợ am Lê Trạch, xã Đội Trạch, trấn Sơn
Nam (nay là Vũ Thư, Thái Bình). Tai đậy, ông nương nhờ tại nhà người em vợ là
Đồng Lạc thị trong gần 4 năm trời (1782-1786).
Nhà Lê sụp đổ, năm 1788 (năm Mậu Thân), Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai,
xuống lệnh tìm kiếm quan lại cũ của triều đình Lê - Trịnh ra giúp việc nước. Ngô
Thì Nhậm đã đón nhận ngay chính sách trọng dụng này của Nguyễn Huệ - thái độ
trái ngược hẳn với các cựu thần nhà Lê khác như các Tiến sĩ: Nguyễn Nha, Trần
Danh Án, Ninh Tốn… Ngô Thì Nhậm được Nguyễn Huệ giao cho chức Hữu Thị
lang Bộ Công, tước Tình phái hầu, cùng với Vo Văn Ước giám sát tất cả các quan
văn vo nhà Lê, còn Nguyễn Huệ lại trở về Phú Xuân để lo công việc trong Nam.
Công việc đầu tiên mà Ngô Thì Nhậm làm để đáp lại lòng mong mỏi, tin
tưởng của Nguyễn Huệ là làm sao thuyết phục được các danh sy trí thức Bắc Hà
sớm nhận ro thời thế mà dốc sức phụng sự nhà Tây Sơn. Đó là việc làm quan trọng
bậc nhất lúc này. Bởi Bắc Hà đang trong tình trạng rối ren, lòng người chưa ổn
định, vua Chiêu Thống chạy khỏi Thăng Long (sử sách gọi là “xuất Đế”), cùng với
một số trọng thần thân cận tìm cách trung hưng nhà Lê một lần nữa. Trong đó có rất
nhiều các nhà khoa bảng nổi tiếng như: Trần Công Xán, Bùi Huy Bích, Phạm Quý
Thái…có cả em ruột của Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Chí. Trước tình hình phức tạp
ấy, bằng tài năng và khả năng thuyết phục, sự nhạy bén; Ngô Thì Nhậm đã không


ngần ngại vạch ra cho họ thấy xu thế tất yếu của lịch sử. Từ đó ông đã thuyết phục
được nhiều người về với nhà Tây Sơn như Đoàn Nguyễn Tuấn, Vo Huy Tấn, Phan
Huy Ích… Chính sách thu phục người tài, không phân biệt người cũ - người mới,
đại đoàn kết, cô lập kẻ thù, chú trọng thu phục nhân tâm về một mối của Nguyễn
Huệ đã được Ngô Thì Nhậm thực hiện một cách xuất sắc, góp phần quan trọng vào
việc củng cố nền chính trị ở Bắc Hà, tạo tiền đề thuận lợi sau này chống giặc ngoại
xâm, giành những thắng lợi huy hoàng.
Tháng 10 năm Mậu Thân (1788), lấy cớ “xuất Đế cầu viện” để “hưng diệt, kế
tuyệt” (dấy nước đã bị diệt, nối lại dòng đã tuyệt), Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sy

Nghị đã đem 29 vạn quân và hàng chục vạn dân phu phục dịch, vượt biên giới, tiến
sâu vào nội địa nước ta với âm mưu và dã tâm xâm lược. Trong những tháng ngày
đó, Ngô Thì Nhậm đã dốc hết sức lực, tài năng phụng sự cho nhà Tây Sơn, góp
phần quan trọng vào chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789).
Sau chiến thắng năm 1789, khoảng đầu tháng 3 năm Kỷ Dậu, Nguyễn Huệ
trở lại Phú Xuân, giao mọi việc bang giao với nhà Thanh cho Ngô Thì Nhậm và
Phan Huy Ích phụ trách. Ngô Thì Nhậm cũng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quan
trọng này, vừa thuyết phục được nhà Thanh không “hổ thẹn” mà báo thù để tránh
được nạn binh đao, lại tạo điều kiện cho quân ta có thời gian củng cố về mặt quân
sự ngày càng hùng mạnh.
Với những đóng góp to lớn về mặt ngoại giao như vậy, Ngô Thì Nhậm được
phong chức Binh bộ Thượng thư. Năm sau, năm Tân Hợi (1791), ông lại được
thăng làm Thị lang đại học sỹ, ban Dực vận công thần.
Năm Nhâm Tý (1792), Ngô Thì Nhậm kiêm chức Quốc sử thự Tổng tài,
nhưng vẫn tiếp tục các công việc về ngoại giao. Cùng năm đó, ngày 29 tháng 7
(nhuận), Quang Trung lâm bệnh đột ngột qua đời.
Tháng 2 năm sau (1793) Ngô Thì Nhậm lãnh chức Chánh sứ sang nhà Thanh
báo tang và cầu phong cho vua mới Quang Toản. Quang Trung mất, từ đây Ngô Thì
Nhậm mất đi người hiểu mình, biết đến tài năng và tin dùng mình. Quang Toản lên
ngôi khi mới 15 tuổi, vì vậy triều đình không tránh khỏi những lục đục trong nội bộ,
dần lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng bởi sự lộng hành của người cậu của vua


Quang Toản - Bùi Đắc Tuyên. Trước tình hình rối ren của triều đình Quang Toản,
Nguyễn Ánh tận dung thời cơ, cấu kết với các địa chủ phản động, dựa vào thế lực tư
bản nước ngoài đã liên tiếp phản công, điều này làm cho triều đình Quang Toản
ngày càng suy yếu.
Trong hoàn cảnh như vậy, Ngô Thì Nhậm không thể phát huy được tài năng
của mình. Ông cùng một số bầy tôi cũ của nhà Lê được tin dùng như Phan Huy Ích,
Ninh Tốn, Nguyễn Huy Lượng… chỉ còn là những quan soạn sách, trông coi việc lễ

nghi… ví như năm Đinh Tỵ (1797) Ngô Thì Nhậm phụng mệnh trông coi việc tu
sửa Quốc sử. Ngô Thì Nhậm không thể đóng góp được gì trong hoàn cảnh triều
đình Quang Toản ngày một rối loạn, ông âm thầm ôm niềm đau xót, tìm lối thoát
trong Thiền học.
Nhà Tây Sơn nhanh chóng sụp đổ trước sự công kích, dượt đuổi của Nguyễn
Ánh. Năm Quý Hợi (1803) Nguyễn Ánh bắt đầu công cuộc trả thù những người
trước đây theo phong trào Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích bị đưa ra Văn
Miếu kể tội. Ngô Thì Nhậm qua đời trong trận đòn ấy (nhằm ngày 16 tháng 2, tức
ngày 9 tháng 3 năm 1803), hưởng thọ 58 tuổi.
1.2.1.2. Sự nghiệp
Bên cạnh sự nghiệp chính trị, quân sự, ngoại giao của mình; Ngô Thì Nhậm
còn để lại cho đời một di sản thơ văn rất đồ sộ, phong phú và nhiều nhất so với các
tác gia cùng thời. Theo các tư liệu ghi chép, nghiên cứu về Ngô Thì Nhậm hiện còn,
tác giả có khoảng 20 tác phẩm thơ văn. Tuy nhiên hiện tại mới tìm được văn bản
của 13 tác phẩm mà thôi. Các tác phẩm này được tập hợp trong tùng thư Ngô gia
văn phái, đồng thời đây cũng là tác giả có nhiều tác phẩm nhất trong tùng thư này.
Có thể kể đến:
1. Nhị thập thất sử toát yếu. Biên soạn năm 1762, đã mất. Thấy nói trong
Ngô gia thế phả.
2. Tứ gia thuyết phả. Biên soạn năm 1766, đã mất. Thấy nói trong Ngô gia
thế phả.
3. Hải Dương chí lược. Biên soạn năm 1772, đã mất. Thấy nói trong Ngô gia
thế phả.


4. Tự học toản yếu. Không ro năm soạn, đã mất. Còn bài tựa trong Kim mã
hành dư, có lẽ là sách Tam thiên tự giải nghĩa.
5. Công vụ thành thư. Soạn năm 1778, đã mất. Thấy nói trong Ngô gia thế
phả.
6. Thánh triều hội giám. Soạn năm 1781, đã mất. Đề cương thấy nói trong

Kim mã hành dư.
7. Bút hải tùng đàm. Soạn khoảng năm 1769 - 1782, hiện có 3 dị bản chép
trong tùng thư Ngô gia văn phái.
8. Thủy vân nhàn vịnh. Sáng tác năm 1782 - 1786, hiện có 3 dị bản chép
trong tùng thư Ngô gia văn phái.
9. Xuân thu quản kiến. Soạn năm 1782 - 1786, hiện có 3 dị bản chép trong
tùng thư Ngô gia văn phái.
10. Kim mã hành dư. Sáng tác năm 1775 - 1788, hiện có 13 dị bản chép trong
tùng thư Ngô gia văn phái.
11. Ngọc đường xuân khiếu. Sáng tác năm 1789 - 1792, hiện có 3 dị bản chép
trong tùng thư Ngô gia văn phái.
12. Hoàng hoa đổ phả. Sáng tác năm 1793, hiện có 7 dị bản chép trong tùng
thư Ngô gia văn phái.
13. Cúc học thi trận. Sáng tác khoảng năm 1796, hiện có 7 dị bản chép trong
tùng thư Ngô gia văn phái.
14. Cẩm đường nhàn thoại. Sáng tác khoảng năm 1785 - 1797, hiện có 4 dị
bản chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.
15. Thu cận dương ngôn. Sáng tác khoảng năm 1797 - 1798, hiện có 4 dị bản
chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.
16. Hào mân ai lục. Sáng tác khoảng năm 1780 - 1800, hiện có 5 dị bản chép
trong tùng thư Ngô gia văn phái.
17. Bang giao hảo thoại. Sáng tác khoảng năm 1789 - 1800, hiện có 11 dị
bản chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.
18. Hàn các anh hoa. Sáng tác khoảng năm 1789 - 1801, hiện có 8 dị bản
chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.


19. Liên hạ thi minh. Sáng tác năm 1800, đã mất, hiện chỉ còn bài thuyết
chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.
20. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Không chép trong tùng thư Ngô gia văn

phái mà có sách in riêng.
Vua Quang Trung qua đời, Ngô Thì Nhậm mất đi người tri kỉ, một người
hiểu mình, tin mình và trọng dụng tài năng của mình. Cũng từ đây, Ngô Thì Nhậm
tìm hiểu đạo Phật, ông lập thiền viện, soạn công án, trở thành Hải Lượng thiền sư.
Ngô Thì Nhậm từ một nhà nho, một nhà chính trị ông trở thành đệ tứ tổ của Thiền
tông Việt Nam. Trong lịch sử Việt Nam thật hiếm có một người trí thức nào có một
đời sống tâm linh và đời sống trần thế phong phú đa diện như Ngô Thì Nhậm.
Tóm lại, có thể thấy, trong bối cảnh xã hội phong kiến nước ta cuối thế kỷ
XVIII, Ngô Thì Nhậm thực sự là một người yêu nước và thức thời. Ông có cách xử
thế khác hẳn với các danh sy đương thời, không mang nặng tư tưởng triều đại mà
thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc bằng việc dốc hết sức lực, tài năng để phục vụ
đất nước, phục vụ nhân dân. Đúng như đánh giá của một số nhà nghiên cứu, cuộc
đời và sự nghiệp của Ngô Thì Nhậm như những ngôi sao sáng chói, xứng đáng để
các thế hệ người Việt Nam ngưỡng mộ, tự hào.
1.2.2. Bang giao hảo thoại
Bang giao hảo thoại là một tập hợp những bài bẩm, trình, biểu do Ngô Thì
Nhậm thay mặt triều đình Tây Sơn chấp bút, được viết trong khoảng thời gian từ
1789 - 1800. Sau được soạn giả tùng thư Ngô gia văn phái sưu tầm, tập hợp, biên
soạn, sắp xếp theo thể loại thành hai quyển 48 và 49 cho tùng thư này. Trong đó:
Quyển 48 tập hợp theo thể loại bẩm, trình, gồm 64 bài, được viết sau chiến
thắng Mậu Thân (1789), gửi cho các quan Lưỡng Quảng như: Thanh Hùng Nghiệp,
Phúc Khang An… để dàn xếp các công việc sau chiến tranh. Những bài bẩm, trình
này đều được viết trong khoảng thời gian từ 1789 đến năm 1799.
Quyển 49 lại được tập hợp theo thể loại biểu, gồm 17 bài, cũng được viết
trong khoảng thời gian sau chiến thắng Mậu Thân (1789) đến năm 1799. (Tập sách
này được đánh số từ bài 65 đến bài 92, thuộc quyển 49 của tùng thư Ngô gia văn
phái).



×