Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Sự ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo trong hồng đức quốc âm thi tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.34 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

HOÀNG THỊ HUYỀN

SỰ ẢNH HƯỞNG
CỦA TƯ TƯỞNG NHO GIÁO TRONG
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

HOÀNG THỊ HUYỀN

SỰ ẢNH HƯỞNG
CỦA TƯ TƯỞNG NHO GIÁO
TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học



TS. NGUYỄN THỊ TÍNH

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng
và biết ơn chân thành, sâu sắc nhất của mình tới TS. Nguyễn Thị Tính người đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn tơi trong q trình học tập, nghiên cứu.
Tơi xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam,
Khoa Ngữ văn đã quan tâm, động viên khích lệ, nhiệt tình giảng dạy; cảm ơn
Ban Chủ nhiệm khoa và Ban Giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện giúp đỡ
tơi hồn thành khóa luận này.
Tơi xin cảm ơn sâu sắc đến người thân, gia đình đã giúp đỡ, động viên
tơi trong suốt q trình thực hiện khóa luận.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 05năm 2018
Tác giả khóa luận

Hồng Thị Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tính. Khóa luận với đề tài Sự ảnh hưởng
của tư tưởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập chưa từng được
công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác. Nếu có gì sai phạm,
người viết sẽ chịu mọi hình thức kỷ luật theo đúng quy định của việc nghiên
cứu khoa học.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018

Tác giả khóa luận

Hồng Thị Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 7
4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 7
5. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 7
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7
7. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 8
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN....................... 9
CỦA NHO GIÁO VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM ............................................... 9
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP ................................................................... 9
1.1. Những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng đến văn học Việt
Nam ................................................................................................................... 9
1.2. Khái quát về tác giả, tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập ..................... 14
1.2.1. Tác giả Hồng Đức quốc âm thi tập ....................................................... 14
1.2.2. Tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập ................................................... 16
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 18
Chương 2. DẤU ẤN NHO GIÁO................................................................... 19
TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP .................................................. 19
2.1. Ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo trong quan niệm nghệ thuật.................... 19
2.2. Ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo trong nội dung tác phẩm......................... 29
2.2.1. Thiên mệnh, quân vương và thời thái bình, thịnh trị ............................ 29
2.2.2. Mối quan hệ xã hội trong nền nếp tam cương, ngũ thường.................. 39

2.3. Ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo trong bút pháp nghệ thuật tác phẩm ....... 48
2.3.1. Ngôn từ cao nhã .................................................................................... 49


2.3.2. Lấy cổ xưa làm mẫu mực...................................................................... 51
2.3.3. Bút pháp vịnh ........................................................................................ 54
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 57
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 60


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1


Thời đại Hồng Đức không những tiêu biểu cho một giai đoạn cực thịnh
của chế độ phong kiến Việt Nam mà cịn là cột mốc đánh dấu thời kì xã hội
đưa Nho giáo lên thành quốc giáo, vận dụng Nho giáo làm nền tảng để xây
dựng nhà nước phong kiến tập quyền vững chắc, hưng thịnh. Điều đó được
thể hiện rất rõ qua Hồng Đức quốc âm thi tập. Tập thơ do nhiều tác giả sáng
tác. Đó là những nhân sĩ thời Hồng Đức, mà chủ yếu là sáng tác của các nhân
sĩ hội Tao đàn, dưới sự chủ xướng của Lê Thánh Tơng. Nhiều người tìm đến
với Hồng Đức quốc âm thi tập không chỉ bởi giá trị văn học mà còn bởi chiều
sâu giá trị lịch sử của cả một thời đại mà nó phản ánh. Đây là tập thơ muôn
màu muôn vẻ, đa dạng về phong cách sáng tác nhưng đều quy tụ ở ý thức,
lòng tự tôn dân tộc và thấm nhuần tư tưởng Nho giáo. Lê Thánh Tông đã
dùng tư tưởng Nho giáo một cách tiến bộ, tích cực để quản lý, xây dựng xã
hội thịnh trị, phát triển. Với nhà vua, bản thân mỗi con người từ vua quan cho

tới dân thường phải có nhân đức thì xã hội mới tốt đẹp. Và nhân đức đó, được
bắt nguồn và học tập theo tư tưởng Nho giáo.
Hồng Đức quốc âm thi tập tôn vinh quá khứ hào hùng của cha ơng, ngợi
ca vai trị của nhà vua và các anh hùng hào kiệt, đồng thời là khúc ca bất tận
về đất nước giàu đẹp. Các sáng tác tuy cịn nặng lối cung đình q tộc nhưng
lại hết sức thi vị dễ đi vào lòng người. Ý thơ đi từ thiên nhiên kì vĩ mỹ lệ tới
cảnh vật bình dị thân thuộc, vai trị của vua quan được ca tụng là để hướng
đến cuộc sống đời thường ấm no của muôn dân. Mặc dù vậy, các bài thơ này
được sáng tác trong thời Hồng Đức, ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của
nhà vua Lê Thánh Tông, mà cụ thể ở đây là tư tưởng Nho giáo nên không dễ
dàng để hiểu hết được nội dung mà các tác giả muốn truyền đạt. Nho giáo có
những quy tắc, giáo lí nghiêm ngặt, sâu sắc có sức chi phối ảnh hưởng cao tới

2


đời sống xã hội. Nho giáo trong thời kì này đã thấm nhuần vào đường lối
quản lý nhà nước của nhà vua đồng thời ảnh hưởng sâu sắc tới các sáng tác
văn học, điển hình là Hồng Đức quốc âm thi tập. Vậy Nho giáo đã tác động
tới vai trò của vua Hồng Đức như thế nào, tạo nên lối sống nhân nghĩa cho
bậc tôi hiền ra sao, bức tranh xã hội lấy Nho giáo làm quốc giáo có hạnh phúc
ấm no hay khơng?... Tất cả những điều đó sẽ được lý giải qua Hồng Đức quốc
âm thi tập. Những bài thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập phải cần quá trình
nghiên cứu, học tập, đọc hiểu nghiêm túc mới thấm nhuần được nội dung mà
nó biểu hiện, mới hiểu được sâu sắc sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với tập
thơ này. Tuy nhiên cho đến nay chưa có nhiều cơng trình tập trung nghiên cứu
chun sâu và riêng biệt về sự ảnh hưởng của Nho giáo trong Hồng Đức quốc
âm thi tập. Đây là khó khăn cho việc tiếp cận và học tập những tác phẩm
trong tập thơ Nơm này.
Chính vì vậy, tơi chọn đề tài nghiên cứu “Sự ảnh hưởng của tư tưởng

Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập” để giúp bạn đọc có cái nhìn tồn
diện và sâu sắc hơn về nội dung tập thơ, để thấy được rõ tư tưởng Nho giáo đã
chi phối tới các sáng tác trong tập thơ này như thế nào đồng thời lý giải được
tại sao Lê Thánh Tơng đã trị vì được một xã hội phong kiến hưng thịnh đến
thế trong lịch sử dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lật đật bình phong mở mấy lần
Khắp hòa chốn chốn một trời xuân
(Mùa xuân, bài 13, Thiên địa mơn)
Đó là những vần thơ khép lại phần Lời nói đầu của cuốn Hồng Đức quốc
âm thi tập. Cái rung rinh, phơi phới của câu thơ cũng chính là khơng khí
chung của tồn tập thơ khi viết về một thời đại phong kiến thịnh trị của dân
tộc trong lịch sử. Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời dựa trên sự kế thừa và phát

3


huy tinh thần đã có trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ở đầu thế kỉ XV.
Chắc hẳn khi viết về một thời đại hoàng kim trong lịch sử dân tộc, tác phẩm
ra đời vào thời Hồng Đức kia cũng phải đồ sộ về số lượng, cuốn hút về nội
dung để sánh ngang tầm với thời đại mà nó phản ánh. Thực tế cho thấy, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về giá trị của tập thơ này và để lại những đóng
góp đáng kể cho nền văn học dân tộc. Đó là những cuốn sách giáo trình đại
học, sách chuyên luận chuyên khảo, các sách tham khảo về lịch sử và luận
văn tốt nghiệp đại học.
Giáo trình Văn học Việt Nam (Thế kỉ X – nửa đầu thế kỷ XVIII) của
nhóm tác giả Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, ở
chương XV do Mai Cao Chương viết đã dành gần 12 trang giới thiệu phân
tích về sự nghiệp văn học của Lê Thánh Tơng. Ở những trang giáo trình ấy có
một nhận xét khách quan có giá trị gợi ý để tơi thực hiện khóa luận này: “Văn

học nửa thứ hai của thế kỷ XV tuy bị chi phối bởi quan điểm văn nghệ cung
đình, nhưng vẫn cịn có nội dung u nước. Diện mạo văn học thời kỳ này
cũng khá đa dạng, có văn học cung đình của nhà vua và các triều thần (trong
hội Tao đàn), cũng có văn học thốt ly ảnh hưởng cung đình của các nhà thơ
có thi tập riêng; có văn học ca tụng chế độ phong kiến, cũng có văn học ca
tụng cuộc sống của nhân dân. Phong cách nghệ thuật cũng có sự đa dạng nhất
định. Có phong cách thơ cung đình thiên về từ chương, cũng có phong cách
điền viên chú trọng tính cụ thể sinh động của đời sống lại cũng có phong cách
thơ triết lý” [6, tr.319].
Giáo trình văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII của
nhóm tác giả Bùi Văn Nguyên (chủ biên), Nguyễn Sĩ Cẩn, Hoàng Ngọc Trì đã
dành trọn chương 5 viết về Lê Thánh Tông ở mục III “Lê Thánh Tông, vị
nguyên súy sáng tác văn học và chỉ đạo việc sáng tác văn học”. Các tác giả
giáo trình viết: “Đặc biệt có quyển Hồng Đức quốc âm thi tập, chắc chắn rằng

4


do người đời sau sưu tập, trong đó có một số là thơ nhà vua, còn lại một số
nhiều là thơ của văn thần nhưng không ghi tên ai cả, nên hóa ra khuyết danh.
Đây là tập thơ quốc âm duy nhất ở thế kỷ XV hiện còn lại cùng với Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi” [8, tr.246]. Chính điều đó đã thơi thúc tơi tìm hiểu
tác phẩm và đi sâu nghiên cứu đề tài này.
Các tác giả cuốn Văn học trung đại Việt Nam tập 1 do Nguyễn Đăng Na
chủ biên đã đưa ra những đánh giá khái quát về tập thơ Hồng Đức quốc âm
thi tập như sau: “Thời đại Hồng Đức không những đánh dấu giai đoạn hoàng
kim của chế độ phong kiến Việt Nam mà còn ghi một cột mốc lớn trên con
đường phát triển của lịch sử văn học dân tộc với sự ra đời của tập thơ mang
chính tên thời đại đó” [7, tr.158]. Về mặt nội dung các tác giả cũng đưa ra
nhận xét: “đồng thời mở rộng những nội dung Nho giáo, khẳng định đề cao

vương triều phong kiến” [7, tr.157]. Nhận xét đề cập tới tư tưởng Nho giáo
trong tác phẩm và trong thời đại mà nó ra đời tuy nhiên chỉ mang tính chất
lướt qua. Điều này gợi ý tôi đi sâu vào thực hiện đề tài này.
Cuốn giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX của Nguyễn
Phạm Hùng đã nhận định: “Một bộ phận văn học nửa sau thế kỷ XV đi vào xu
hướng cung đình hóa rõ rệt. Có lẽ khơng thời kỳ nào văn học cung đình gặt
hái được nhiều thành tựu như thời kỳ này. Văn học cung đình, một mặt thể
hiện được sự trì trệ và máy móc của nghệ thuật khi quá đi sâu vào tán tụng và
tiểu xảo, một mặt nó tự xác lập được những giá trị nhất định trong nội dung tư
tưởng và nghệ thuật phản ánh, mà khơng thời nào có được, như những phẩm
chất đặc định cho văn học một thời kỳ. Tác gia tiêu biểu nhất là Lê Thánh
Tông” [4, tr.56]. Cùng với đó, theo Nguyễn Phạm Hùng: “Lê Thánh Tơng
thành công hơn cả ở thơ Nôm. Tác phẩm nổi tiếng của ông là tập Hồng Đức
quốc âm thi tập… Tập thơ thể hiện tâm trạng hào sảng của một vị vua thời
thịnh mang niềm tự hào trước lịch sử dân tộc, trước non sống gấm vóc, ca

5


tụng vương quyền, ca tụng cuộc sống thái bình, bày tỏ lịng quan tâm tới đời
sống mn dân… Nghệ thuật thơ trau chuốt điêu luyện, có tính dân tộc, giàu
sắc thái dân dã. Song nhiều khi thơ ông quá cầu kỳ, đơn điệu, sáo rỗng. Song
dù sao, đây cũng là một tập thơ lớn, đánh dấu trình độ phát triển cao của nghệ
thuật tiếng Việt, trong việc phô diễn không chỉ đời sống thô tục, mà cả đời
sống cao nhã, sang quý bên trên” [4, tr.72]. Ý kiến của tác giả cuốn giáo trình
tuy rất khái qt nhưng cũng có những nhận xét khá chính xác về tập thơ. Vẫn
là những nhận xét quen thuộc về nội dung và nghệ thuật tác phẩm, chưa có sự
nghiên cứu sâu lý giải nội dung tác phẩm được chi phối bởi tư tưởng Nho
giáo.
Cuốn sách chuyên luận “Lê Thánh Tông, về tác gia và tác phẩm” của

nhiều tác giả, ở phần 4 có tiêu đề “Lê Thánh Tông – Thơ văn quốc âm” có
nhiều bài viết đề cập tới tập thơ. Trong số đó thì có các bài viết của Trương
Chính, Bùi Văn Nguyên, Bùi Duy Tân, Vương Lộc là những bài nghiên cứu
toàn diện về tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập.
Nguyễn Hữu Sơn trong chuyên luận Văn học trung đại Việt Nam, quan
niệm con người và tiến trình phát triển có bài viết với tiêu đề: “Lê Thánh
Tơng - đời thơ và những dấu hiệu trữ tình” đã nhận xét như sau: “Con người
Lê Thánh Tơng phân hóa trong thơ khá rõ nét: Ơng vừa hướng thượng đóng
vai một vị hồng đế để có những bài thơ thắng thưởng vịnh đề đầy tính khoa
trương…; vừa phần nào bộc lộ tâm sự riêng… lại bày tỏ thái độ cảm thông
với các tầng lớp chúng sinh” [14, tr.181].
Đó là một số sách giáo trình nghiên cứu về Lê Thánh Tơng, về cuốn
Hồng Đức quốc âm thi tập. Bên cạnh đó cịn có các sách tham khảo về lịch sử
cũng tạo nên một cái nhìn đầy đủ hơn về tác phẩm bởi bất cứ một tác phẩm
văn học nào cũng gắn với giai đoạn lịch sử mà nó ra đời. Cuốn Những giai
thoại về vua Lê Thánh Tơng do Nguyễn Tá Nhí và Mai Xuân Hải biên soạn,

6


trong giai thoại số 8 có tiêu đề Rộng cửa dùng người tài đã chép một bài thơ
chữ Nôm của Lê Thánh Tông viếng trạng nguyên Nguyễn Trực khi ông này
qua đời. Giai thoại số 28 có tiêu đề Thơ điếu Vũ Nương, người biên soạn
không chỉ kể lai lịch mà cịn chép đầy đủ hai bài thơ Nơm của vua Lê Thánh
Tông viếng nàng Vũ Thị Thiết. Những người biên soạn khơng bình luận gì cả
nhưng việc sưu tầm và chép những bài thơ đó cho thấy rằng tập thơ Hồng
Đức quốc âm thi tập có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác văn học của vị
hoàng đế anh minh. Cùng với đó là cuốn Sách các triều đại Việt Nam của
Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng ở mục triều Lê Sơ có các giới thiệu về Lê Thánh
Tơng trong đó trích dẫn bài thơ Tự thuật trong phần Nhân đạo môn để minh

họa cho phẩm chất đạo đức tuyệt vời của vua Lê Thánh Tơng: “chính bản
thân Lê Thánh Tông cũng rất tự ý thức về sự cần mẫn chăm lo trau dồi tri
thức bỏ công sức của mình vào việc cai quản đất nước” [1, tr.184]. Những lời
ngợi ca hết mực về Lê Thánh Tông, về thời đại Hồng Đức khiến người đọc
không thể không đặt ra câu hỏi: Do đâu mà có một thời đại thịnh trị, vua sáng
và tôi hiền đến vậy? Việc đi tìm hiểu sự ảnh hưởng của Nho giáo trong Hồng
Đức quốc âm thi tập sẽ giúp chúng ta tìm ra câu trả lời chính xác nhất.
Bên cạnh đó cịn có các luận văn đại học nghiên cứu về giá trị Hồng
Đức quốc âm thi tập, tiêu biểu như các đề tài: “Tìm hiểu giá trị của phần
Phong cảnh mơn trong Hồng Đức quốc âm thi tập” hay đề tài: “Lý tưởng
thẩm mỹ trong Hồng Đức quốc âm thi tập qua phần Nhân đạo mơn”… Cùng
với đó cịn rất nhiều các bài viết in trên tạp chí và các bài viết trên mạng
Internet nghiên cứu về tác giả và tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập.
Tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập là thứ văn chương “máu mủ ruột
rà” của dân tộc ta cần phải được tất cả cơng chúng nghiên cứu thưởng thức.
Đã có rất nhiều nghiên cứu về tập thơ này. Đó là những nghiên cứu về giá trị
của từng môn loại trong tập thơ, nghiên cứu về phong cách nghệ thuật thơ,

7


nghiên cứu về giá trị nội dung tập thơ, về vị trí của tập thơ trong tiến trình
phát triển thơ Nơm dân tộc ta… Mỗi nghiên cứu đều có những thế mạnh và
đặc sắc riêng và đều mang giá trị sâu sắc. Qua việc tìm hiểu đó, thấy được
một vấn đề đặc biệt là giá trị của tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng tới nội dung
tác phẩm, tôi đi vào thực hiện khóa luận với đề tài: “Sự ảnh hưởng của tư
tưởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập” với hi vọng đem tới một
cái nhìn tồn diện và sâu sắc hơn về tập thơ. Tuy nhiên, các tài liệu đã có ở
trên là cơ sở quan trọng tạo nền tảng chỗ dựa để tôi đi vào nghiên cứu đề tài
này.

3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tới những mục đích sau:
- Góp phần tìm hiểu về Lê Thánh Tơng và Hội Tao đàn.
- Có được cái nhìn sâu sắc nhất về sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong
Hồng Đức quốc âm thi tập nói riêng và văn học trung đại Việt Nam dưới thời
Lê Thánh Tơng nói chung.
4. Đối tượng nghiên cứu
Triển khai khóa luận “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Hồng
Đức quốc âm thi tập”, người viết xác định những ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo trong phương diện nội dung và nghệ thuật của tập thơ Hồng Đức
quốc âm thi tập là đối tượng nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu trong phạm vi tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập
do hai nhà nghiên cứu Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên âm, chú
giải, giới thiệu, biên soạn, xuất bản năm 1982, Nhà xuất bản Văn học. Tác
phẩm gồm 328 bài thơ, được chia thành 5 phần: Thiên địa môn, Nhân đạo
môn, Phong cảnh môn, Phẩm vật môn, Nhàn ngâm chư phẩm.
6. Phương pháp nghiên cứu

8


Để đảm bảo cho cơng việc nghiên cứu khóa luận đồng thời để có nguồn
tư liệu phong phú và đủ tin cậy đáp ứng được mục đích đặt ra, người viết tiến
hành những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê phân loại.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp văn học sử.
- Phương pháp so sánh, thẩm định.
7. Bố cục khóa luận

Ngồi phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
được cấu trúc thành 2 chương:
Chương 1: Khái quát về những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và tác giả,
tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập
Chương 2: Dấu ấn Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập

9


NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN
CỦA NHO GIÁO VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
1.1. Những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng đến văn học
Việt Nam
Cơ sở của Nho giáo bắt nguồn từ Trung Quốc, được hình thành từ thời
Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Cơng Đán, cịn gọi là Chu Cơng.
Đến thời Xn Thu xã hội loạn lạc, Khổng Tử ( sinh năm 551 trước công
nguyên ) phát triển tư tưởng của Chu Cơng, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau gọi ông là người sáng lập
ra Nho giáo. Thông qua những ghi chép của học trò Khổng Tử và sự hệ thống
lại của các nhà nghiên cứu, người đời sau đã nắm bắt được một cách gián tiếp
những tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử. Nho giáo phát triển qua ba thời kì:
Nho giáo nguyên thủy, Hán Nho, Tống Nho.
Những tư tưởng của Nho giáo được thể hiện trong hai bộ sách kinh điển:
Tứ Thư và Ngũ Kinh. Hệ thống kinh điển đó hầu như viết về chính trị, xã hội,
ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về
chính trị, đạo đức là những tưởng cốt lõi của Nho giáo. Khổng Tử và các học
trị của ơng đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của Nho giáo đối với xã
hội. Tư tưởng cơ bản của Nho giáo nằm ở hai nội dung là tu thân và hành đạo.

Trước hết, về vấn đề tu thân, một loạt những tư tưởng tam cương, ngũ
thường, tam tòng, tứ đức,… được Khổng Tử đặt ra để làm chuẩn mực cho
mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo
đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải
theo. Khổng Tử cho rằng xã hội an bình chỉ khi mọi người giữ được tam
cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức. Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan

10


hệ xã hội cơ bản của con người được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ
luân: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè. Trong đó, ba mối
quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là tam cương – ba sợi dây ràng
buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngồi xã hội. Tam cương: tam
là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi),
phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng). Trong xã hội phong kiến, những mối
quan hệ này được vua chúa thiết lập dựa trên một loạt nguyên tắc bắt buộc
phải tuân thủ vô cùng chặt chẽ nghiêm ngặt. Thứ nhất đối với mối quan hệ
quân thần, “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là dù vua ra lệnh cho
bề dưới phải chết thì bề dưới cũng phải chết để làm đúng theo lệnh vua, nếu
bề dưới không phục tùng mệnh lệnh tức là không trung thành với vua. Trong
mối quan hệ này, vua phán xét thưởng phạt ln phân minh cịn bề dưới thì
nhất mực trung thành một lịng một dạ. Bên cạnh đó là mối quan hệ phụ tử,
“phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” nghĩa là cha khiến con chết, con không
chết là con bất hiếu. Nếu như lệnh của vua đối với bề tôi đặt chữ “trung” lên
hàng đầu, thì giữa cha con coi trọng chữ “hiếu” hơn tất cả. Mối quan hệ cuối
cùng trong tư tưởng “tam cương” là phu phụ, “phu xướng phụ tùy” đồng
nghĩa với việc chồng nói, vợ phải theo. Tư tưởng “tam cương” chính là cương
lĩnh đạo đức, là chuẩn mực của các mối quan hệ xã hội mà Nho giáo đề ra. .
Đức chính là phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực

hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên.
Gắn liền với tam cương là ngũ thường. Ngũ là năm, thường là hằng có.
Ngũ thường là năm điều phải hằng có khi sống trong đời của một người quân
tử: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nhân là tấm lịng u thương mn lồi trên cõi
đời này. Lễ là sự kính trọng, lịch sự trong cách cư xử với mọi người. Nghĩa là
đối xử với những người xung quanh bình đẳng, cơng minh theo đúng lẽ phải.
Trí là sự hiểu biết, hanh thơng lí lẽ, biết phân biệt thiện ác, tốt xấu, đúng sai.

11


Cịn tín là ln đáng tin cậy trong mọi lời nói, hành động. Những phạm trù
này đều là chuẩn mực đạo đức làm người, là thước đo đánh giá phẩm hạnh
của con người.
Nếu như Nho giáo đề ra những nguyên tắc nhất định cho người qn tử
thì bên cạnh đó, Nho giáo cũng không quên đặt ra một loạt những tư tưởng
đạo đức khắt khe và nghiêm ngặt dành cho chuẩn mực đạo đức của một người
phụ nữ trong xã hội bấy giờ, đó là tam tịng và tứ đức. Tam là ba, tòng là theo.
Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo gồm: “tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử”. Tại gia tòng phụ là người phụ nữ khi cịn ở nhà thì
theo cha. Xuất giá tòng phu là lúc lấy chồng phải theo chồng. Phu tử tịng tử
là chồng qua đời thì phải theo con. Từ lẽ ấy, Nho giáo quy định cả cuộc đời
bất kì một người phụ nữ nào đều đứng sau và phụ thuộc vào người đàn ông là
cha, chồng, con. Bên cạnh đó, họ cịn phải tn theo tư tưởng tứ đức. Tứ là
bốn, đức là đức tính tốt. Tứ đức là bốn đức tính quý báu người phụ nữ phải có
là: cơng – dung – ngơn – hạnh. Công là khéo léo trong việc làm. Dung là
dung dị, nhã nhặn trong sắc diện. Ngôn là tế nhị, mềm mại trong lời nói. Cịn
hạnh là đức hạnh, phẩm hạnh và những tính nết tốt. Tất cả là khn vàng,
thước ngọc để đánh giá phẩm hạnh của người phụ nữ.
Sau khi tu thân, bậc quân tử phải hành đạo, tức là phải ra làm quan, góp

sức cai quản chính trị xã hội. Cụ thể của việc hành đạo là “tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Nghĩa là phải thực hiện tốt từ những việc nhỏ trong gia đình
cho tới những việc lớn ngoài thiên hạ. Hai phương châm được coi là kim chỉ
nam chi phối mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là nhân trị và
chính danh. Trước hết, về nhân trị, nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng
tình người, yêu thương con người. Quan điểm này của Nho giáo đồng nhất và
phù hợp với lối sống nhân đạo tình nghĩa của dân tộc Việt Nam. Trong luân lý
đạo đức, nhân được coi là điều cao nhất. Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử

12


nói: “Người khơng có nhân thì lễ mà làm gì? Người khơng có nhân thì nhạc
mà làm gì?”. Cùng với nhân trị , chính danh là mỗi người phải làm đúng chức
phận của mình, mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó. Trong sách Luận
ngữ có dẫn: “Danh khơng chính thì lời khơng thuận, lời khơng thuận thì tất
việc không thành” và cũng chỉ rõ rằng: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử
tử” nghĩa là “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. Trong kinh sách
của Nho giáo, đó chính là những điều quan trọng nhất. Tất cả được tóm gọn
lại trong chín chữ: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, nó là cương lĩnh
đạo đức để phân biệt người quân tử và kẻ tiểu nhân trong xã hội. Có thể nói tư
tưởng của Nho giáo đã đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo đánh giá
phẩm hạnh con người.
“Nho giáo từ Trung Quốc vào Việt Nam đồng thời với Phật giáo và Đạo
giáo (cả tư tưởng Lão – Trang) nhưng phải đến hàng chục thế kỉ sau, đến cuối
đời Trần nó mới có sức ảnh hưởng lớn” [5, tr.54]. Sau những chiến thắng lớn
quân xâm lược, dân tộc ta giành độc lập và bắt đầu xây dựng nhà nước phong
kiến tự chủ. Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, suốt hai triều Lê – Nguyễn, Nho
giáo đã thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam. Nho giáo du nhập vào Việt
Nam, nước ta uốn mình theo tư tưởng Nho giáo, kế thừa và sáng tạo chứ

không học thuộc lịng sách Nho của Khổng Tử. Nho giáo khơng ngừng củng
cố và phát triển cho đến giữa thế kỷ XIX, yêu cầu tất yếu này dần như bị suy
sụp và dần nhạt phai khi sự du nhập mạnh mẽ của phương Tây, của thực dân
Pháp. Tuy nhiên Nho giáo vẫn là công cụ ảnh hưởng đối với những nhà yêu
nước cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học hay Hồ Chí Minh,…
Nho giáo có ảnh hưởng rất sâu đậm và rõ rệt tới văn hóa xã hội Việt
Nam mà chủ yếu là in dấu rõ nét trong văn học. Trên quê hương Việt Nam,
Nho giáo đã kết duyên với văn học trung cận đại, góp phần tạo nên giá trị đạo
đức vốn là nét nổi trội của nền văn học này. Từ kim cổ đơng tây, thật hiếm có

13


học thuyết nào coi trong vấn đề tu thân và vấn đề đạo đức con người như Nho
giáo. Nho giáo có bao nhiêu danh ngơn để đời như: "Kiến nghĩa bất vi vô
dũng dã", "Sát thân thủ nghĩa", "Xá thân thành nhân", "Phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất", "Dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh", "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", "Thế thiên hành đạo", "Quân
tử thận kỳ độc", "Ngô nhật tam tỉnh ngô thân", "Tiên thiên hạ ưu, hậu thiên
hạ lạc"… Nho giáo ảnh hưởng tới đối tượng sáng tác của các tác giả thời bấy
giờ. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, phụ nữ phải “tam tòng tứ đức” đã thổi
vào nước ta khơng khí hệ tư tưởng bất bình đẳng. Các tác giả lớn có tài đều là
nam nhân, mãi sau mới xuất hiện một số nhà thơ nữ kiệt xuất như Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Nho giáo còn in dấu ấn sâu đậm tới nội
dung của các tác phẩm văn học, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của các tác
giả lớn thời bấy giờ. Học thuyết thiên mệnh, học thuyết nhân nghĩa, tư tưởng
trung quân ái quốc, ảnh hưởng của “thi dĩ ngơn chí”,… là những điều khơng
thể khơng nhắc tới khi nói đến sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với nền văn
học Việt Nam, tất cả đều có cội nguồn từ Nho giáo. Nếu trong thời trung cận
đại, trên đất nước ta, thiếu đi học thuyết Nho giáo thì con người Việt Nam ta,

văn học Việt Nam ta sẽ ra sao? Nho giáo là nguồn tư tưởng tình cảm nuôi
dưỡng tinh thần nhân dân ta, làm đẹp con người, văn học của dân tộc ta. Nho
giáo coi văn chương là phương tiện để giáo hóa, động viên, tổ chức, hoàn
thiện con người và xã hội. Nhà nước chuyên chế phong kiến dùng hình thức
thi cử để chọn người tài mà Nho giáo chính là hệ tư tưởng chính thống trong
các bài thi mà cụ thể là các bài văn. “Nho giáo ảnh hưởng trực tiếp đến văn
học qua thế giới quan của người viết” [21, tr.51]. Ngòi bút các tác giả bị chi
phối mạnh mẽ bởi quan niệm cái đẹp cái hay của Nho giáo. Đọc các tác phẩm
bị chi phối bởi tư tưởng Nho giáo, ta thường hay bắt gặp những đề tài trùng
lặp đơi khi có phần hơi khơ khan nghèo nàn thậm chí nghệ thuật đơn điệu

14


không sáng tạo được những phong cách riêng mới lạ. Đó là một ảnh hưởng
tiêu cực của Nho giáo đối với văn học. Khi văn học bước sang những giai
đoạn sau, lối viết chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo vẫn chi phối tới
nhiều tác phẩm được viết sau này. Tuy vậy, không thể phủ nhận được những
ảnh hưởng tích cực Nho giáo đối với nền văn học trung cận đại Việt Nam, nó
tạo ra rất nhiều tác phẩm thời đại. “Những triều đại được sử sách coi là thịnh
trị như thời Lê Thánh Tông ở Việt Nam không chỉ được ca tụng vì đất nước
thái bình, nhân dân an cư lạc nghiệp mà cịn vì có văn vận phát đạt, nhà nước
chăm lo phát triển Nho học, ưu đãi kẻ sĩ có văn học. Những thời kì như thế
cũng là những thời kỳ còn để lại cho ngày nay nhiều thư tịch, nhiều tác phẩm
văn học. Đó là một mặt quan hệ giữa Nho giáo và văn học: Nho giáo khích lệ
sự phát triển của văn học” [5, tr.50]. Trong văn học Việt Nam trung cận đại,
tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập là một kiệt tác tiêu biểu in đậm dấu ấn sự
ảnh hưởng của Nho giáo thể hiện trên nhiều giá trị tư tưởng nội dung và bút
pháp nghệ thuật.
1.2. Khái quát về tác giả, tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập

1.2.1. Tác giả “Hồng Đức quốc âm thi tập”
Hồng Đức quốc âm thi tập không phải là sáng tác của một cá nhân, tác
phẩm gồm nhiều bài thơ thuộc về rất nhiều tác giả tài năng dưới thời Hồng
Đức mà chủ yếu là những nhân sĩ tập hợp trong Hội Tao đàn – “môn đệ” của
Nho giáo. Hội Tao đàn được thành lập vào năm Hồng Đức 26 (1495), là tổ
chức sáng tác thơ và bình thơ do vua Lê Thánh Tơng đứng đầu tự xưng là Tao
đàn nguyên súy. Đây là hội thơ có tính chất nhà nước, nằm trong quy mơ triều
đình. Sự ra đời của Hội Tao đàn đánh dấu một bước tiến của thơ ca cung đình.
Hai mươi tám hội viên trong Hội Tao đàn do nhà vua chọn trong số các quan
văn đậu tiến sĩ ở triều đình thường được gọi là “Tao đàn nhị thập bát tú”, tức
hai tám ngôi sao trên đàn văn chương như Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Ngô

15


Ln, Ngơ Hốn, Lưu Hưng Hiếu, Nguyễn Xung Xác, Nguyễn Quang Bật,
Nguyễn Đức Huấn, Vũ Dương, Ngô Thầm, Ngô Văn Cảnh, Phạm Trí Khiêm,
Lưu Thư Mậu, Nguyễn Tốn Miệt, Nguyễn Nhân Bị, Ngô Quyền, Nguyễn Bảo
Khuê, Bùi Phố, Dương Trực Ngun, Chu Hỗn, Phạm Cấn Trực, Nguyễn
Ích Tốn, Đỗ Thuần Thứ, Phạm Nhu Huệ, Lưu Dịch, Đàm Thận Huy, Phạm
Đạo Phú, Chu Huân.
Là cánh chim đầu đàn, Tao Đàn nguyên súy ln khuyến khích các nhân
sĩ hăng say sáng tác thơ ca. Nhà vua khơng chỉ có tài trị quốc mà cịn là vị vua
có tâm hồn thi sĩ. Phần lời giới thiệu của Hồng Đức quốc âm thi tập, đã viết
rõ về Lê Thánh Tơng: “Ngun súy quả có một tâm hồn nghệ sĩ…Trong bài
Tựa tác phẩm Quỳnh uyển cửu ca…học sĩ là Đào Cử làm bài bạt ở cuối tác
phẩm đó, đã nói rõ ý đồ của nguyên súy: “Từ khi đức vua lên ngơi, trong
ngồi đều phục, mưa nắng thuận hòa, dân yên vật thịnh. Trong khi nhàn rỗi,
nhà vua thường bỏ hết thú vui như đàn hát, săn bắn, khiến cho sạch lịng, dục
ít, như cây ngay từ gốc, nước trong từ nguồn, lại có tài học cao minh, lòng

đạo sáng suốt, cho nên anh hoa phát tiết ra ngoài, biểu hiện ở lời ngâm vịnh”
[3, tr.13]. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập có rất nhiều bài thơ được xác định
là do Lê Thánh Tông sáng tác khơng phải dựa vào khẩu khí đế vương mà do
lời thơ rõ ràng của ơng. Đó là những bài viết về chủ đề như vịnh năm canh,
vịnh tứ thời, vịnh các nhân vật lịch sử Trung Quốc, vịnh các nhân vật lịch sử
Việt Nam. Tuy nhiên tập thơ là sáng tác của một tập thể tác giả nên có nhiều
bài rất khó xác định một cách chính xác ai đã viết bài nào. Dù đây là tập thơ
của nhiều tác giả, song trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam tập 1 của tác
giả Nguyễn Đăng Na chủ biên ghi rõ: “Các tác giả phần lớn là Nho sĩ. Vì thế
bên cạnh tính chất đa dạng của một tập thơ với nhiều tác giả, Hồng Đức quốc
âm thi tập vẫn có sự nhất quán trong nội dung cảm xúc và hình thức nghệ
thuật biểu hiện” [7, tr.147].

16


Như vậy, có thể xác định rằng Hồng Đức quốc âm thi tập là tập hợp các
sáng tác của nhiều tác giả, chủ yếu là thành viên hội Tao đàn trong đó khơng
thể thiếu vua Lê Thánh Tơng. Trong số nhiều tác giả ấy, cũng có người khơng
phải là thành viên của Hội Tao đàn, nhưng họ sáng tác thơ và bình thơ dưới
sự chủ súy của vua Lê Thánh Tơng. “Theo tài liệu cịn lại cho đến ngày nay,
Hồng Đức quốc âm thi tập là một tập thơ chỉ được sưu tập về sau, chứ không
phải được biên soạn từ thời Lê Thánh Tơng, do đó, có thể ở đây chép lẫn lộn
một số thơ người đời sau” [3, tr.5].
1.2.2. Tác phẩm “Hồng Đức quốc âm thi tập”
Tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời vào cuối thế kỉ XV trong bối
cảnh đất nước yên bình, phát triển thịnh vượng, đời sống nhân dân ấm no
hạnh phúc. Các bài thơ được sáng tác trong thời gian khoảng 28 năm dưới
niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497) của triều đại Lê Thánh Tơng. Ngồi thời
Hồng Đức, thật khó có thể tìm được cái khơng khí xướng họa u đời, lạc

quan của tập thơ ở bất kì thời đại nào khác. Người đời sau đặt tên cho tác
phẩm là “Hồng Đức quốc âm thi tập” thật phù hợp với thời đại lịch sử xuất
hiện của những bài thơ trong tác phẩm. Tồn tập thơ hiện có 328 bài, được
chia làm năm phần như sau: Thiên địa môn gồm (59 bài), Nhân đạo môn (46
bài), Phong cảnh môn gồm (66 bài), Phẩm vật môn gồm (69 bài), Nhàn ngâm
chư phẩm (88 bài). Lối chia mơn loại này có phần gần gũi với Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi. Tập thơ phong phú đa dạng về lời thơ và ý thơ, các chi
tiết, khía cạnh, phong cách các bài thơ cũng khác nhau do đây là sản phẩm lao
động trí tuệ của nhiều tác giả. Hồng Đức quốc âm thi tập khơng chỉ cuốn hút
về hình thức số lượng các bài thơ, mà còn hấp dẫn về giá trị ý nghĩa thời đại.
Đây là sáng tác của vua quan thời Hồng Đức, đặc biệt dưới sự chủ súy của Lê
Thánh Tông nên tác phẩm cịn mang nặng khuynh hướng cung đình, ngâm
hoa vịnh nguyệt. Tuy nhiên không thể phủ nhận giá trị của một tác phẩm tràn

17


đầy lịng tự tơn dân tộc, tràn đầy tình u thiên nhiên yêu cuộc sống. Tác
phẩm được viết dựa trên sự kế thừa thành tựu trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi và có sự phát huy đổi mới. Tác giả của Hồng Đức quốc âm thi
tập rất đông đảo nên đề tài nội dung của tập thơ, các vấn đề xã hội cũng được
mở rộng rất phong phú. Điểm nổi bật đáng chú ý trong tác phẩm là sự kết hợp
hài hòa tư tưởng Nho giáo với tinh thần, tình cảm dân tộc. Hồng Đức quốc âm
thi tập mang đậm dấu ấn sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Nho giáo là
cương lĩnh cai trị đất nước thời bấy giờ, Nho giáo chiếm vị trí độc tơn trong
xã hội, Nho giáo thấm nhuần tư tưởng của nhà vua. Và với Hồng Đức quốc
âm thi tập, nhà vua Lê Thánh Tông lại là người chủ súy việc sáng tác nên tập
thơ ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo là điều tất yếu.
Hồng Đức quốc âm thi tập mang đậm giá trị văn chương bao gồm giá trị
nội dung và giá trị nghệ thuật trong đó điều đặc biệt là từ nội dung cho tới

nghệ thuật của tác phẩm đều in đậm dấu ấn của Nho giáo. Nghiên cứu về sự
ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập chính là
“cuộc hành trình về nguồn” văn hóa dân tộc. Và chắc chắn, đây sẽ là một
cuộc “ơn cố tri tân” hết sức bổ ích và thú vị.

18


Tiểu kết chương 1
“Cho tới nay, đã ngót năm thế kỷ, chúng ta vui sướng đọc lại lời thơ của
Nguyễn Trãi ở nửa đầu thế kỷ XV trong Quốc âm thi tập, thì chúng ta cũng
vui sướng đọc lại lời thơ nguyên vẹn của các nhân sĩ thời Lê Thánh Tông
trong Hồng Đức quốc âm thi tập ở nửa sau thế kỷ đó” [3, tr.31]. Các tác giả
của Hồng Đức quốc âm thi tập không thể tránh khỏi lối viết cơng thức, cung
đình nhưng họ cũng đã biết cách vượt qua, quan tâm tới nhiều đề tài phong
phú trong cuộc sống. Tập thơ là sự khẳng định triều đại Lê Thánh Tông qua
những vần thơ ca ngợi bậc minh quân, ca ngợi cuộc sống thái bình thịnh trị;
đồng thời là tiếng thơ về một đất nước giàu đẹp yên bình, chan chứa niềm tự
hào dân tộc. Thời bấy giờ, Nho giáo chính là cương lĩnh chính trị, đạo đức để
xây dựng nên một đất nước thịnh trị. Hơn nữa, tập thơ có tác giả là các Nho sĩ
nên chắc chắn tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Nho giáo.

19


×