Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Khảo sát tình hình mắc bệnh Viêm tử cung ở đàn bò sữa nuôi tại trang trại TH True Milk tỉnh Nghệ An và đánh giá các phác đồ điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN
KHOA NÔNG LÂM NGƯ

BÁO CÁO
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Ngành: Thú y

Đề tài “Khảo sát tình hình mắc bệnh Viêm tử cung ở đàn
bò sữa nuôi tại trang trại TH True Milk tỉnh Nghệ An
và đánh giá các phác đồ điều trị”.

Sinh viên thực hiện: Đặng Hoàng Chinh
Lớp: Đại học thú y Khoá 2
Người hướng dẫn: Thạc Sỹ Nguyễn Đình Tường

Nghệ An, tháng 9 năm 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN
KHOA NÔNG LÂM NGƯ

BÁO CÁO
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Ngành: Thú y
Đề tài “Khảo sát tình hình mắc bệnh Viêm tử cung ở đàn
bò sữa nuôi tại trang trại TH True Milk tỉnh Nghệ An
và đánh giá các phác đồ điều trị”.

Sinh viên thực hiện: Đặng Hoàng Chinh
Lớp: Đại học thú y Khoá 2
Người hướng dẫn: Thạc Sỹ Nguyễn Đình Tường



Nghệ An, tháng 9 năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành báo cáo tốt nghiệp trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn tới
toàn thể các Thầy, Cô giảng viên Trường Đại Học Kinh Tế Nghệ An đã
truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu và bổ ích trong suốt những năm
học vừa qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong các bộ môn đã chỉ
bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc Sỹ Nguyễn Đình
Tường, giảng viên khoa Thú Y - Khoa Nông Lâm Ngư - Trường Đại Học Kinh
Tế Nghệ An , thầy đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt quá
trình thực tập và hoàn thành báo cáo tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Công Ty Cổ Phần Sữa TH True-Milk,
cùng toàn thể kỹ sư, bác sĩ thú y và công nhân trang trại đã tạo điều kiện và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập, đã trực tiếp hướng dẫn tôi, chỉ bảo
tôi rất nhiệt tình trong quá trình tôi tham gia thực tập ở trại.
Đồng thời, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến toàn thể gia
đình, bạn bè đã tạo điều kiện, giúp đỡ và luôn động viên tôi trong suốt quá
trình học tập cũng như trong thời gian thực tập.
Trong quá trình thực tập, bản thân tôi không tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong được sự quan tâm, góp ý của các Thầy Cô để tôi được trưởng
thành hơn trong công tác sau này.
Cuối cùng, tôi xin kính chúc toàn thể các Thầy Cô giáo trong khoa Thú
Y cùng gia đình và bạn bè luôn luôn mạnh khỏe và công tác tốt.
Vinh, ngày 16 tháng 9 năm 2019
Sinh viên
Đặng Hoàng Chinh



DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. : Lịch phòng bệnh bằng vacxin cho đàn bò sữa của trại.....................10
Bảng 4.2. Các chỉ tiêu để chẩn đoán bệnh viêm tử cung ở bò sữa......................32
Bảng 1.3. Một số bệnh sinh sản hay mắc ở bò sữa tại trại trong 2 năm..............38
Bảng 2.4 : Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở đàn bò sữa trong 2 năm...................40
2017 – 2018.........................................................................................................40
Bảng 2.5 : Tỷ lệ bò sữa mắc bệnh viêm tử cung qua các lứa đẻ..........................41
Bảng 2.6 : Tỷ lệ viêm tử cung ở 3 giai đoạn chờ phối, sau phối và sau đẻ.........42
Bảng 2.7 : Số ca mắc bệnh viêm tử cung trên đàn bò sữa sinh sản từ tháng 6
đến tháng 9 năm 2019..........................................................................................43
Bảng 2.8 : Tỷ lệ mắc các thể viêm tử cung bò sữa ( n=169 )..............................45
Bảng 3.9 : Kết quả thử nghiệm phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung trên bò sữa
tại trại...................................................................................................................46
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Bò sữa được gắn chíp điện tử vào chân.............................................6
Hình 1.2. Chíp điện tử.......................................................................................7
Hình 4.3. Viêm nội mạc tử cung..................................................................... 28
Hình 4.4. Viêm cơ tử cung.............................................................................. 29
Hình 4.5. Viêm tương mạc tử cung.................................................................30
Hình 7.6. Dịch viêm ở thể viêm nội mạc tử cung........................................... 35
Hình 7.7. Dịch viêm ở thể viêm cơ tử cung....................................................35
Hình 7.8. Dịch viêm ở thể viêm tương mạc tử cung.......................................35
Hình 1.9. Bò sữa bị bệnh viêm tử cung.................................................................. 39
Hình 1.10. Bò sữa bị sót nhau.........................................................................39
Hình 4.11. Bò sữa bị lệch dạ múi khế............................................................. 39


DANH MỤC VIẾT TẮT

E. coli

Escherichia coli

NXB

Nhà Xuất Bản

TT

Thể Trọng

VN

Việt Nam

LMLM

Lở Mồm Long Móng


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì
nhu cầu sử dụng thực phẩm có giá trị dinh dưỡng như: thịt, trứng, sữa,... ngày
càng cao. Trong khi chăn nuôi lợn, gà gặp rất nhiều khó khăn do giá thức ăn

tăng cao, dịch bệnh cùng với giá bán xuống thấp... thì chăn nuôi bò sữa vẫn
mang lại thu nhập khá ổn định cho người chăn nuôi. Trong đó sữa luôn là
thực phẩm được lựa chọn hàng đầu về thành phần dinh dưỡng, nên nhu cầu về
sữa ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Theo thống kê của tổ chức Nông lương
Liên hiệp quốc (FAO), trong vài năm trở lại đây tăng trưởng ngành sữa ở các
nước phát triển là trên 4% và xu hướng này càng tăng nhanh hơn so với các
nước đang phát triển. Việt Nam cũng là một nước đang phát triển và ngành
sữa là một trong những ngành đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong ngành
thực phẩm ở Việt Nam, với mức tăng trưởng doanh thu trung bình đạt
18%/năm. Chính phủ nước ta đã chú trọng và thúc đẩy việc phát triển chăn
nuôi bò sữa. Các địa phương và doanh nghiệp đã triển khai xây dựng nhiều dự
án phát triển chăn nuôi bò sữa và nhập khẩu, nhân giống, lai tạo đàn bò sữa trong
nước nhằm nâng cao sản lượng sữa, giảm bớt tình trạng nhập khẩu sữa chất
lượng không đồng đều, giá thành cao. Chăn nuôi bò sữa là chiến lược tạo công
việc và thu nhập ổn định cho các vùng nông thôn Việt Nam và cung cấp những
sản phẩm sữa chất lượng cho nhu cầu ngày càng cao do tăng dân số, tốc độ đô
thị hoá – công nghiệp hoá, thu nhập được cải thiện và nhận thức của người tiêu
dùng về giá trị dinh dưỡng của sữa đặc biệt cho trẻ em.Để chăn nuôi bò sữa
đạt hiệu quả cao bên cạnh những yếu tố về thức ăn, chuồng trại, kỹ thuật chăn
nuôi… thì một trong những yếu tố hết sức quan trọng cần được đảm bảo là
phải có con giống tốt. Điều này phụ thuộc rất lớn vào năng suất sinh sản của
bò sữa cái.
Bò sữa sinh sản thường gặp rất nhiều bệnh như Ketosis, Viêm nhiễm
đường sinh dục, Viêm móng, Viêm vú, Lệch dạ múi khế... trong các bệnh
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

1

Lớp: Thú y K2



Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

viêm nhiễm đường sinh dục thường gặp ảnh hưởng đến bò sữa phải kể đến
bệnh viêm tử cung chiếm tỉ lệ khá cao. Bệnh làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả
năng sinh sản của bò sữa. Nếu không điều trị kịp thời có thể kế phát viêm vú,
mất sữa, nặng có thể dẫn tới rối loạn sinh sản, chậm sinh, vô sinh, viêm phúc
mạc, viêm vú, mất sữa...có thể chết. Làm tổn thất lớn đến phát triển chăn nuôi
bò sữa và kinh tế gia đình.
Những vấn đề nêu trên chỉ ra rằng việc nghiên cứu về bệnh viêm tử cung ở
đàn bò sữa cái sinh sản tìm ra phương pháp phòng trị bệnh là việc làm cần
thiết. Với mục đích góp phần nâng cao năng suất sinh sản của đàn bò sữa cái,
đồng thời bổ sung tài liệu nghiện cứu về lĩnh vực sinh sản của giống bò sữa.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “Khảo sát tình hình mắc bệnh Viêm
tử cung ở đàn bò sữa nuôi tại trang trại TH True Milk tỉnh Nghệ An và
đánh giá các phác đồ điều trị”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá thực trạng bệnh viêm tử cung trên đàn bò sữa nuôi tại công ty
cổ phần thực phẩm sữa TH thuộc xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ
An phục vụ công tác chẩn đoán bệnh và đưa ra một số biện pháp phòng, trị
hữu hiệu bệnh viêm tử cung ở bò sữa làm giảm thiệt hại cho chăn nuôi bò sữa.
3. Ý nghĩa đề tài:
- Cung cấp, bổ sung thêm những thông tin và bằng chứng thực tiễn về tình
hình bệnh viêm tử cung trên đàn bò sữa nuôi tại công ty cổ phần thực phẩm
sữa TH thuộc xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An
- Kết quả nghiên cứu là một phần quan trọng để tổng hợp và khuyến cáo
về thực trạng bệnh viêm tử cung trên đàn bò sữa cũng như những biến đổi về
một số chỉ tiêu lâm sàng, vi khuẩn học và biện pháp phòng trị từ đó giúp

người chăn nuôi, người quản lý, các thú y cơ sở khoa học trong việc chẩn
đoán bệnh cũng như áp dụng biện pháp phòng và trị thích hợp nhằm giảm
thiểu tác hại do bệnh gây ra góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho người
chăn nuôi
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

2

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

- Kết quả của công trình nghiên cứu là tài liệu tham khảo dùng cho các nhà
chuyên môn, các thú y cơ sở và người chăn nuôi phục vụ công tác giảng dạy,
nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực bệnh sinh sản gia súc nói chung và
bệnh sinh sản của bò sữa nói riêng.

SVTT: Đặng Hoàng Chinh

3

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

Phần thứ nhất

TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Tình hình cơ bản tại đơn vị
1.1. Vài nét cơ bản về trang trại số 1 nuôi bò sữa của công ty TH True Milk
thuộc xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An
1.1.1. Vị trí địa lý:
Trại bò sữa của Công ty Cổ phần thực phẩm sữa TH True Mik được
xây dựng tại xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Huyện Nghĩa
Đàn là huyện miền núi nằm về phía Tây Bắc của của tỉnh Nghệ An có tọa độ
105018’ - 105035’ kinh độ Đông và 19013’ - 19033’ vĩ độ Bắc giáp ranh với
các huyện:
Phía Bắc giáp huyện Như Xuân (Thanh Hoá)
Phía Nam giáp huyện Tân Kỳ
Phía Đông giáp huyện Quỳnh Lưu
Phía Tây giáp huyện Quỳ Hợp
Huyện có thị xã Thái Hòa và thị trấn Nghĩa Đàn vừa mới thành lập nằm
ở vị trí trung tâm của huyện. Với vị trí địa lý như vậy, huyện giữ vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Nghệ An.
1.1.2. Đặc điểm thời tiết khí hậu
Nghĩa Đàn chịu ảnh hưởng của khí hậu vùng Bắc Trung Bộ và vùng
Tây Bắc Nghệ An, có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, theo trạm khí tượng Tây
Hiếu, Nghĩa Đàn có những đặc trưng khí hậu sau:
Nhiệt độ trung bình năm 23,3°C, trung bình tháng cao nhất 28 - 29°C ở
các tháng 6,7; trung bình dưới 20°C chỉ xuất hiện ở 3 tháng 12, 1, 2. Có 6
tháng (từ tháng 4 - 10) nhiệt độ trung bình vượt quá 25°C. Tháng có nhiệt độ
trung bình thấp nhất 18°C (tháng 1). Chênh lệch nhiệt độ ngày đêm các tháng
mùa hè 8 - 11°C, mùa đông 6 - 8°C.
Trong các tháng mùa đông do nhiệt độ xuống thấp nên thường xuất
hiện sương mù, có năm bị sương muối nhưng ít ảnh hưởng đến sản xuất.

SVTT: Đặng Hoàng Chinh

4

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

Lượng mưa trung bình 1.633mm, trong đó có trên 70% lượng mưa tập
trung từ tháng 5 - 10. Lượng mưa bình quân cao nhất 2.784 mm (1978), bình
quân thấp nhất 1.16mm (1969).
Tổng lượng nước bốc hơi bình quân năm 825 mm, ẩm độ trung bình
nhiều năm phổ biến là 80 - 86%.
Nhìn chung, khí hậu thời tiết ở Nghĩa Đàn phù hợp cho cây trồng, vật
nuôi phát triển.
Nghĩa Đàn nằm trong lưu vực sông Hiếu là nhánh sông lớn nhất của hệ
thống sông Cả bắt nguồn từ biên giới Việt - Lào chảy qua địa phận huyện
Nghĩa Đàn với chiều dài trên 50km. Tổng lượng dòng chảy bình quân nhiều
năm qua huyện là 3,7 tỷ m3 nước. Dòng chảy lớn nhất mùa lũ 5810m 3/s, mùa
cạn chỉ đạt 13m3/s. Ngoài ra, còn có trên 100 hồ đập thủy lợi với trữ lượng
hàng chục triệu m3, đây là lợi thế về nguồn nước mặt cho phát triển kinh tế
nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và là cơ sở cho việc xây dựng vùng du lịch
sinh thái sau này.
1.1.3. Cơ sở vật chất của trang trại
Trang trại của tập đoàn TH True Milk tại Nghĩa Đàn (Nghệ An) đạt kỷ
lục với cánh đồng trồng nguyên liệu nuôi bò và một nhà máy sản xuất chế
biến sữa tươi sạch cho ra 500 triệu lít sữa/năm.

Nơi đây hiện có 45.000 con bò sữa với hơn 22.000 con cho sữa, cho
năng suất sữa bình quân 40 lít/ con/ ngày được nuôi trong trang trại tập trung
và khép kín. Để cung cấp thức ăn cho bò, TH còn có một cánh đồng nguyên
liệu hơn 2.000 ha với các loại ngô, cao lương, hướng dương, cỏ Mombasa
(Mỹ).... Bò sữa sống dưới các chuồng trại lợp tôn lạnh 3 lớp, có quạt gió, hệ
thống phun sương làm mát cho bò... Chúng được nghe các bản nhạc cổ điển,
dân ca mỗi ngày.
Bò sữa tại trang trại TH chủ yếu được nhập khẩu từ các nước có nguồn
giống tốt, cho năng suất sữa cao, chất lượng như New Zealand, Australia....
Trang trại có chế độ ăn riêng cho từng cá thể bò với các chế độ dinh dưỡng
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

5

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

khác nhau: bò đang vắt sữa, bò cạn sữa, bò đang dưỡng bệnh, bê con.... Nước
uống của chúng được lọc qua hệ thống máy móc hiện đại nhập từ Hà Lan.
Mỗi cụm trại đều có một nhà máy xử lý nước sạch Amiad để cung cấp nước
uống, tắm mát cho bò sữa. Từng con bò được gắn chíp điện tử dưới chân để
theo dõi một số chỉ tiêu của bò như số bước chân trong một ngày, độ dẫn điện
của sữa,....

Hình 1.1. Bò sữa được gắn chíp điện tử vào chân


SVTT: Đặng Hoàng Chinh

6

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

Hình 1.2. Chíp điện tử
Trường hợp nào bị bệnh sẽ tự động loại ra khỏi khu vực vắt sữa và đảm
bảo chất lượng sữa tốt nhất. Nhà máy sản xuất chế biến sữa tươi sạch có công
suất thiết kế hơn 500 triệu lít sữa/năm, lớn nhất và hiện đại nhất châu Á cả về
quy mô lẫn công nghệ. Toàn bộ sản phẩm làm hoàn toàn từ sữa bò tươi
nguyên chất qua các quy trình được kiểm tra hàm lượng dinh dưỡng như
protein, chất béo, test kháng sinh, các chỉ tiêu lý hóa, vi sinh. TH True Milk
vừa nhận danh hiệu Trang trại chăn nuôi bò sữa tập trung, ứng dụng công
nghệ cao có quy mô lớn nhất châu Á do tổ chức kỷ lục châu Á xác nhận.
1.1.4. Cơ cấu tổ chức, chức năng của Trại
a) Cơ cấu của trại
Trại có tổng tất cả là 100 người chia thành 8 bộ phận gồm có:
+ Bộ phận đàn

+ Bộ phận khu vắt sữa

+ Bộ phận thú y

+ Bộ phận điện nước


+ Bộ phận thức ăn

+ Bộ phận hành chính

+ Bộ phận khu bê

+ Bộ phận lái máy

Có 1 trưởng trại quản lý chung và 1 phó trại làm quản lý đàn. Mỗi bộ
phận có 1 người trưởng và 1 người làm phó bộ phận.
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

7

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

Trại có 12 dãy chuồng hơn 6000 bò gồm bò đẻ, bò vắt sữa, bò tơ và bò
có chửa. Có 3 dãy chuồng bê với gần 1000 bê. Khu vắt sữa nằm tách riêng ra
nằm ở phía Tây của trại.
b) Chức năng, nhiệm vụ của trại
Là trại của công ty TH chuyên nuôi bò vắt sữa, 100% bò HF (Holstein
Friesian). Trại có hệ thống vắt sữa hiện đại, sữa vắt được cung cấp cho nhà
máy chế biến. Trại còn có nhiệm vụ nuôi bê và cung cấp cho các trại khác
trong cùng công ty.

Ngoài ra, trại nhận thêm nhân sự vào để đào tạo, hướng dẫn cho những
người làm nghiên cứu và các đề tài nghiên cứu khoa học.
c) Quy mô chăn nuôi
Công ty cổ phần Thực phẩm Sữa TH được xây dựng với quy mô công
nghiệp hiện đại, tại Trang trại bò sữa TH, cách chế biến thức ăn, chăn nuôi bò
sữa kiểu tập trung, vắt sữa bò thuộc một quy trình khép kín với quy trình công
nghệ nhập khẩu 100% từ Israel.
Theo kế hoạch tổng thể, công ty đặt mục tiêu đạt sản lượng sữa bằng
50% tổng lượng sữa của cả nước vào năm 2011 và đạt tổng sản lượng sữa tươi
nguyên liệu gấp 3 - 4 lần tổng sản lượng sữa tươi nguyên liệu của cả nước vào
năm 2015.
Quy mô dự án gồm 13 trang trại (12 trại sản xuất và 1 trại cách ly), dự
kiến mỗi trang trại nuôi 2.500 con bò vắt sữa, một nhà máy chế biến sữa công
suất 100 tấn sữa/ngày và đạt công suất 500 tấn/ngày vào năm 2012, bằng công
nghệ tiên tiến và thiết bị hiện đại của Israel. Ðây là dự án lớn nhất của ngành
Nông nghiệp lần đầu được xây dựng tại Nghệ An nói riêng và trong cả nước
nói chung.
Ngày 27/2/2010, Công ty Cổ phần thực phẩm sữa TH đã nhập đợt bò
đầu tiên 1.600 con bò sữa thuần chủng HF (Holstein Friesian) từ New
Zealand qua cảng Cửa Lò cho dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập
trung quy mô công nghiệp. Tiếp theo, ngày 18/4/2010 công ty nhập đợt 2 với
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

8

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp


GVHD: Nguyễn Đình Tường

tổng số 1.490 con. Như vậy, dự án đã nhập về 3.090 con trong tổng số dự kiến
nhập là 24.000 con phục vụ hoạt động nhân giống cho dự án. Đàn bò giống
nhập về đều có sức khoẻ tốt, đáp ứng yêu cầu về kiểm dịch và vệ sinh thú y
của Việt Nam.
Dự án thành công sẽ một trong những mô hình điểm về chăn nuôi bò
sữa công nghiệp gắn liền với chế biến công nghiệp, chủ động tạo vùng
nguyên liệu ổn định và bền vững. Dự án dự kiến góp phần tăng ngân sách
khoảng 40 triệu USD/năm cho tỉnh Nghệ An.
1.1.5. Công tác vệ sinh, chăm sóc, phòng trị bệnh cho đàn bò sữa
Công tác vệ sinh của trại bao gồm các khâu: dọn phân, làm sạch nền
đất ở chuồng, rửa máng ăn, tắm chải cho đàn bò, xử lý rác thải, thức ăn dư
thừa, phun thuốc sát trùng cho chuồng trại và xung quanh, sát trùng các
phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi, dụng cụ thú y, xử lý nguồn
nước….
Tuỳ vào điều kiện thời tiết, mùa vụ mà việc vệ sinh chăm sóc thay đổi
cho phù hợp:
- Dọn phân, làm sạch nền đất ở chuồng, tắm chải: mỗi ngày rửa và tắm
cho bò 3 lần/1 ngày vào mùa hè, mùa rét thì 2 - 3 ngày tắm 1 lần. Máng ăn có
máy đi dọn cỏ 1 ngày 3 - 4 lần, vào đầu buổi sáng máy đi thu dọn và bỏ hết
thức ăn dư thừa.
- Sát trùng: Với chuồng trại thì có chế độ phun thuốc sát trùng định kỳ và
không định kỳ. Trong chuồng sử dụng dung dịch cồn Iod 10% để phun thuốc
sát trùng định kỳ một tuần một lần. Bên ngoài phun thuốc sát trùng một tháng
một lần, khi có dịch mỗi ngày phun 1 lần vào buổi sáng trong ngày.
Các phương tiện vận chuyển ra vào trại đều được phun thuốc sát trùng. Để
vào khu chăn nuôi phải đi thay quần áo bảo hộ và qua một vũng dung dịch sát
trùng.
- Nguồn nước uống: Nước sử dụng cho bò uống được lấy từ giếng

khoan, sau đó qua hệ thống lọc, rồi theo hệ thống ống dẫn đến từng máng
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

9

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

uống trong chuồng, nguồn nước ở đây đã được sở Tài nguyên và Môi trường
kiểm tra và cấp giấy phép đạt tiêu chuẩn chăn nuôi.
- Xử lý phân thải: Phân thải và nước tiểu của bò được thu lại và cho vào
hệ thống xử lý phân thô, phân tiếp tục được chuyển ra khỏi trại và được đưa
đến nhà máy xử lý phân ở khu khác.
* Phòng bệnh bằng vacxin
Trại đã áp dụng một chương trình vacxin cụ thể và chặt chẽ đối với
từng loại bò. Cụ thể việc phòng bệnh bằng vacxin được thể hiện qua bảng
dưới đây :
Bảng 1.1. : Lịch phòng bệnh bằng vacxin cho đàn bò sữa của trại
Cách dùng
Giai đoạn

5 tuần tuổi
3 tháng tuổi

4 tháng tuổi


Loại vacxin
Aftovax
BIVALENT
Tụ huyết trùng
chủng P52 +
Botulism
Aftovax
BIVALENT
+
Botulism

5 tháng tuổi

Covexin 10
CattleMaster4
L5

6 tháng tuổi

Aftovax
BIVALENT
Covexin 10
CattleMaster4
L5

7 tháng tuổi

Rb – 51

SVTT: Đặng Hoàng Chinh


Phòng bệnh

Liều
Đường
(ml/con) đưa vacxin

LMLM

2

Tiêm dưới
da

Tụ huyết trùng +
2
Phòng nhiễm độc thịt

Tiêm bắp

LMLM
+
Phòng
2
nhiễm độc thịt

Tiêm dưới
da

Do VK Clostridium +

VK Rhinotracheitis +
+
VR BVD + VR
+
2
Parainfluenza P13 + 5
chủng lepto
LMLM + Do VK
Clostridium + VK
+
Rhinotracheitis + VR
+
2
BVD
+
VR
+
Parainfluenza P13 + 5
chủng lepto
Xảy thai truyền nhiễm 2

10

Tiêm bắp

Tiêm dưới
da+
tiêm
bắp
Tiêm bắp


Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

Rabisin

10 tháng tuổi

Tụ huyết trùng
Tụ Huyết Trùng +
chủng P52 +
2
Phòng nhiễm độc thịt
Botulism

Tiêm bắp

12 tháng tuổi

Rb - 51

Tiêm bắp

13 tháng tuổi

Covexin 10

CattleMaster4
L5

14 tháng tuổi

Botulism
Anthrax

Bệnh dại

Xảy thai truyền nhiễm

2

Tiêm dưới
da

9 tháng tuổi

2

Do VK Clostridium +
+ VK Rhinotracheitis +
Tiêm dưới
+ VR BVD + VR 2
da+tiêm
Parainfluenza P13 + 5
bắp
chủng lepto
Phòng nhiễm độc thịt

+
Tiêm dưới
+ bệnh do VK Bacillus 2
da
anthracis
( Nguồn từ thú y trại)

Qua thời gian thực tập tại trại, chúng tôi thấy trại đã quan tâm tới công tác vệ
sinh, vệ sinh và sát trùng xung quanh sạch sẽ, cống và rãnh thoát nước thải
được khơi thông định kỳ, có khu chứa phân riêng biệt. Công tác quản lý ra
vào khu chăn nuôi rất chặt chẽ. Tuy nhiên chuột và ruồi vẫn còn nhiều, chúng
là vật chủ trung gian và gieo rắc mầm bệnh.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở trong nước
Hơn 10 năm trở lại đây, phong trào chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam đang
phát triển mạnh về số lượng ở trang trại cũng như trong nông hộ. Tình hình
dịch bệnh cũng không ngừng tăng lên, đặc biệt là các bệnh sản khoa một số
tác giả như Nguyễn Văn Thanh (1999), Phạm Trung Kiên (2012).... đã có
những nghiên cứu về lĩnh vực sinh sản và bệnh sinh sản của bò nói chung và
bệnh viêm tử cung ở bò sữa nói riêng.
Theo Nguyễn Văn Thanh (1999), bệnh Viêm tử cung ở đại gia súc nói
chung và bò sữa nói riêng là một quá trình bệnh lý phức tạp được thể hiện
dưới nhiều thể khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới
rối loạn sinh sản, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản của gia súc cái.
Nguyễn Văn Thanh, Trần Tiến Dũng (2007) đã tiến hành khảo sát tỷ lệ
mắc và thử nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung ở đàn bò sữa nuôi tại một số
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

11

Lớp: Thú y K2



Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

địa phương ngoại thành Hà Nội và Bắc Ninh cho biết : tỷ lệ mắc bệnh viêm tử
cung ở đàn bò sữa nuôi tại một số địa phương thuộc huyện Gia lâm thành phố
Hà Nội và huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh là khá cao trung bình 21,32% có địa
phương lên tới 25,71%.
Nguyễn Văn Thanh và cs (2007) nghiên cứu về thành phần các loài vi
khuẩn trong dịch viêm tử cung âm đạo của bò sữa và tính mẫn cảm với một số
thuốc kháng sinh thông dụng cho biết : trong dịch tử cung âm đạo bò khoẻ
mạnh sau đẻ 12-24 giờ có 88,89% số mẫu bệnh phẩm phát hiện thấy E.coli;
83,33% có Staphylococcus; 77,78% có Streptococus và 55,56% phát hiện thấy
Salmonella. Khi tử cung âm đạo bị viêm, 100% số mẫu bệnh phẩm xuất hiện
các vi khuẩn kể trên ngoài ra con xuất hiện thêm 02 loại vi khuẩn
Pseudomonas với tỷ lệ 22,27% và Corynebacterium với tỷ lệ 18,18%. Các
loại vi khuẩn kể trên mẫn cảm không cao với các thuốc thú y thông dụng.
Phạm Trung Kiên (2012) nghiên cứu thực trạng bệnh viêm tử cung trên đàn
bò sữa nuôi tại khu vực đồng bằng sông Hồng thông báo: tỷ lệ mắc bệnh viêm tử
cung ở đàn bò sữa nuôi tại một số địa phương thuộc khu vực đồng bằng sông
Hồng là khá cao, trung bình 22,88% giao động từ 20,52% đến 26,07%. Bệnh
thường mắc ở những bò đẻ lứa đầu và những bò đã đẻ nhiều lứa. Tỷ lệ mắc bệnh
ở các mùa là khác nhau, cao nhất vào mùa hè 29,46% và thấp nhất là mùa thu
17,28 %, tỷ lệ bệnh ở giai đoạn sau khi sinh cao hơn nhiều so với giai đoạn chờ phối.
3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở nước ngoài
Chăn nuôi bò là một nghề chiếm tỷ trọng cao trong ngành chăn nuôi ở
nhiều nước trên thế giới. Nhằm khai thác hiệu quả giá trị dinh dưỡng và sinh
khối của loài, các nước phát triển trên thế giới không ngừng đầu tư cải tạo

giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng
sinh sản của chúng. Trong đó các vấn đề về bệnh sinh sản của gia súc cũng là
chủ đề được ngành thú y đặc biệt quan tâm. Hàng năm các chương trình đào
tạo quốc tế về sinh sản gia súc được tổ chức tại một số Trường Đại học thú y,
Trung tâm Khoa học quốc tế về Nông nghiệp của các nước có ngành chăn
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

12

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

nuôi phát triển như Pháp, Thủy Điển, Úc, Ai Cập…. Nội dung của các khóa
đào tạo chủ yếu về nghiên cứu phương pháp chẩn đoán phát hiện và điều trị
các bệnh sinh sản, vì hàng năm các bệnh sinh sản đã gây tổn thất rất lớn trong
chăn nuôi nói chung và chăn nuôi bò sữa nói riêng.
Trong các bệnh của cơ quan sinh dục cái thì bệnh ở tử cung đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Ở các nước có ngành chăn nuôi bò phát
triển (Pháp, Úc, Hà Lan, Mỹ, Canada), để hạn chế các bệnh sản khoa, nhiều
công trình nghiên cứu đã tập trung giải quyết đã có kết quả cao trong việc
khống chế các bệnh sản khoa (Andriamarga S, Stephan J và Thibier M, 1984)
đã nghiên cứu vấn đề dịch tễ với sự quan tâm đặc biệt đến chu kỳ tính để hạn
chế bệnh viêm tử cung ở bò sữa. Các tác giả Chuffaux SY, Recorbet Y, Baht P,
Crespean F và Thibier M, (1987) đã tiến hành sinh thiết niêm mạc tử cung bò
bị bệnh sản khoa để tìm hiểu quá trình sinh bệnh cho biết: hậu quả của thụ
tinh nhân tạo thô bạo, sai nguyên tắc đã làm tăng tỷ lệ bệnh viêm tử cung

trong chăn nuôi bò sữa.
4. Cơ sở lý luận
4.1. Đặc điểm sinh sản của bò sữa
4.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục của bò sữa
- Giống như các loài gia súc khác, đường sinh dục bò sữa được chia
thành 2 bộ phận: bộ phận sinh dục bên ngoài và bộ phận sinh dục bên trong.
+) Bộ phận sinh dục bên ngoài gồm: Âm môn, âm vật, tiền đình.
+) Bộ phận sinh dục bên trong gồm: Âm đạo, tử cung, buồng trứng, ống
dẫn trứng.
a, Bộ phận sinh dục bên ngoài
+ Âm môn (Vulva) hay còn gọi là âm hộ: Nằm dưới hậu môn, bên ngoài có 2
môi (Labia vulvae) bờ trên hai môi có nhiều tuyến tiết chất nhờn trắng và mồ
hôi.
+ Âm vật (Clit): Giống như dương vật thu nhỏ lại, bên trong có các thể hổng,
trên âm vật có lớp da tạo ra mũ âm vật, giữa âm vật bẻ gập xuống dưới.
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

13

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

+ Tiền đình (Vestibum vaginae sinus inogenitalis): là giới hạn giữa âm môn và
âm đạo. Trong tiền đình có màng trinh, trước là âm đạo. Màng trinh gồm các
sợi cơ đàn hồỉ ở giữa và do 2 lớp niêm mạc giáp lại thành một nếp. Tiền đình
có một số tuyến xếp chéo hướng về âm đạo.

b, Bộ phận sinh dục bên trong
*Âm đạo (Vagina)
Là một cái ống tròn, trước âm đạo có cổ tử cung, phía sau là tiền đình, có
màng trinh (Hymen). Cấu tạo của âm đạo chia thành 3 lớp:
- Lớp liên kết ở ngoài.
- Lớp cơ trơn: Có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong, các cơ này liên kết
với các cơ ở cổ tử cung.
- Lớp niêm mạc âm đạo: Có nhiều tế bào thượng bì, gấp nếp dọc hai bên
nhiều hơn ở chính giữa.
Âm đạo của bò Việt Nam dài khoảng 22-25cm (Hoàng Kim Giao và Nguyễn
Thanh Dương, 1997), (Trần Tiến Dũng và Cs, 2002), âm đạo là cơ quan giao
cấu kích thích phóng tinh ra, tinh trùng di chuyển vào tử cung nhờ các dịch
nhầy ở cổ tử cung.
Âm đạo còn là cái ống để thai đi ra ngoài khi sinh đẻ và cũng là ống thải các
chất dịch trong tử cung ra.
* Tử cung (Uterus)
Tử cung bò thuộc nhóm tử cung hai sừng (Uterus bicorius), nó có hình sừng
cừu gồm một thân tử cung ngắn, hai sừng tử cung dài và cùng một cổ tử cung.
Bò cái tơ toàn bộ tử cung nằm trong xoang chậu, khi đã đẻ nhiều lần thì tử
cung nằm trong xoang bụng, tử cung là nơi làm tổ của hợp tử, hợp tử phát
triển được là nhờ chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ thông qua lớp niêm mạc tử
cung cung cấp. Giai đoạn đầu hợp tử sống được một phần nhờ vào noãn
hoàng. Sau này giữa mẹ và thai hình thành hệ thống nhau thai. Niêm mạc tử
cung và dịch tử cung giữ vai trò quan trọng trong sinh sản và vận chuyển tinh
trùng và trứng, tham gia điều hoà chức năng của thể vàng, đảm nhận sự làm
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

14

Lớp: Thú y K2



Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

tổ, mang thai và đẻ. Tử cung của bò gồm 3 phần từ ngoài vào trong là: cổ tử
cung, thân tử cung và sừng tử cung.
- Cổ tử cung: Là phần ngoài cùng của tử cung, cổ tử cung bò hình tròn thông
với âm đạo, dài khoảng 6 - 10 cm, đường kính từ 3 - 6 cm. Cổ tử cung luôn
luôn đóng, chỉ mở khi nào hưng phấn cao độ hoặc khi sinh đẻ hoặc khi bị bệnh
lý. Niêm mạc cổ tử cung gấp nếp nhiều lần làm cho thành cổ tử cung không
đồng đều tạo thành những thuỳ gọi là thuỳ hoa nở, có từ 3 - 5 lần hoa nở. Thuỳ
ngoài cùng nhô vào âm đạo khoảng 0,5 - 1,0cm nhìn bên ngoài tựa như hoa cúc
dại. Có sự khác biệt về cổ tử cung giữa bò già và bò trẻ, giữa bò đẻ ít và bò đẻ
nhiều, giữa các giống bò, giữa bò đẻ bình thường và bò đẻ không bình thường.
- Thân tử cung: Ở bò thân tử cung rất ngắn, chỉ khoảng từ 2 - 4 cm, thân tử
cung nối giữa cổ tử cung với sừng tử cung.
- Sừng tử cung: Bò cái có 2 sừng tử cung gồm sừng trái và sừng phải, độ dài
của sừng khoảng 20 - 25cm, đường kính phần dưới sừng tử cung 3 - 4cm,
phần ngọn chỉ khoảng 0,5 - 0,8cm. Hai sừng tử cung của bò cái phần gắn với
thân tử cung dính lại với nhau tạo thành một lõm hình lòng máng, phía trên
của tử cung gọi là rãnh giữa tử cung dài 3 - 5cm, rãnh này dễ dàng nhận thấy
khi khám qua trực tràng để chẩn đoán gia súc có thai và bệnh lý ở tử cung.
*) Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của bò gồm một đôi, treo ở cạnh trước dây chằng rộng, gần mút
sừng tử cung và nằm trong xoang chậu, hình dáng buồng trứng rất đa dạng,
nhưng phần lớn có hình bầu dục hoặc ô van dẹt, không có lõm rụng, khi mới
sinh buồng trứng có khối lượng khoảng 0,3 gram, khi trưởng thành có khối
lượng 10 - 20 gram, kích thước dài 1 - 2 cm, rộng 1 - 1,5 cm (Nguyễn Tấn

Anh và Cs, 1992). Buồng trứng của gia súc có chức năng sinh ra trứng và tiết
ra các hormon. Cấu tạo của buồng trứng gồm lớp trong và lớp vỏ, được bao
bọc bởi lớp biểu mô mầm. Lớp trong có nhiều mạch máu, tổ chức liên kết.
Trên buồng trứng có từ 70.000 - 100.000 noãn bào ở các giai đoạn phát triển
khác nhau, tầng ngoài là những noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều, tầng
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

15

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

trong là những noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng, khi noãn bào chín thì nổi
lên trên bề mặt buồng trứng.
Tế bào thể vàng tiết ra progesterone, khối lượng thể vàng và hàm lượng
progesterone tăng nhanh từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 8 và giữ tương đối ổn
định cho đến ngày thứ 15, sự thoái hoá thể vàng ở bò bắt đầu từ ngày thứ 17 18 và chuyển thành thể bạch nếu trứng không thụ tinh.
*) Ống dẫn trứng
Ống dẫn trứng còn gọi là vòi fallop, nằm ở màng treo buồng trứng. Chức
năng của ống dẫn trứng là vận chuyển trứng và tinh trùng theo chiều ngược
nhau và đồng thời một lúc. Cấu tạo của ống dẫn trứng thích hợp tốt với chức
năng phức tạp đó. Một đầu của ống dẫn trứng thông với xoang bụng, gần sát
buồng trứng và có hình loa kèn, loa kèn là màng mỏng tạo thành một cái tán
rộng, vành tán có các tua điểm lô nhô không đều, ôm lấy buồng trứng. Đối
với bò diện tích của loa kèn thường rộng 20 - 40mm 2 và phủ toàn bộ buồng
trứng (Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương), 1997. Bộ phận nhỏ mà

điểm vận chuyển trứng rụng từ bề mặt buồng trứng tới phễu. Trứng được
chuyển qua lớp nhầy đi đến lòng ống dẫn trứng, tại 1/3 phía trên ống dẫn
trứng là nơi xảy ra sự thụ tinh và phân chia sớm của phôi. Phôi được lưu lại
trong ống dẫn trứng vài ngày trước khi về tử cung, dịch ống dẫn trứng cung
cấp điều kiện thích hợp cho sự thụ tinh và phân chia của phôi, bao gồm chất
dinh dưỡng và bảo vệ cho tinh trùng, noãn bào và hợp tử.
Thời gian tế bào trứng di chuyển trong ống dẫn trứng từ 3 - 10 ngày. Trên
đường di hành trong ống dẫn trứng tế bào trứng có thể bị đứng lại ở các đoạn
khác nhau do những chỗ hẹp của ống dẫn trứng. Có thể chia ống dẫn trứng
thành 4 đoạn chức năng: Đoạn tua điểm, phễu, phồng ống dẫn trứng và đoạn
co của ống dẫn trứng (Nguyễn Tấn Anh, 1992).
4.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục của bò sữa
Đặc điểm sinh lý sinh dục của gia súc cái nói chung và loài bò nói riêng
đặc trưng cho loài, có tính ổn định với từng giống vật nuôi. Nó được duy trì
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

16

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

qua các thế hệ và luôn củng cố, hoàn thiện qua quá trình chọn lọc. Ngoài ra
còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như: Ngoại cảnh, điều kiện nuôi dưỡng
chăm sóc, chế độ khai thác sử dụng,…vv. Để đánh giá đặc điểm sinh lý sinh
dục của bò cái người ta thường tập trung nghiên cứu, theo dõi các chỉ tiêu sau
đây:

a) Sự thành thục về tính
Khi đường sinh dục của gia súc cái phát triển đến mức độ hoàn thiện, buồng
trứng có noãn bào chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ thai, tử cung
cũng biến đổi theo và đủ điều kiện cho thai phát triển trong tử cung,.... Những
dấu hiệu động dục xuất hiện đối với gia súc ở tuổi như vậy gọi là thành thục
về tính. Trong thực tế, thành thục về tính thường đến sớm hơn thành thục về
thể vóc. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, gia súc, ngoại cảnh và
mức độ nuôi dưỡng. Trong điều kiện nuôi dưỡng tốt thì sự sinh trưởng được
thúc đẩy và thành thục về tính sẽ đến sớm hơn. Bò sữa thành thục tính dục khi
thể trọng đạt từ 30 - 40% thể trọng lúc trưởng thành, còn bò thịt với mức độ
cao hơn 45 - 50%. Theo Trần Tiến Dũng (2002): Bò sữa thành thục tính vào
khoảng 12 - 14 tháng tuổi, bò Zebu thành thục tính muộn hơn bò sữa có
nguồn gốc châu Âu từ 6 - 12 tháng.
Bò sữa nếu nuôi dưỡng tốt thì thành thục lúc 12 tháng tuổi, còn tầm vóc để bảo
đảm cho sự phối giống phải từ 18 tháng trở lên. Theo Khuất Văn Dũng (2005)
đối với bò lang trắng, đen Hà Lan cho ăn đầy đủ, chăm sóc tốt thì thành thục lúc
10 - 12 tháng tuổi, chăm sóc kém có thể kéo dài tới 16 - 18 tháng tuổi.
b) Chu kì động dục
Khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của bò được diễn ra liên tục
và có tính chu kì. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển lớn dần đến độ
chín, nổi cộm lên trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graf. Khi nang Graf
vỡ, trứng rụng, gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần rụng trứng con vật có những
biểu hiện tính dục bên ngoài gọi là động dục. Thời gian từ lần rụng trứng
trước đến lần rụng trứng sau gọi chu kỳ sinh dục (chu kỳ tính) bò và lợn
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

17

Lớp: Thú y K2



Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

thông thường là 21 ngày (dao động 17 - 24 ngày), của trâu là 25 ngày (Trần
Tiến Dũng và Cs, 2002), những gia súc cái có chu kỳ động dục ngắn hơn 17
ngày hoặc dài hơn 24 ngày thường có tỷ lệ thụ thai thấp. Quá trình trứng phát
triển chín và rụng đều chịu sự điều hoà chặt chẽ của hormon. Trên cơ sở đó
nhiều tác giả đã phân chia chu kỳ động dục thành 2 pha:
- Pha Folliculin: Gồm toàn bộ biểu hiện trước khi trứng rụng.
- Pha Lutein: Là những biểu hiện sau khi trứng rụng và hình thành thể vàng.
Chu kỳ động dục của bò nhiều tác giả đã đề cập đến các đợt sóng nang
(Follicular wave).
Sóng nang là sự phát triển đồng loạt của một số bao noãn ở cùng một thời
gian. Các công trình nghiên cứu, theo dõi sự phát triển của buồng trứng
Invivo bằng phương pháp nội soi và siêu âm được nhiều tác giả công bố. Ở bò
trong một chu kỳ thường có 2-3 đợt sóng nang phát triển (một số ít có 4 đợt).
Đợt một bắt đầu diễn ra sau khi rụng trứng, vào ngày thứ 3 - 9 của chu kỳ.
Đợt 2 vào ngày 11 - 17 và đợt 3 vào ngày 18 - 20. Mỗi đợt sóng nang có thể
huy động tới 15 nang kích thước từ 5 - 7mm phát triển. Sau này có một số
nang phát triển mạnh hơn gọi là nang trội (nang khống chế), kích thước của
nang khống chế ở đợt 1, 2, 3 có thể đạt tới 12 - 15mm và các kích thước nang
tương ứng quan sát thấy vào các ngày 6, 13, 21.
Đặc điểm quan trọng trong các đợt phát triển nang là sự phát triển có tính tự
điều khiển và cạnh tranh giữa các nang. Một đợt có 1 - 2 nang trội, vài nang
lớn phát triển và sự phát triển của các nang còn lại bị kìm hãm. Tuy vậy, khi
thể vàng còn tồn tại, nang khống chế và nang lớn sẽ bị thoái hoá, chỉ có đợt
cuối cùng khi thể vàng không còn thì nang khống chế mới phát triển tới chín
và rụng trứng xảy ra. Do đặc điểm này các đợt phát triển nang gọi là sóng

phát triển. Trong mỗi đợt sóng như vậy sự tồn tại của các nang không phải
nang khống chế, dao động 5 - 6 ngày (Bierschwal B. J, (USA)1980). Riêng
nang khống chế có thể phát triển nhanh sau ngày 18 của chu kỳ, tốc độ phát
triển của nang khống chế ở thời điểm này có thể đạt 1,6mm/ngày (Hoàng
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

18

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương, 1997).
Theo Trần Tiến Dũng (2002), bò chu kỳ động dục thường kéo dài 21 ngày,
thời gian động dục thường kéo dài 25 - 36 giờ, chu kỳ động dục ở gia súc
mang tính đặc trưng theo loài.
Chu kỳ động dục của bò được chia làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn trước động dục (Preoestrus)
- Giai đoạn động dục (Oestrus)
- Giai đoạn sau động dục (Postoestrus)
- Giai đoạn cân bằng sinh học (An-Di-oestrus)
* Giai đoạn trước động dục
Trong giai đoạn này, trong buồng trứng noãn bao bắt đầu phát triển, tiết
hormone oestrogen. Chính hormone này đã tác động làm tử cung biến đổi: Tế
bào biểu mô phát triển, niêm mạc được tăng sinh, mạch quản trong màng
nhầy tử cung tăng lên, nhu động sừng tử cung tăng cường, dịch nhầy cổ tử
cung được tăng tiết, kích thích cho cổ tử cung hé mở.

* Giai đoạn động dục
Đây là giai đoạn trong buồng trứng noãn bao đã chín và xuất hiện rụng
trứng. Noãn bao tiết hormone oestrogen ở mức độ cao nhất. Những biến đổi
của tử cung: sừng tử cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở hoàn toàn. Tế bào
niêm mạc tử cung tăng sinh rất mạnh làm nội mạc tử cung dày lên, các tuyến
trong niêm mạc tử cung phát triển mạnh và tiết nhiều dịch.
* Giai đoạn sau động dục
Giai đoạn này bên trong buồng trứng hình thành thể vàng, thể vàng bắt
đầu tiết progesterone. Chính hormone này chi phối làm cho các tuyến nội mạc
tiếp tục tăng sinh và tiết dịch. Tế bào niêm mạc tử cung tăng sinh.
* Giai đoạn cân bằng sinh học
Trứng không được thụ tinh, giai đoạn này thể vàng thành thục hoàn
toàn và tiết progesterone, sau đó teo dần và đến cuối giai đoạn này thì tiêu biến
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

19

Lớp: Thú y K2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Đình Tường

hẳn. Vì trứng không được thụ tinh, hợp tử không được hình thành, hoạt động
tiết dịch của các tuyến nội mạc tử cung ngừng lại, lượng máu đưa đến tử cung
giảm đi rõ rệt, các tế nội mạc tử cung teo đi. Thành tử cung trở lại trạng thái sinh
lý bình thường.
c) Quá trình thụ tinh
Sự thụ tinh là một qúa trình đồng hoá và dị hoá lẫn nhau một cách phức tạp

giữa hai tế bào trứng và tinh trùng. Kết quả của sự thụ tinh là sinh ra một tế
bào mới gọi là hợp tử, sau này là phôi và phát triển thành một cơ thể mới khác
với bố mẹ nhưng mang đặc điểm di truyền của bố, mẹ cùng với đặc điểm di
truyền của loài.
d) Quá trình mang thai
Sự phát triển của thai là hiện tượng sinh lý đặc biệt của cơ thể, nó được bắt
đầu từ khi trứng được thụ tinh cho đến khi đẻ xong. Trong thực tế sự có thai
của bò được tính ngay từ ngày phối giống cuối cùng cho đến ngày đẻ. Thời
gian mang thai phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như: Tuổi của mẹ, điều kiện
nuôi dưỡng, chế độ khai thác và sử dụng, số lượng thai, đôi khi còn phụ thuộc
vào lứa đẻ và tính biệt của thai. Thời gian mang thai của bò dao động trong
khoảng 278 - 290 ngày.
Tác giả Lê Xuân Cương (1997) khi nghiên cứu nhóm bò sinh sản tại Bà Rịa –
Vũng Tàu cho biết thời gian mang thai của bò trung bình là 280 ngày.
e) Quá trình sinh đẻ
Khi gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định tuỳ thuộc vào từng
loài gia súc (bò 9 tháng 10 ngày, lợn 3 tháng 3 tuần 3 ngày, trâu 10,5 tháng,
chó 2 tháng,...). Khi bào thai đã phát triển đầy đủ, dưới tác động của hệ thống
thần kinh và nội tiết con mẹ xuất hiện những cơn rặn để đẩy bào thai, nhau
thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài gọi là quá trình sinh đẻ. Để giải thích
quá trình sinh đẻ ta có thể dựa vào các học thuyết sau.
- Học thuyết áp lực
Khi bào thai ở trong tử cung cơ thể mẹ sinh trưởng và phát triển đến
SVTT: Đặng Hoàng Chinh

20

Lớp: Thú y K2



×