Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI
GIỮA TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ KHÁCH HÀNG
BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI

NGUYỄN NGỌC ANH

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI
GIỮA TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ KHÁCH HÀNG
BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI

NGUYỄN NGỌC ANH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THU THỦY


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu
của riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được
cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Ngọc Anh


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực cố gắng của bản thân cịn có sự hướng dẫn nhiệt tình của q thầy cơ,
cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập
nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Nguyễn Thị Thu Thủy, người đã
hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hồn thành luận văn này, xin
chân thành bày tỏ lịng biết ơn đến tồn thể q thầy cơ trong khoa Luật - Viện Đại
học Mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến
khi thực hiện đề tài luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn
đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Hà Nội, tháng 08 năm 2018

Học viên

Nguyễn Ngọc Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
GIỮA TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ KHÁCH HÀNG BẰNG PHƢƠNG
THỨC TRỌNG TÀI .............................................................................................................. 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng ................................................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng ................... 7
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng .................... 8
1.1.3. Sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng ........................................................................................................ 11
1.2. Khái niệm, vai trò và nội dung của phƣơng thức trọng tài giải quyết
tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng ................................................. 12
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách
hàng bằng phương thức trọng tài ..................................................................... 12
1.2.2. Vai trò của trọng tài trong giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng .......................................................................................... 15
1.2.3. Nội dung của phương thức trọng tài giải quyết tranh chấp giữa tổ
chức tín dụng và khách hàng ............................................................................ 22

Chƣơng 2: QUY ĐỊNH VÀ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
GIỮA TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ KHÁCH HÀNG BẰNG PHƢƠNG
THỨC TRỌNG TÀI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ................................................... 33
2.1. Sự hình thành phƣơng thức trọng tài giải quyết tranh chấp giữa tổ
chức tín dụng và khách hàng trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta ..... 33


2.1.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ......... 33
2.1.2. Giai đoạn sau khi ban hành Luật Trọng tài thương mại năm 2010....... 36
2.2. Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng bằng phƣơng thức trọng tài............................................................... 39
2.2.1. Thỏa thuận trọng tài giữa tổ chức tín dụng và khách hàng ................... 39
2.2.2. Trình tự giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.......... 45
2.2.3. Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời ............................................. 50
2.2.4. Phán quyết của trọng tài ........................................................................ 53
2.3. Thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
bằng phƣơng thức trọng tài ................................................................................... 56
2.3.1. Tình hình giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách
hàng bằng phương thức trọng tài trong thời gian qua .................................... 56
2.3.2. Một số hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế này trong việc
giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng với khách hàng bằng phương
thức trọng tài .................................................................................................... 64
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
PHƢƠNG THỨC TRỌNG TÀI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA TỔ
CHỨC TÍN DỤNG VÀ KHÁCH HÀNG .............................................................. 68
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả của phƣơng thức trọng tài giải quyết
tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng ................................................. 68
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của phƣơng thức giải quyết tranh
chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phƣơng thức trọng tài ........... 71
3.2.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải

quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức
trọng tài ............................................................................................................ 71
3.2.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức
trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng ........ 84
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 94


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ICC

Phòng thương mại quốc tế

TTTM

Trọng tài thương mại

UNCITRAL

Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế

VIAC

Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi tiến hành chính sách Đổi mới kinh tế từ năm 1986 đến nay, Việt

Nam luôn chú trọng phát triển thị trường tài chính vững mạnh nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và hội nhập. Các giao dịch hàng hóa, tiền tệ trong xã hội diễn ra ngày
càng đa dạng, phong phú đặc biệt là sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của các tổ
chức tín dụng - nơi cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Kể từ khi được ban hành
đến nay, Luật Các tổ chức tín dụng đã góp phần khơng nhỏ trong việc bảo đảm mơi
trường pháp lý cho các tổ chức tín dụng, thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập
vào nền kinh tế thế giới thông qua hỗ trợ các hoạt động thương mại trong nước.
Việc thực hiện các hoạt động ngân hàng trên thực tế tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Chẳng hạn như trong hoạt động ngân hàng thì cho vay là hoạt động truyền thống
mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng những cũng là hoạt động tiềm ẩn rủi
ro vơ cùng lớn. Biểu hiện của rủi ro tín dụng là khi khách hàng khơng hồn trả gốc
và lãi đúng hạn hoặc phát sinh ra những tranh chấp trong hợp đồng tín dụng...
Việc tiềm ẩn rủi ro và phát sinh tranh chấp là điều không thể tránh khỏi. Quy
định về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và giải quyết
tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nói riêng hiện nay đã khá hồn
thiện thông qua việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm đã có và ban hành các
Bộ luật mới với nội dung phù hợp hơn với thực tiễn như ban hành Bộ luật Dân sự
năm 2015, Luật TTTM năm 2010, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và sửa đổi
bổ sung năm 2017 và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành...
Theo đó, để giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng có thể
áp dụng các phương thức từ thương lượng, hòa giải cho tới trọng tài, tòa án. Thực
tiễn cho thấy tòa án vẫn là phương thức được các bên ưu tiên lựa chọn để giải quyết
tranh chấp. Tuy nhiên, những năm gần đây, giải quyết tranh chấp thương mại nói
chung, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài
nói riêng đang trở nên phổ biến, mang lại nhiều ưu thế cho phía tổ chức tín dụng,

1


đặc biệt là các ngân hàng. Hơn nữa, trên thực tế, các cơng trình nghiên cứu về giải

quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng lại chủ yếu nghiên cứu
phương thức giải quyết tranh chấp thông qua tịa án mà chưa có cơng trình cụ thể
nào nghiên cứu về phương thức trọng tài.
Do đó, tác giả thấy rằng cần thiết phải nghiên cứu về các quy định của pháp
luật về phương thức trọng tài trong giải quyết tranh chấp tín dụng cũng như thực
tiễn áp dụng trên thực tiễn, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật cũng như đảm bảo tốt nhất quyền lợi hợp pháp của các bên. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu vấn đề “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại giữa
tổ chức tín dụng với khách hàng bằng phương thức trọng tài” là việc làm mang
tính cấp thiết, mang ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Tại Việt Nam, nghiên cứu về giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng là đề tài đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu tìm hiểu chuyên sâu về
vấn đề này với nhiều góc độ, quan điểm khác nhau, chủ yếu từ năm 2000 trở lại
đây. Điều này thể hiện thông qua số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu đa
dạng, có giá trị tham khảo cao như:
- Các nghiên cứu về tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng: “Thanh
tốn quốc tế bằng L/C các tranh chấp thường phát sinh và cách giải quyết”, sách
chuyên khảo của tác giả Nguyễn Thị Quy (2003), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
“Giải quyết tranh chấp về giao dịch tín dụng chứng từ trong thanh tốn quốc tế”,
luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Vũ Thị Minh Huyền (2011), Đại học Luật Hà
Nội; “Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thanh tốn
bằng tín dụng chứng từ ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Đặng Thị
Phương Thủy (2012), Đại học Luật Hà Nội …
- Các nghiên cứu về phương thức giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng
và khách hàng: “Hỗ trợ của tịa án đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài”, luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Vũ Thị Huệ (2010), Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội; “Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín

2



dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần
Thị Thùy Trang (2014), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; “Vai trò của Tòa án
trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng”, luận văn thạc sỹ luật học của tác
giả Vũ Thị Thúy (2015), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; “Thực tiễn giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội”, luận
văn thạc sĩ Hồ Thị Khuyên (2016), Đại học Luật Hà Nội…
Bên cạnh đó là các bài viết học thuật đăng trên các Tạp chí chun ngành
luật có uy tín như: “Cần áp dụng đúng quy định của pháp luật trong việc giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng về lãi suất” của tác giả Phạm Vũ Ngọc Quang
trên Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 9/2014; “Một số ý kiến
về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tín dụng giữa người vay tiền với quỹ tín dụng
nhân dân” của tác giả Nguyễn Hữu Ân đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, Tịa án
nhân dân tối cao, số 20/2010; “Vận dụng đúng quy định của pháp luật về lãi suất
để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại tịa án” (Kỳ I, II, III)
của tác giả Lương Khải Ân đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, Tịa án nhân dân
tối cao, số 24/2013…
- Việc nghiên cứu giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng với khách hàng
bằng phương thức trọng tài chưa được nghiên cứu cụ thể mà được lồng ghép chung
trong việc nghiên cứu giải quyết các tranh chấp thương mại nói chung, thể hiện qua
các cơng trình về: “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, luận án tiến sĩ luật học của tác giả
Trần Minh Ngọc (2009); “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc
tại Việt Nam”, luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Thị Thắm (2013)...; hoặc nghiên
cứu thơng qua các bài tham luận được trình bày tại Hội thảo “Những cơ hội và
thách thức khi giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực tài chính ngân hàng thơng qua
hịa giải và trọng tài” được tổ chức bởi Trung tâm trọng tài Quốc Tế Việt Nam
(VIAC) ngày 06/06/2017.
Thông qua các cơng trình nghiên cứu trên, có thể nói các học giả, nhà nghiên

cứu đã có những tìm hiểu chuyên sâu về vấn đề giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực

3


tài chính, ngân hàng. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu mới chỉ tập trung vào
từng loại tranh chấp cụ thể, trong đó nghiên cứu về tranh chấp hợp đồng tín dụng
chiếm đa số. Bên cạnh đó, các học giả ưu tiên lựa chọn việc giải quyết tranh chấp
tín dụng thơng qua con đường tịa án, qua đó phân tích vai trò của tòa án trong giải
quyết tranh chấp.
Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
bằng phương thức trọng tài vẫn là đề tài có nhiều tính mới và cần được triển khai
nghiên cứu.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
Đóng góp những đề xuất giúp nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức trọng
tài trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
- Làm sáng tỏ những khái niệm "tổ chức tín dụng", "tranh chấp giữa tổ chức
tín dụng", "trọng tài" và "giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại giữa tổ chức
tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài" và các vấn đề có liên quan;
- Phân tích những quy định về sử dụng phương thức trọng tài để giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại giữa tổ chức tín dụng và khách hàng và thực tiễn
áp dụng các quy định này, từ đó thấy được những thiếu sót, bất cập, hạn chế cần
khắc phục;
- Đưa ra những đề xuất một mặt hoàn thiện các quy định của pháp luật, mặt
khác nâng cao hiệu quả áp dụng phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp kinh
doanh giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
4. Tính mới và những đóng góp của luận văn

- Đưa ra được khái niệm về “tranh chấp kinh doanh thương mại giữa tổ chức
tín dụng và khách hàng” và những đặc điểm của loại tranh chấp này;
- Phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về giải quyết tranh

4


chấp kinh doanh thương mại giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức
trọng tài ở Việt Nam hiện nay;
- Có những đề xuất theo hai hướng: Một là, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về sử dụng phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa
tổ chức tín dụng và khách hàng; Hai là, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại giữa tổ chức tín dụng và khách hàng được giải
quyết bằng phương thức trọng tài.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức
trọng tài cũng như việc áp dụng các quy định này trên thực tiễn. Tuy nhiên trong
quá trình nghiên cứu về thực tiễn giải quyết các tranh chấp thương mại tại cho thấy
không phải tất cả các tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng đều được giải
quyết tại trọng tài mà hiện chỉ tập trung vào một số tranh chấp, trong đó tranh chấp
liên quan tới hợp đồng tín dụng chiếm số lượng lớn.
Do đó, tác giả sẽ chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về việc giải quyết
tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng thông qua phương
thức trọng tài và thực tiễn áp dụng.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định về giải quyết
tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng bằng phương thức
trọng tài tại Việt Nam.

+ Về thời gian: Tác giả chọn thời điểm nghiên cứu chủ yếu từ khi ban hành
Luật tổ chức tín dụng năm 2010 trở lại đây để làm cơ sở thực hiện luận văn.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Thu thập tài liệu để nghiên cứu, phân tích và tham khảo thơng tin, trên cơ
sở kế thừa các thành quả nghiên cứu trước đây;

5


- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu để làm
sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu;
- Bên cạnh đó, đề tài cũng được nghiên cứu thơng qua phương pháp bình
luận, tổng hợp và so sánh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài
Chƣơng 2: Quy định và thực trạng giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả của phương thức
trọng tài giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP GIỮA TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ

KHÁCH HÀNG BẰNG PHƢƠNG THỨC TRỌNG TÀI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
1.1.1. Khái niệm tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
Theo quy định của Luật Tổ chức tín dụng năm 2010, tổ chức tín dụng được
hiểu là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ
chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính
vi mơ và quỹ tín dụng nhân dân (khoản 1, Điều 4).
Thuật ngữ “tranh chấp” nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về
quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Tranh chấp là một hiện
tượng xã hội có tính khách quan và mang tính lịch sử. Hầu hết các tranh chấp trong
đời sống kinh tế - xã hội đều liên quan đến vấn đề phân tranh lợi ích giữa các chủ
thể trong các mối quan hệ gắn liền với sự phân bổ lợi ích. Trong điều kiện nền kinh
tế thị trường, do sự phân bổ lợi ích là rất rõ ràng dựa trên các quy luật và nguyên tắc
của thị trường nên tranh chấp có xu hướng ngày càng trở nên gay gắt và diễn biến
phức tạp. Trong khoa học pháp lý hiện nay, khái niệm tranh chấp giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng được sử dụng khá phổ biến trong đời sống kinh tế xã hội. Do
các tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động ngân hàng nên tranh chấp giữa tổ chức
tín dụng với khách hàng có thể hiểu theo nghĩa rộng là sự mâu thuẫn hay bất đồng
về quyền và lợi ích phát sinh từ việc thực hiện các hoạt động ngân hàng giữa một
bên là tổ chức tín dụng và một bên là khách hàng.
Theo quy định của Luật Tổ chức tín dụng năm 2010, hoạt động ngân hàng là
việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức
tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ

7


tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo ngun tắc có
hồn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận (khoản 13, Điều 4).

b) Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo ngun tắc có hồn trả
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho th tài chính, bao thanh tốn, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác (khoản 14, Điều 4).
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện
thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy
nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh tốn khác cho khách
hàng thông qua tài khoản của khách hàng (khoản 15, Điều 4).
Các hoạt động ngân hàng được thực hiện chủ yếu thông qua việc ký kết các
hợp đồng giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng. Chính sự đa dạng của các tổ chức
tín dụng và các hoạt động ngân hàng nên có rất nhiều hình thức hợp đồng như: (i)
Hợp đồng cấp tín dụng, bao gồm: Hợp đồng cho vay, hợp đồng cấp bảo lãnh, hợp
đồng bảo lãnh, hợp đồng chiết khấu/tái chiết khấu giấy tờ có giá, hợp đồng bao thanh
toán, hợp đồng cấp hạn mức tín dụng, hợp đồng tài trợ/hoặc đồng tài trợ...; (ii) Hợp
đồng bảo đảm như hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng cầm cố...;
Trong đó, hợp đồng cho vay hay hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng thơng
dụng, đồng thời cũng là loại hợp đồng có tỷ lệ tranh chấp lớn nhất so với các loại
hợp đồng kinh tế [27]. Hợp đồng tín dụng về bản chất là loại hợp đồng cho vay tài
sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ
luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp
bên cho vay là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng.
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
Tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng là một dạng
tranh chấp thương mại: Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, khái niệm tranh
chấp kinh doanh thương mại được sử dụng thay thế cho khái niệm tranh chấp
"kinh tế" trước đây. Nhìn chung, "tranh chấp kinh tế" và "tranh chấp kinh doanh

8



thương mại" đều được hiểu là những xung đột, bất đồng về quyền, lợi ích kinh tế
giữa các chủ thể trong quá trình xác lập và giải quyết các quan hệ kinh tế hoặc
kinh doanh thương mại.
Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại quy định: Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác [16]. Theo
khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại được mở rộng bao gồm mọi
hoạt động có mục đích sinh lợi.
Từ việc tiếp cận trên, có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là những mâu
thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình
thực hiện các hoạt động thương mại. Trên cơ sở giải nghĩa về "hoạt động ngân
hàng" tại khoản 12 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng có thể thấy hoạt động ngân
hàng là một dạng hoạt động thương mại. Do đó, tranh chấp từ việc thực hiện các
hoạt động ngân hàng hay nói cách khách là tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng cũng là một dạng tranh chấp thương mại.
Thứ nhất, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng về hợp đồng tín
dụng thường có giá trị lớn hoặc thậm chí là rất lớn: Việc kí kết hợp đồng tín dụng
thường do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà khơng thể tự mình xoay xở được. Nhu
cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển
kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình. Do đó, số tiền này khơng phải là nhỏ và dễ
dàng vay được từ các tổ chức, cá nhân ngồi xã hội mà khơng phải là ngân hàng.
Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn
cho nền kinh tế thì tổ chức tín dụng cịn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể
khác để cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các tổ chức tín dụng thường kí
kết các hợp đồng tín dụng có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời
điểm cho vay. Do bên vay vốn dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt
động sản xuất kinh doanh nên nếu bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp
đồng, không trả nợ cho các tổ chức tín dụng sẽ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động
của tổ chức tín dụng đó. Thực tế khơng hiếm các trường hợp các tổ chức tín dụng


9


lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu”. Một khi khách hàng vay khơng
thể thanh tốn được nợ, tranh chấp xảy ra thì tổ chức tín dụng sẽ là chủ thể bị thiệt
hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc phục, mục đích
lợi nhuận ban đầu khơng cịn hoặc bị gián đoạn.
Thứ hai, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng thường được giải
quyết dựa trên nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật. Hợp đồng
tín dụng, hợp đồng bảo lãnh hay các hợp đồng khác trong lĩnh vực tài chính – ngân
hàng về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính thỏa
thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng tín dụng thì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt được
hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra.
Thứ ba, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng ln có sự tham gia
của một bên là tổ chức tín dụng, phần lớn các tranh chấp về hợp đồng tín dụng hay
các hợp đồng khác trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, bị đơn thường là khách
hàng. Ví dụ, trong quan hệ tín dụng, phía tổ chức tín dụng đặc biệt là ngân hàng đã
có một đội ngũ có trình độ về chun mơn pháp lý cao, đưa ra hợp đồng được kí kết
với các điều khoản chặt chẽ nhằm đảm bảo quyền lợi cho tổ chức tín dụng khi bên
vay khơng trả nợ hay trả khơng đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì tổ
chức tín dụng ln có lợi thế với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ,
rõ ràng trong hợp đồng được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh
chấp xảy ra thì nguyên nhân chủ yếu do bên đi vay vi phạm, rất ít khi tổ chức tín
dụng vi phạm chính những điều khoản do chính mình soạn thảo.
Thứ tư, người thứ ba trong tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
có vị trí quan trọng. Đây là một trong những đặc thù trong tranh chấp hợp đồng tín
dụng so với các tranh chấp thương mại khác. Vì mối quan hệ mật thiết giữa hợp
đồng vay giữa ngân hàng và khách hàng và hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh

giữa ngân hàng với bên thứ ba nên để xử lý được hợp đồng vay phụ thuộc rất lớn và
hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đi kèm. Lúc này rất khó để phân biệt đâu là

10


hợp đồng chính, đâu là hợp đồng phụ. Việc xử lý hợp đồng vay trong trường hợp
này phụ thuộc rất lớn vào bên thứ ba.
1.1.3. Sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng và khách hàng. Mục đích
của việc yêu cầu giải quyết tranh chấp trước tiên là bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia. Việc giải quyết tranh chấp có vai trị quan trọng trong
việc xác định lỗi và có kết quả hợp lý mà các bên có thể chấp nhận được (thương
lượng, hòa giải) hoặc buộc phải chấp nhận (trọng tài, tòa án). Việc thực hiện nghĩa
vụ của bên này là cơ sở để bên kia được hưởng quyền.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nhằm
đảm bảo sự ổn định của phát triển kinh tế thông qua giải quyết tranh chấp để xử lý
nợ xấu và góp phần tái cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém. Pháp luật hiện nay
đã có nhiều thay đổi tích cực để tháo gỡ những vướng mắc, hỗ trợ giải quyết tranh
chấp, xử lý “cục máu đông” của nền kinh tế nước nhà. Nhiệm vụ trọng tâm này đã
được xác định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII và một lần nữa được nhấn mạnh tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII, trong đó, đặt ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng là giải quyết tranh chấp dân sự theo hướng thống
nhất. Bên cạnh đó, thơng qua q trình giải quyết tranh chấp, giúp phát hiện những
sai phạm, thiếu sót, góp phần tái cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém.
Thứ ba, thông qua thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng, cho thấy những bất cập và thiếu sót trong việc áp dụng các quy định
của pháp luật. Trên cơ sở đó, giúp hồn thiện khuôn khổ pháp lý để xử lý căn bản

những bất cập đang tồn đọng và nợ xấu một cách triệt để, cơ cấu lại các tổ chức tín
dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc
thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ
thống, hỗ trợ kịp thời từ khâu phát hiện các tổ chức tín dụng yếu kém đến khâu
phục hồi, củng cố năng lực để các tổ chức tín dụng yếu kém có khả năng trở thành
tổ chức tín dụng lành mạnh.
11


1.2. Khái niệm, vai trò và nội dung của phƣơng thức trọng tài giải quyết tranh
chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng
bằng phương thức trọng tài
Ở góc độ khái quát chung, giải quyết tranh chấp giữa các tổ chức tín dụng và
khách hàng nói chung, giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng nói riêng chính là
việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất
đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tập lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các
bên có thể chấp nhận được. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại bốn phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại phổ biến, có thể chia thành nhóm phương
thức giải quyết tranh chấp phi tài phán (thương lượng, hòa giải) và nhóm các
phương thức giải quyết tranh chấp tài phán (trọng tài và tịa án).
Giữa hai nhóm phương thức này có ưu và nhược điểm riêng. Đối với nhóm
phương thức giải quyết tranh chấp phi tài phán là thương lượng và hòa giải, các bên
cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ hoặc có thể mời sự tham gia của bên thứ ba
để hỗ trợ, thuyết phục các bên tìm ra cách giải quyết mâu thuẫn. Hiện nay chưa có
văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về phương thức thương lượng bởi
phương thức này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên chủ thể mà khơng hề có
sự can thiệp bởi bất kỳ bên thứ ba nào. Nếu như trước kia quy định về hịa giải được
giải quyết trong tố tụng thì hiện nay Nghị định mới của Chính phủ đã mở ra cơ chế
giải quyết hòa giải quy định cụ thể trong Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24

tháng 02 năm 2017.
Ưu điểm lớn nhất của nhóm phương thức này là tính thuận tiện, đơn giản,
linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Bên cạnh đó, bảo vệ được uy tín và bí mật trong
kinh doanh của các bên. Ngồi ra, đối với hịa giải thương mại, có sự tham gia của
hịa giải viên là người có chun mơn, kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực và vấn đê
đang tranh chấp nên sẽ đưa ra lời khuyên phù hợp cho cả hai bên. Tuy nhiên, ưu
điểm này chỉ có thể phát huy khi các bên tranh chấp có thiện chí để giải quyết tranh
chấp, và ngược lại, ưu điểm lại có thể trở thành nhược điểm khi các bên không tự

12


nguyện giải quyết. Điều này khiến tranh chấp kéo dài, và tốn kém chi phí trong
trường hợp th hịa giải viên mà không đạt được kết quả mong muốn.
Đối với nhóm phương thức giải quyết tranh chấp tài phán bao gồm trọng tài
và tòa án, đặc điểm khác biệt đầu tiên so với nhóm phi tài phán là được quy định
bởi pháp luật về các vấn đề liên quan tới quá trình giải quyết tranh chấp như thẩm
quyền, tiến trình thực hiện, giá trị phán quyết... Hoạt động trọng tài thương mại
được quy định trong Luật TTTM năm 2010. Hoạt động giải quyết tranh chấp bằng
tịa án mang tính quyền lực nhà nước, hoạt động tố tụng tuân theo quy định trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không công
khai (trừ khi có các bên có thỏa thuận) cịn tranh chấp được giải quyết tại tịa án một
cách cơng khai (trừ các tranh chấp thuộc trường hợp không công khai theo quy định
của pháp luật).
Giá trị của phán quyết trọng tài và tịa án có giá trị ràng buộc, bắt buộc các
bên phải thi hành. Hơn nữa, phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành bởi cơ
quan thi hành án. Điều đó khiến cho các bên thường có tâm lý lựa chọn tòa án để
giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, thủ tục thiếu linh hoạt, thời gian giải quyết kéo
dài do phải tuân theo trình tự tố tụng theo quy định khiến giải quyết tranh chấp tại
tòa án chưa phải là phương thức tối ưu để giải quyết tranh chấp nói chung, tranh

chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nói riêng.
“Trọng tài” là một phương thức giải quyết tranh chấp ngồi tịa án, xét về
mặt lịch sử, hịa giải và trọng tài là hai phương thức giải quyết tranh chấp xuất
hiện sớm hơn so với sự ra đời của tòa án. Trên phương diện quốc tế cũng như
quốc gia, khái niệm trọng tài được tiếp cận với nhiều góc độ với những quan điểm
khác nhau. Với cách tiếp cận trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp
độc lập so với các phương thức khác như thương lượng, hịa giải, tịa án, có một số
quan điểm như sau:
Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ lại đưa ra quan điểm: "Trọng tài là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người
khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt

13


buộc các bên tranh chấp phải thi hành" [10]. Theo quan điểm này, các bên cùng
thống nhất đệ trình vụ tranh chấp tới một bên thứ ba có thể là một cá nhân hoặc một
nhóm cá nhân để được giải quyết và quyết định của bên thứ ba này sẽ là quyết định
cuối cùng và có tính thi hành.
Trong khi đó, điểm a, khoản 2, Luật Mẫu của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về
Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) 1985 quy định: "Trọng tài nghĩa là mọi
hình thức trọng tài có hoặc khơng có sự giám sát của một tổ chức trọng tài
thường trực" [20].
Theo các quan điểm nêu trên có thể thấy trọng tài được nhìn nhận là một
phương thức giải quyết tranh chấp trong đó, các bên tranh chấp cùng tự nguyện thỏa
thuận và thống nhất với nhau để trao quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các
bên cho một bên thứ ba (một cá nhân hoặc một hội đồng) độc lập và chấp nhận sự
ràng buộc quyết định của bên thứ ba do các bên lựa chọn.
Tại Việt Nam, Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm
về trọng tài như sau: "Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh

trong hoạt động thương mại, được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình
tự, thủ tục tố tụng do pháp luật này giải quyết" (khoản 1, Điều 2) [15]. Luật TTTM
năm 2010 ra đời đã định nghĩa "TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp do các
bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này" (khoản 1, Điều 3).
Có thể thấy, quy định của Luật TTTM năm 2010 về cơ bản đã kế thừa nội dung
trong Pháp lệnh TTTM năm 2003, đồng thời có một số điều chỉnh. Cụ thể, Luật
TTTM năm 2010 đã sử dụng thuật ngữ "trọng tài thương mại" thay vì "trọng tài"
như Pháp lệnh TTTM năm 2003 và mở rộng phạm vi tranh chấp nói chung được
trọng tài giải quyết chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi tranh chấp thương mại
như quy định tại Pháp Lệnh TTTM năm 2003.
Có thể thấy, quy định của pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại khá
tiệm cận với các quy định của các tổ chức quốc tế và pháp luật nước ngồi. Theo
đó, nhận định trọng tài thương mại là một tổ chức độc lập, các bên tham gia giải
quyết tranh chấp có quyền thỏa thuận, tuy nhiên vẫn phải tuân thủ các quy định

14


về trình tự, thủ tục theo Luật TTTM năm 2010. Từ đó, có thể hiểu giải quyết
tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài là
việc áp dụng các quy định của pháp luật về TTTM để giải quyết các bất đồng,
mâu thuẫn phát sinh từ việc thực hiện các hoạt động ngân hàng giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng.
1.2.2. Vai trị của trọng tài trong giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng
Như đã phân tích, để giải quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách
hàng có bốn phương thức với những ưu, nhược điểm riêng. Là một trong số đó, giải
quyết tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng bằng phương thức trọng tài
đặc biệt trong những năm gần đây đã thể hiện rõ vai trị của mình, thơng qua những
ưu điểm nổi bật:

Thứ nhất, quyết định trọng tài có tính chung thẩm – một trong những nguyên
tắc khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các bên.
Như đã chỉ ra, tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nói chung,
tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng có thể được giải quyết thơng qua các
phương thức tài phán như trọng tài, tòa án và phương thức phi tài phán như hòa giải
và thương lượng. Đối với các phương thức phi tài phán, kết quả của việc sử dụng
phương thức này sẽ không được đảm bảo nếu hai bên khơng có thiện chí thực hiện.
Ngược lại, với các phương thức tài phán thì phán quyết của trọng tài và bản án được
tuyên của tòa án khi tiến hành giải quyết tranh chấp lại có hiệu lực pháp lý, ràng
buộc các bên chủ thể tham gia phải có trách nhiệm thực hiện.
Tuy nhiên, khác với tịa án, giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân
hàng bằng trọng tài có ưu điểm nổi bật ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và có tính chung
thẩm. Hay nói cách khác, phán quyết của trọng tài có hiệu lực cuối cùng. Điều này
thể hiện trọng tài chỉ có một cấp xét xử, trong khi đó tịa án có hai cấp xét xử và cịn
có thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm khi xảy ra những điều kiện như luật định. TTTM
khơng có cơ quan cấp trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm,
khơng bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa

15


án, cũng khơng có thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm. Tố tụng trọng tài chỉ có một
trình tự giải quyết, tức là các tranh chấp tín dụng nói riêng và tranh chấp thương
mại nói chung chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài. Điều này có ý nghĩa rất
quan trọng đối với các tổ chức tín dụng vì quyết định của trọng tài được thực hiện
ngay, giúp các bên tranh chấp giảm bớt chi phí và thời gian.
Nếu quyết định của trọng tài khơng bị tịa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của
một trong các bên mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì sau thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, bên được thi
hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh

nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết
định trọng tài.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo bí mật cho các chủ thể.
Xét về tính bí mật về thơng tin tranh chấp thì phương thức hịa giải, thương
lượng đảm bảo tuyệt đối tính chất này. Tuy nhiên, do kết quả của phương thức này
không được đảm bảo trên thực tế cho nên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vẫn là
phương thức được đa số các doanh nghiệp lựa chọn.
Trọng tài được thành lập để giải quyết tranh chấp theo thỏa thuận, yêu cầu
của các bên. Theo đó, các bên có quyền thỏa thuận, lựa chọn trọng tài viên hoặc hội
đồng trọng tài, lựa chọn hình thức, thủ tục tố tụng trọng tài cũng như nguyên tắc xét
xử của trọng tài. Nguyên tắc xét xử kín của trọng tài là một trong những nguyên tắc
hấp dẫn các bên tranh chấp. Nguyên tắc này đối lập với nguyên tắc xét xử cơng khai
của tịa án. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ cần phải công khai phán
quyết của trọng tài, ví dụ mục đích thi hành bởi tịa án quốc gia. Ngồi việc cơng bố
các phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật, việc công bố cịn được thực
hiện khi một tổ chức trọng tài, ví dụ: Phịng thương mại Quốc tế, có trụ sở tại Paris,
xuất bản các bản sao quyết định trọng tài được sắp xếp và biên tập như là tài liệu
hướng dẫn cho các luật sư và trọng tài viên.
Tại Việt Nam, tính bí mật trong việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức
trọng tài cũng được bảo đảm. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp tổ

16


chức tín dụng bảo đảm được tính bí mật cho khách hàng của mình. Đây là một trong
năm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được quy định trong Luật
TTTM năm 2010 như sau: “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành
không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác” [17]. Quy tắc tố tụng
của VIAC năm 2017 cũng đã quy định: “2. Việc giải quyết tranh chấp tại Trung
tâm được tiến hành không công khai, trừ khi các bên c thỏa thuận khác. Hội đồng

trọng tài có quyền áp dụng các biện pháp thích hợp nếu thấy rằng một bên vi phạm
quy định này” (Điều 38); Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài phía Nam cũng có
quy định tương tự: “Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không cơng
khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác” (Điều 24). Bên cạnh đó, các bên
khi ký kết hợp đồng tín dụng, cịn có thể bổ sung điều khoản về tính bí mật khi giải
quyết tranh chấp tại trọng tài. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh
tính của các bên sẽ được giữ kín, bảo đảm yêu cầu về uy tín, tin cậy trong quan hệ
tín dụng ngân hàng trong và ngồi nước. Đây là ưu điểm lớn mà phương thức trọng
tài mang lại, thay vì việc xét xử cơng khai tại tịa, điều mà các doanh nghiệp luôn
coi là tối kỵ trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu của mình.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính mềm dẻo, linh hoạt và
nhanh chóng cho các bên. Đây là những ưu điểm vượt trội của trọng tài so với giải
quyết tranh chấp bằng tịa án:
Tính mềm dẻo, linh hoạt: Tòa án khi xét xử một vụ án phải tuân theo các quy
định của pháp luật tố tụng về thủ tục, thời gian, địa điểm và trình tự xét xử... Trong
khi đó với trọng tài, các bên thơng thường được tự do lựa chọn thủ tục áp dụng. Các
Trung tâm trọng tài thường xây dựng quy tắc tố tụng riêng trên cơ sở phù hợp với
quy định của pháp luật. Quy tắc tố tụng này sẽ được áp dụng để giải quyết tranh
chấp khi trong hợp đồng tín dụng, các bên thỏa thuận lựa chọn Quy tắc tố tụng hay
tổ chức trọng tài xây dựng Quy tắc tố tụng đó.
Ví dụ: Điều 1 phạm vi áp dụng quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng
tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam quy
định như sau:

17


Quy tắc này được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại khi:
1. Các bên có thoả thuận chọn Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam

và/hoặc chọn Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam để
giải quyết vụ tranh chấp; hoặc
2. Các bên có thoả thuận chọn Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam để giải
quyết vụ tranh chấp nhưng khơng có thoả thuận chọn quy tắc tố tụng trọng tài khác.
Cũng trong Quy tắc tố tụng và quy định của pháp luật, đương sự cịn có
quyền lựa chọn trọng tài viên dựa trên những kinh nghiệm và uy tín của họ để giải
quyết tranh chấp. Ví dụ, tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam hiện nay có 139
trọng tài viên trong nước và 6 trọng tài viên quốc tế đều là những chuyên gia hàng
đầu trong lĩnh vực thương mại [14, tr.4]. Đương sự có thể tự lựa chọn trọng tài viên
trong danh sách trọng tài viên để tham gia vào Hội đồng trọng tài hoặc yêu cầu Chủ
tịch Trung tâm chỉ định trọng tài viên giúp đương sự có sự chủ động và niềm tin
vào kết quả giải quyết tranh chấp (Điều 7, Điều 8 Quy tắc tố tụng VIAC). Theo đó,
các bên sẽ có cơ hội sử dụng các luật sư có kinh nghiệm về lĩnh vực ngân hàng ra
quyết định về vụ việc, thay vì sử dụng thẩm phán của toà án quốc gia. Điều này
cũng đặc biệt có lợi khi lựa chọn các trọng tài viên có khả năng chun mơn giải
quyết các vụ tranh chấp có tính chất quốc tế.
Đây cũng là nhân tố quan trọng đảm bảo giải quyết tranh chấp một cách hiệu
quả, công bằng và chính xác, bảo vệ quyền lợi của đương sự một cách tối đa. Bên
cạnh đó, các đương sự còn được lựa chọn thời gian, địa điểm giải quyết nhằm thuận
tiện cho các bên. Điều này còn phát huy tính dân chủ và khách quan trong q trình
tố tụng, đồng thời giúp giảm thiểu những bất đồng về lợi ích và tiết kiệm cho các
bên. Quy định về thủ tục rút gọn của VIAC nhằm đáp ứng nhu cầu của các bên khi
cần tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc giải quyết tranh chấp. Theo đó, tranh
chấp có thể được giải quyết theo thủ tục rút gọn trên cơ sở sự đồng thuận của các
bên. Trong qua trình giải quyết tranh chấp bằng thủ tục rút gọn, Hội đồng trọng tài
có thể tiến hành hành phiên họp giải quyết vụ tranh chấp bằng phương thức hội nghị

18



×