PHẦN I
THỰC TẬP THÚ Y TẠI CƠ SỞ
1.1. VÀI NÉT VỀ TRANG TRẠI
Trang trại được xây dựng năm 2006, nằm cách bờ sông Đào 500m, chảy
qua Văn Giang- Hưng Yên đến sông Bắc Hưng Hải. Danh giới phía bắc giáp
huyện Văn Lâm và quốc lộ 5, phía nam cách vùng dân cư huyện Văn Giang
1km, phía đông giáp địa giới hành chính xã Tân Quang.Trang trại được xây
dựng cách khu dân cư trên 1km. Trang trại có đường giao thông lớn chạy
qua đảm bảo việc đi lại, vận chuyển dễ dàng
Diện tích đất tự nhiên của trang trại: 36720m
2
1
Chuồng dành cho lợn đực giống: 50m
2
Chuồng lợn chờ phối: 284m
2
Chuồng lợn nái mang thai: 360m
2
Chuồng nuôi lợn con (lợn cai sữa, lợn hậu bị, lợn thương phẩm): 1800m
2
Chuồng nuôi lợn nái đẻ: 1272 m
2
Chuồng nuôi gia cầm: 810m
2
Nhà làm việc, nhà ở công nhân, nhà kho, nhà cách ly: 250m
2
Hệ thống bioga và hồ sinh học để xử lý nước thải: 982m
2
Khu nuôi lợn: Gồm 7 chuồng nuôi, trong mỗi chuồng lại có 2 dãy chăn nuôi hai
bên chuồng. Trong đó có 2 dãy nuôi lợn mang thai, 2 dãy nuôi lợn nái đẻ và chờ
đẻ, 3 dãy nuôi lợn thịt, 1 dãy nuôi lợn sau cai sữa, 6 dãy nuôi gà đẻ.
Chuồng được xây dựng bằng gạch và xi măng mái được lợp bằng tôn.
Trong chuồng có lắp đặt quạt thông gió. Đầu mỗi chuồng có một lớp lưới lọc
không khí và một lớp bạt che di động, có thể chắn gió, mưa, ruồi muỗi, côn
trùng. Khi cần thiết bạt che vừa có thể tạo độ thông thoáng thích hợp và chủ
động điều chỉnh được tiểu khí hậu trong chuồng nuôi. Bên trong các ô chuồng
được thiết kế bằng khung sắt, nền chuồng nái đẻ được lát bằng tấm nhựa hoặc
tấm bê tông có đục lỗ. Nền chuồng lợn thịt đươc láng bằng xi măng cát chắc
chắn. Các máng ăn gồm có máng ăn tự động bằng Inox, máng ăn xây bằng bê
tông và máng nhựa cho lợn tập ăn. Nước uống qua bể lọc được theo đường ống
dẫn tới từng ô chuồng, tại đây có van uống đóng mở tự động khi lợn uống nước.
Nguồn nước uống cho lợn được lấy từ giếng khoan, sau đó qua hệ thống
lọc, rồi theo hệ thống ống dẫn đến từng ô chuồng. Chất lượng nước ở đây đã
được sở Tài nguyên và môi trường kiểm tra và cấp giấy phép đạt tiêu chuẩn
chăn nuôi.
Chúng tôi nhận thấy cách thức xây dựng chuồng trại là phù hợp vì chuồng
được xây theo hương nam nên mát về mùa hè và ấm vào mùa đông. Có cây xanh
2
lấy bóng mát xung quanh chuồng. Tất cả các thiết bị phục vụ chăn nuôi như
điện, nước, máng ăn, máng uống được thiêt kế chắc chắn rễ lau chùi, bảo dưỡng.
Trang trại xây dựng xong và hoạt động năm 2006. Cơ cấu gồm 1 chủ
trang trại, 1 quản lý, 1 kế toán, 1 bác sỹ thú y, và 26 công nhân làm việc thường
xuyên.
Lợn đực giống: 4 con thuộc giống lợn Đại Bạch, 3 con thuộc giống lợn
Landrat. Lợn nái là 182 con thuộc dòng C909, lợn con trước cai sữa là 165 con,
lợn con sau cai sữa là 198 con, lợn choai là 572 con, lợn thịt là 627 con.
1.2. TÌNH HÌNH VỆ SINH PHÒNG BỆNH CỦA TRẠI
Công tác vệ sinh của trang trại bao gồm các khâu như dọn phân, rửa
chuồng, rửa máng ăn, tắm chải cho lợn, xử lý rác thải, thức ăn dư thừa, phun
thuốc sát trùng cho chuồng trại và xung quanh, sát trùng các phương tiện vận
chuyển, dụng cụ chăn nuôi, dụng cụ thú y, xử lý nguồn nước.
Chuồng lợn được dọn phân trên nền chuồng và vệ sinh cho nái đẻ sạch
sẽ, cọ mông nái đẻ khi nái nằm đè phân. Các chuồng khác mỗi ngày tắm, rửa
một lần vào mùa hè, mùa đông thì chỉ rửa chuồng hai ngày một lần. Máng ăn
ngày rửa một lần, vào đầu buổi sáng bỏ hết thức ăn dư thừa
Phân thải của lợn được hót và đóng vào bao tải, một phần được thải
xuống ao cá, phần còn lại được bán cho tư nhân, nước tiểu và nước thải theo hệ
thống rãnh tới bể Bioga để xử lý
Quy trình sát trùng đối với đường giao thông, phương tiện vật tư, dụng cụ
chăn nuôi, chuồng trại.
Khu vực ngoài chuồng nuôi đảm bảo hố sát trùng sạch sẽ, có thuốc sát
trùng đầy đủ. Các phương tiện vật tư ra vào trang trại được sát trùng. Hàng ngày
bảo hộ lao động được giặt sạch sẽ, sát trùng quần áo lao động bằng nước
Giaven thứ 7 và chủ nhật. Hàng tuần tổng vệ sinh vào thứ 7.
Trong chuồng nái: Hố vôi khay thuốc sát trùng cửa chuồng.Thảm lót ổ
úm, giẻ lau giặt sạch ngâm sát trùng. Xi lanh, kim tiêm, panh, kéo phải sát trùng
3
trước và sau sử dụng. Dụng cụ đỡ đẻ khi sử dụng luôn ngâm trong khay đựng
dung dịch sát trùng.Dụng cụ phối, pha chế tinh sau khi sử dụng rửa sạch hấp tiệt
trùng. Phun sát trùng toàn bộ trong ngoài chuồng thứ 4, 7.Thông rãnh cọ bể làm
mát vào chủ nhật. Tấm đan bê tông, sàn nhựa ngâm trong bể sát trùng với sút
2%, rửa sạch phơi khô, phun sát trung trước khi mang vào lắp đặt khi cai sữa.
Chuồng cai sữa và thịt: Hố vôi khay thuốc sát trùng các cửa chuồng hàng
ngày. Quét vôi tường chuồng khi ô chống, quét vôi bột hành lang lối đi thứ 5,
chủ nhật. Các ô chuồng sau khi suất heo phải làm sạch hết bụi bẩn và chất thải.
tưới sút (0.03kg/1 lít nước) để tối thiểu 20 phút. Xịt bằng may áp lực,quét vôi bề
mặt xi măng, làm sau khi xuất heo. Chuẩn bị nhập heo rửa lại chuồng thật sạch
và phun sát trùng. Các dụng cụ thú y trước và sau khi sử dụng phải ngâm nước
sôi hoặc thuốc sát trùng. Sàn gỗ ngâm trong bể sát trùng bằng sút,cuối ngày rửa
sạch phơi khô, phun lại sát trùng rồi mới đem sử dụng. Bạt úm, bóng điện máng
ăn phụ cọ rửa sát trùng ngay sau khi dùng xong và trước khi sử dụng tiếp
1.3 . CÔNG TÁC PHÒNG BỆNH BẰNG VACXIN VÀ THUỐC TRÊN
ĐÀN LỢN
Để hạn chế tình hình dịch bệnh trang trại đã thực hiện các công tác vệ
sinh phòng bệnh và tiến hành tiêm thuốc, vacxin một cách nghiêm ngặt theo quy
trình sau.
4
Bảng 1.1: Quy trình tiêm phòng thuốc, vacxin
Ngày
tiêm
Thuốc phòng Phòng bệnh
1 Neotesol Phòng nhiễm khuẩn
3 Tiêm sắt lần I Phòng bệnh thiếu máu
5 Pham cox Phòng cầu trùng
7 Tiêm sắt lần II Phòng bệnh thiếu máu
10 Pham cox Phòng cầu trùng
15 M+Pax Phòng suyễn
21 Vacxin phó thương hàn lần I Phòng phó thương hàn
Vacxin dịch tả lợn Phòng dịch tả lợn
25 Pham cox Phòng cầu trùng
30 Vacxin phó thương hàn lần II Phòng phó thương hàn
40 Kháng thể Ecoli Phòng các bệnh do Ecoli gây ra
42 Vacxin tụ huyết trùng Phòng bệnh tụ huyết trùng
56 Tiamulin Phòng bệnh viêm phổi
(Phòng kỹ thuật trang trại)
Lợn con được tiêm sắt lân 1 và 2 vào ngày tuổi thứ 3 và thứ 7. Vacxin
dịch tả tiêm cho lợn con ngày tuổi thứ 21. Vacxin phó thương hàn tiêm 2 mũi
vào 21 và 30 ngày tuôi cho lơn con. Phòng cầu trùng cho lợn con lúc 5,10,25
ngày tuổi.
Với lơn thịt phòng viêm phổi vào ngay tuổi thứ 56, tiêm vacxin tụ huyết
trùng vào ngày tuổi thư 42
5
PHẦN II
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái nuôi tại trang trại
THANH XUÂN_VĂN GIANG _ HƯNG YÊN
2.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay cùng với sự phát triển của đất nước. Chất lượng và nhu cầu
cuộc sống tăng lên không ngừng, trong đó có nhu cầu về thịt lợn. Để đáp ứng
nhu cầu đó, ngành chăn nuôi lợn đang phát triển mạnh, sản phẩm của ngành
không những phục vụ cho nhu cầu trong nước mà còn mở rộng xuất khẩu.
Hiện nay ngành chăn nuôi đã phát triển mạnh về quy mô và hình thức
nuôi. Thay thế dần hình thức nuôi chuyền thống sử dụng giống lơn nội và tận
dụng phụ phẩm nông nghiệp, bằng việc phát triển đàn lợn hướng nạc ngoại
nhập, chăn nuôi theo quy mô công nghiệp. Tuy nhiên các giống lợn ngoại
đang được nuôi ở nước ta: Landrace, Yorkshire, Duroc, Petrine chủ yếu được
nhập từ Châu Âu nên khi về Việt Nam với điều kiện thời tiết khác biệt chúng
đòi hỏi một chế độ chăm sóc, quản lý cao so với các giống lợn nội, đặc biệt là
đàn lợn nái. Do đó, mặc dù có nhiều ưu điểm hơn so với các giống lợn nội,
lợn nái ngoại chủ yếu vẫn được nuôi ở trong các trang trại mà chưa được phổ
biến, nhân rộng. Mặt khác, trong chăn nuôi lợn còn gặp nhiều khó khăn về dịch
bệnh, nhất là các bệnh sản khoa. Trong đó bệnh viêm đường sinh dục chiếm tỷ
lệ cao trong đó có bệnh viêm tử cung. Bệnh xảy ra ở lợn nái vào thời gian sau
khi đẻ từ 1 - 10 ngày. Bệnh không những ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh
sản của lợn nái. Nó có thể làm lợn nái chậm động dục, sau khi cai sữa thậm chí
mất khả năng sinh sản ở những lần sau, do đó làm giảm số lượng lợn nái sinh
sản và số lượng lợn con sinh ra. Nó còn là một trong những nguyên nhân khiến
đàn lợn con bị tiêu chảy trong thời gian theo mẹ tăng cao, gây thiệt hại lớn về
kinh tế cho người chăn nuôi.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu chuyên đề:
Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái nuôi tại trang trại
THANH XUÂN_ VĂN GIANG _ HƯNG YÊN
6
2.2. CẤU TẠO GIẢI PHẪU CƠ QUAN SINH SẢN CỦA LỢN
2.2.1. Cấu tạo tử cung
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và niệu đạo
trong xoang chậu, 2 sừng tử cung ở phần trước xoang chậu. Tử cung được giữ tại
chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng.
Tử cung lợn rất dài, trong đó thân tử cung ngắn, hai sừng tử cung dài như ruột
non, có con dài tới 1m. Cổ tử cung lợn dài, tròn, không có gấp nếp nên dễ cho thụ
tinh nhân tạo hơn trâu bò
Kích thước tử cung lợn:
Sừng tử cung: 0.5-1m
Thân tử cung: 3-5cm
Cổ tử cung: 10-18cm
Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: lớp tương mạc, lớp cơ trơn, lớp
nội mạc.
Lớp tương mạc: Là lớp màng sợi, dai, chắc phủ mặt ngoài tử cung và nối
tiếp vào hệ thống các dây chằng.
Lớp cơ trơn: Giữ vai trò quan trọng trong viêc đẩy thai ra ngoài. Lớp cơ
này có cấu tạo khá phức tạp, là lớp cơ trơn khỏe nhất trong cơ thể. Bên trong lớp
cơ trơn là các sợi liên kết đàn hồi, có nhiều tĩnh mạch lớn. Các lớp cơ đó đán
vào nhau làm tử cung chắc và có sự đàn hồi lớn. Bên ngoài lớp cơ trơn là lớp
liên kết sợi mỏng
Theo (Trần Thị Dân, 2004), trương lực co càng cao (tử cung trở nên cứng)
khi có nhiều Estrogen trong máu và trương lực co giảm (tử cung mềm) khi có
nhiều Progesterone trong máu. Vai trò của cơ tử cung là góp phần cho sự di
chuyển của tinh trùng và chất nhày trong tử cung, đồng thời đẩy thai ra ngoài khi
sinh đẻ. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của
Progesterone, nhờ vậy phôi thai có thể bám chắc vào tử cung.
Lớp nội mạc tử cung: Là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một lớp tế
7
bào biểu mô hình trụ, xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhày tử cung. Nhiều tế
bào biểu mô kéo dài thành lông rung, khi lông rung động thì gạt những chất
nhày tiết ra về phía cổ tử cung. Trên niêm mạc có các nếp gấp.
Lớp nội mạc tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp
phôi thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng trong thời gian di chuyển
đến ống dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng của Estrogen, các tuyến tử cung phát triển
từ lớp màng nhày, xâm nhập vào lớp dưới màng nhày và cuộn lại. Tuy nhiên,
các tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng của
Progesterone. Sự phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tuỳ theo giai đoạn của chu
kỳ động dục.
2.2.2 Âm đạo (Vagina)
Trước âm đạo là cổ tử cung phía sau là tiền đình có màng trinh che
lỗ âm đạo. Âm đạo là một cái ống tròn để chứa cơ quan sinh dục khi giao phối,
đồng thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ.
Cấu tạo âm đạo chia thành 3 lớp:
Lớp liên kết ngoài
Lớp cơ trơn: có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. các lớp cơ âm đạo liên kết
với các lớp cơ cổ tử cung
Lớp niêm mạc: niêm mạc âm đạo có nhiều tế bào thượng bì, niêm mạc
gấp nếp dọc hai bên nhiều hơn ở giữa.
Kích thước âm đạo lợn: 10-12cm
2.2.3. Tiền đình (Vestibulum vaginae sinusinogenitalis)
Là giới hạn giứa âm môn và âm đạo, nghĩa là qua tiền đình mới vào
âm đạo.Trong tiền đình có màng trinh, phía trước mang trinh là âm môn, phía
sau màng trinh là âm đạo, màng trinh có các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do hai lá
niêm mạc gấp thành một nếp. Sau màng trinh có lỗ niệu đạo.
Tiền đình có một số tuyến, tuyến này xếp theo hàng chéo, hướng quay về
âm vật
8
2.2.4. Âm vật (Clitoris)
Âm vật có cấu tạo như dương vật nhưng thu nhỏ lại và là tạng cương của đường
sinh dục cái, được dính vào phần trên khớp bán động ngồi, bị bao xung quanh bởi cơ
ngồi hổng.
Âm vật được phủ bởi lớp niêm mạc có chứa các đầu mút thần kinh cảm giác, lớp
thể hổng và tổ chức liên kết bao bọc gọi là mạc âm vật.
2.2.5. Âm hộ (Vulva)
Âm hộ hay còn gọi là âm môn, nằm dưới hậu môn và ngăn cách với nó bởi
vùng hội âm. Bên ngoài âm môn có hai môi có hai môi. Môi âm hộ có sắc tố đen,
tuyến mồ hôi, tuyến bã tiết ra chất nhờn trong và hơi dính.
2.3. MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ BỆNH VIÊM TỬ CUNG
2.3.1. Khái niệm bệnh viêm tử cung
Bệnh viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái
sinh sản, bệnh thường xảy ra trong thời gian sau đẻ. Đặc điểm của bệnh là quá
trình viêm là phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng của tử cung
gây ra hiện tượng rối loạn sinh sản ở gia súc cái, gây ảnh hưởng lớn thậm trí làm
mất khả năng sinh sản của gia súc cái.
2.3.2. Nguyên nhân của bệnh viêm tử cung.
Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng
phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây sát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh
không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây
viêm.
Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc
mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo
truyền sang cho lợn khoẻ.
Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử
cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử
9
cung.
Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sẩy thai truyền nhiễm, phó
thương hàn, bệnh lao gây viêm.
Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ
không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm
nhập vào gây viêm.
Bệnh viêm tử cung và các bệnh ở đường tiết niệu có mối quan hệ với
nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát triển trong âm đạo và việc gây nhiễm
ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ
quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa phối
nhưng đã bị viêm tử cung.
2.3.3. Phân loại các thể viêm
Tuỳ thuộc vào vị trí tác động của quá trình viêm người ta chia làm 3 thể
viêm khác nhau:
2.3.3.1 Viêm nội mạc tử cung (Endomestritis)
Là quá trình viêm sảy ra ở lớp niêm mạc tử cung (mới phân huỷ các tế bào
tổ chức). Đây là thể viêm nhẹ nhất khởi đầu của quá trình viêm ở tử cung. viêm
nội mạc tử cung có thể chia ra làm 2 loại:
a.Viêm nội mạc tử cung cata cấp tính có mủ
Bệnh này xuất hiện trên tất cả các loài gia súc, gặp nhiều ở bò, trâu và lợn. Sau
sinh đẻ, niêm mạc cổ tử cung và âm đạo bị tổn thương, xây sát, nhiễm khuẩn, nhất là
khi gia súc bị sát nhau, đẻ khó phải can thiệp.
Khi bị bệnh, gia súc có biểu hiện một số triệu chứng chủ yếu: Thân nhiệt
hơi cao, ăn uống giảm, lượng sữa giảm. Con vật có trạng thái đau đớn nhẹ, đôi
khi cong lưng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ cơ quan sinh dục thải ra ngoài hỗn
dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức chết, có
trường hợp có cả máu chảy ra theo dịch viêm.
10
b. Viêm nội mạc tử cung màng giả
Thể viêm này, niêm mạc tử cung thường bị hoại tử. Những vết thương đã ăn
sâu vào tầng cơ của tử cung và chuyển thành hoại tử. Trường hợp này, con vật xuất
hiện triệu chứng toàn thân rõ: Thân nhiệt lên cao, ăn uống và lượng sữa giảm, có khi
hoàn toàn mất sữa. Con vật biểu hiện trạng thái đau đớn, luôn rặn, lưng và đuôi cong
lên. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn dịch: Dịch viêm, máu, mủ, lợn cợn
những mảnh tổ chức hoại tử, niêm dịch.
2.3.3.2 Viêm cơ tử cung (Myomestritis puerperalis)
Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả.
Niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm suất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu
vào tử cung làm niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương mạch quản và
mạch lâm ba. Từ đó làm cho các lớp cơ và một ít lớp tương mạc tử cung bị hoại
tử. Trường hợp này có thể dẫn đến hiện tượng nhiễm trùng toàn thân, huyết
nhiễm trùng hoặc huyết nhiễm mủ. Có khi vì lớp cơ và lớp tương mạc tử cung bị
phân giải, bị hoại tử mà tử cung bị thủng hay hoại tử từng đám.
Ở thể viêm này, gia súc biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: Thân nhiệt lên
cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hay mất hẳn. Con vật tỏ ra đau
đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu lợn
cợn và những mảnh tổ chức thối rữa nên có mùi tanh, thối. Kiểm tra qua âm đạo
bằng mỏ vịt thấy cổ tử cung mở, hỗn dịch càng chảy ra ngoài nhiều hơn, phản xạ
đau của vật càng rõ hơn. Khám qua trực tràng thì tử cung to hơn bình thường, hai
sừng tử cung to nhỏ không đều nhau, thành tử cung dày và cứng. Thể viêm này
thường ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ lần sau.
2.3.3.3. Viêm tương mạc tử cung (Perimestritis puerperalis)
Viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ thể viêm cơ tử cung. Bệnh
này thường ở thể cấp tính, cục bộ, toàn thân xuất hiện những triệu chứng điển
hình và nặng. Lúc đầu, lớp tương mạc tử cung có màu hồng, sau chuyển thành
màu đỏ sẫm, mất tính trơn bóng. Sau đó các tế bào bị phân huỷ và bong ra, dịch
11
thẩm xuất rỉ ra làm cho lớp tương mạc bị xù xì. Trường hợp viêm nặng, nhất là thể
viêm có mủ, lớp tương mạc ở một số vùng có thể dính với các tổ chức xung quanh
và dẫn đến viêm phúc mạc. Thân nhiệt con vật tăng cao, mạch nhanh, ủ rũ, đại tiểu
tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn. Lợn mẹ luôn có biểu hiện đau đớn, khó
chịu, lưng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm hộ thải ra ngoài nhiều hỗn dịch lẫn mủ
và tổ chức hoại tử, có mùi thối khắm. Kiểm tra qua trực tràng thấy thành tử cung
dày, cứng hai sừng tử cung mất cân đối, khi kích thích con vật có biểu hiện đau
càng rõ và càng rặn mạnh hơn. Trường hợp một số vùng của tương mạc dính với
bộ phận xung quanh thì có thể phát hiện được trạng thái thanh đổi về vị trí hính
dáng của tử cung. Trường hợp viêm này thường dẫn đến kế phát viêm phúc mạc,
bại huyết, huyết nhiễm mủ
2.3.4. Phân biệt các thể viêm
Để phân biệt các thể viêm tử cung người ta dựa và những triệu chứng điển
hình ở cục bộ cơ quan sinh dục, cũng như triệu chứng toàn thân con vật. Việc
chuẩn đoán phân biệt các thể viêm tử cung có ý nghĩa quan trọng trong việc áp
dụng phác đồ điều trị với từng thể viêm, nhằm đạt kết quả cao, thời gian điều trị
ngắn, chi phí thấp, đặc biệt đảm bảo khả năng sinh sản cho gia súc cái. Trong thực
tế thường gặp và điều trị bệnh viêm tử cung ở thể viêm nội mạc.
2.3.5. Hậu quả viêm tử cung trong chăn nuôi lợn công nghiệp
Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh
dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh
hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của
lợn con.
12
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt
của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám
chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết
nhiều prostaglandin F
2α
(PGF
2α
), PGF
2α
gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng
cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái
hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị
phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng progesterone trong máu sẽ
giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị
sẩy thai.
Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu
Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai
đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt
của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích
thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng
sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi
cọc.
Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại
2.4. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Nội dung
Học công tác vệ sinh thú y.
Tìm hiểu bệnh viêm tử cung.
Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung.
2.4.2.Nguyên liệu nghiên cứu
Các dụng cụ thú y: Bơm, kim tiêm, pank, kéo, nhiệt kế, ống nghe, sổ ghi
chép.
Thuốc thú y và các chế phẩm sinh học:
13
Dufamox. Dufamox G thành phần gồm( Amoxycillin 150mg và
gentamycin 40mg).
Diclophenac2,5% thành phần Diclophenac 25mg. Có tác dụng hạ nhiệt cơ
thể thông qua quá trình giải nhiệt, ngoài ra thuốc còn có tác dụng chống viêm,
giảm đau, chống co giật và chống thấp cơ, thấp khớp. liều 1ml/10kg
Oxytocin thành phần trong 1ml có 10 IU Oxytocin . Tác dụng thúc đẻ,
chữa liệt dạ con, sốt nhau, tống dịch ứ trong dạ con ra ngoài, kích thích tiết sữa,
chữa viêm vú, viêm tử cung.
Hanprost là một chế phẩm của PGF
2α
, nó tạo ra các cơn co bóp nhẹ nhàng
giống cơn co bóp sinh lý nhằm đẩy các chất bẩn ra ngoài. Đồng thời nó còn có
tác dụng kích thích cơ tử cung nhanh chóng hồi phục và phá huỷ thể vàng.
Dung dịch Han-Iodine10%, thành phần chính của dung dịch là Iode hữu cơ,
do Công ty cổ phần thuốc thú y Hanvet sản xuất.
2.4.3. Phương pháp thu thập số liệu
Hồi cứu: Điều tra, thu thập số liệu, bệnh ở đàn lợn nái bằng phương pháp
điều tra qua sổ theo dõi của trang trại. Số liệu điều tra qua các năm và chúng tôi
sử lý theo phương pháp thống kê. Lập phiếu theo dõi, ghi chép đầy đủ các thông
tin về con bệnh cũng như quá trình điều trị.
Quan sát: Xác định tỷ lệ lợn nái mắc viêm tử cung, bằng phương pháp điều
tra, theo dõi, gi chép. Kết hợp với quan sát trực tiếp các biểu hiện lâm sàng của lợn
nái mắc bệnh trong thời gian thực tập (2 tháng)
Phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp công nhân và cán bộ kỹ thuật làm việc tại
trại.
Tỉ lệ lợn nái mắc viêm tử cung được xác định theo công thức.
Số con mắc
Tỷ lệ mắc (%) = x 100
Tổng số con theo dõi
14
Số con điều trị khỏi
Tỷ lệ khỏi (%) = x 100
Số con điều trị
15
Số con tái phát
Tỷ lệ tái phát (%) = x 100
Số con điều trị khỏi
2.4.4. Phương pháp xác định lợn nái bị viêm tử cung bằng các chỉ tiêu lâm
sàng
Để xác định một số chỉ tiêu lâm sàng chính gồm thân nhiệt, màu sắc dịch rỉ
viêm và phản ứng đau chúng tôi đã sử dụng những phương pháp thường quy như.
Thân nhiệt: dùng nhiệt kế thuỷ ngân để đo thân nhiệt 2 lần/ ngày
Sáng: 7 – 9h
Chiều: 16 – 18h
Màu sắc dịch viêm: theo dõi, quan sát bằng mắt thường và ghi chép.
Bỏ ăn: kiểm tra lượng thu nhận thức ăn và ghi chép.
Bảng 2.1. Phương pháp chẩn đoán phân biệt các thể viêm tử cung dựa trên triệu
chứng lâm sàng
Các tiêu chí để phân biệt Viêm nội mạc Viêm cơ
Viêm tương
mạc
Sốt Sốt nhẹ Sốt cao Sốt rất cao
Dịch viêm
- Màu
- Mùi
Trắng xám, trắng sữa
Tanh
Hồng,nâu đỏ
Tanh thối
Nâu rỉ sắt
Thối khắm
Phản ứng đau Đau nhẹ Đau rõ Đau rất rõ
Phản ứng co của cơ tử cung co giảm co rất yếu co mất hẳn
Tình trạng ăn
Giảm ăn hoặc không
ăn
Không ăn Không ăn
Trích( luận văn thạc sỹ Phạm Thị Mơ năm 2011)
Đánh giá viêm tử cung bằng cách cho điểm:
Đối với lợn nái sau khi đẻ có thể dựa trên cách tính điểm sau:
Số ngày chảy mủ, tính từ ngày đầu tới ngày thứ 5 sau khi sinh, 1 ngày = 1
16
điểm.
Bỏ ăn từ ngày đầu tới ngày thứ 5 sau khi sinh, 1 ngày = 1 điểm, nếu bỏ ăn
một phần tính 1/2 điểm.
Ngưỡng thân nhiệt để tính sốt và số ngày bị sốt là 39,8
0
C; 1 ngày = 1 điểm.
b. Tổng số điểm được dùng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh như sau:
Tổng số điểm dưới 1 điểm: Không có vấn đề.
Tổng số điểm từ 2 đến 5 điểm: Mắc bệnh nhẹ đến trung bình.
Tổng số điểm trên 6: Bệnh nghiêm trọng.
Tóm lại: Chẩn đoán viêm tử cung cần rất cẩn thận, phải theo dõi thường
xuyên vì mủ chảy ra ở âm hộ chỉ mang tính chất thời điểm và có khi viêm tử
cung nhưng không sinh mủ.
2.4.5. Phương pháp thí nghiệm trong thí nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung
* Chọn mẫu: Chọn những lợn nái bị Viêm tử cung với những triệu chứng đặc
trưng: Sốt, tần số hô hấp tăng, có phản xạ đau, ăn ít hoặc bỏ ăn, chảy mủ mùi
tanh thối, lượng sữa giảm, không cho con bú.
* Bố trí thí nghiệm:
Lô thí nghiệm Can thiệp Không can thiệp
Lô 1 ĐC ĐC
Lô 2 TN TN
ĐC: Không dùng kháng sinh sau khi sinh
TN: Dùng kháng sinh sau khi sinh
Mẫu được chia làm 2 lô thí nghiệm, mỗi lô 8 con.
Lô 1 thí nghiệm gồm 8 con. 4 con can thiệp khi sinh và dùng thuốc
Dufamox G. 4 con đối chứng không can thiệp để đẻ tự nhiên. Ghi số liệu và so
sánh kết quả điều trị.
Lô 2 thí nghiệm gồm 8 con. 4 con can thiệp khi sinh và dùng thuốc
Dufamox G 4 con không can thiệp và dùng Dufamox G. Ghi số liệu và so sánh
kết quả điều trị.
17
* Bố trí thí nghiêm điều trị viêm tử cung bằng thuốc DUFAMOX G
Điều trị 44 lợn bị viêm tử cung .
Phác đồ sử dụng kháng sinh Dufamox G:
Dùng Dufamox G thành phần gồm( Amoxycillin 150mg và gentamycin
40mg): 1ml/10 kg thể trọng, tiêm bắp, liệu trình 3 – 6 ngày.
Oxytocine 3ml/lần/ ngày liệu trình 3 - 5 ngày.
Dùng Hanprost: 1,5 - 2 ml/con, chỉ dùng 1 lần trong suốt quá trình điều
trị.
Dung dịch Han-Iodine thụt rửa với liều 10ml/2 lít nước, liệu trình 3 - 5
ngày.
Phác đồ dùng thêm thuốc bổ, thuốc trợ sức trợ lực, thuốc hạ sốt
diclophenac 2,5%
2.4.6. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu đều được theo dõi, ghi chép và xử lý bằng chương trình Excel
2.5. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Trong thời gian thực tập, cùng với việc tham gia vào công tác chăn nuôi,
tham gia vào hoạt động tiêm vacxin phòng bệnh, chúng tôi còn tiến hành theo
dõi tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái sinh sản của trại. Các chỉ tiêu
chúng tôi theo dõi bao gồm số con mắc (con), tỷ lệ mắc (%). Qua quá trình theo
dõi một số bệnh xảy ra bao gồm viêm tử cung, viêm khớp, hiện tượng đẻ khó,
bại liệt sau đẻ
18
2.5.1. Biện pháp phòng viêm tử cung trong trại THANH XUÂN
Viêm tử cung là bệnh xảy ra phổ biến nhất là với lợn nái sau khi sinh. Nó
không những ảnh hưởng tới đàn lợn con mà con ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng
con nái sau này, vì vậy đề ra biện pháp đề phòng bệnh là một yêu cầu cấp thiết.
Biện pháp phòng của trại.
Lợn nái mang thai tới ngày 111- 112 tiêm bắp Han – prost, liều 2ml/ con
kích thích mở cổ tử cung.
Có kế hoạch chuẩn bị chu đáo cho việc đỡ lợn đẻ, trong đó quan trọng
nhất là vệ sinh cho lợn trước khi đẻ, rọn rửa chuồng đẻ. Người đỡ đẻ đảm bảo vệ
sinh, sát trùng tay sạch sẽ.
Trước khi lợn đẻ 8 giờ hoặc bắt đầu lợn vỡ ối tiêm bắp Dufamox G. liều
1ml/10kgP phòng viêm. Sau khi lợn đã đẻ được 2 giờ thì tiến hành tiêm bắp
Oxytocin, liều 4ml/con kích thích tử cung co bóp mạnh hơn và tiêm liên tục
trong 3 ngày.
Với những trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay thì người can thiệp
phải là người có kinh nghiệm, tay được sát trùng cẩn thận, đeo găng tay dài
mềm, khi tiến hành can thiệp phải kiên nhẫn nhẹ nhàng.
Sau khi nhau thai đã ra hết có thể tiến hành thụt rửa tử cung bằng
Han-Iodine pha với nước theo tỷ lệ 10ml/2lít nước sạch thụt cho con mẹ.
Khi phối giống cho lợn bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo phải đảm bảo
vệ sinh sạch sẽ trước khi phối, dụng cụ dẫn tinh phải được đảm bảo vô
trùng, khi dẫn tinh phải nhẹ nhàng đảm bảo đúng kỹ thuật.
Để hạn chế tối thiểu hậu quả do bệnh viêm tử cung gây ra thì việc phòng
bệnh là rất quan trọng, nó giúp người chăn nuôi hạn chế được tỷ lệ lợn nái mắc
bệnh và nếu lợn mắc thì cũng mắc ở thể nhẹ hơn, dễ điều trị hơn.
19
Bảng 2.2. Quy trình phòng bệnh viêm tử cung
Phối gống Đảm bảo phối giống đúng kỹ thuật, vô trùng.
Vệ sinh
Vệ sinh chuồng đẻ, lợn nái, đặc biệt là bộ phận sinh
dục trước và sau đẻ sạch sẽ.
Đảm bảo dinh dưỡng cho lợn nái trước và sau khi sinh.
Đảm bảo thực hiện khâu đỡ đẻ đúng kỹ thuật.
Cho lợn uống nước sạch.
Thụt rửa
Sau khi sinh 24h thụt vào tử cung bằng dung dịch nước
pha Han-Iodine , thụt 3 lần, mỗi lần cách nhau 24h.
Dùng thuốc
Tiêm Dufamox G cho nái với liều 1ml/10kg thể trọng
Ngay sau khi sinh tiêm bắp 2ml Hanprost (25mg)
2.5.2. Mức độ viêm tử cung qua triệu chứng lâm sang ở lợn nái tại trại
THANH XUÂN
Chúng tôi theo dõi triệu chứng lâm sàng bệnh viêm tử cung 4 lợn nái sau
đẻ. 3 căn cứ để chẩn đoán bệnh là nhiệt độ trưc tràng, dịch viêm và bỏ ăn.
Kết quả theo dõi thể hiện trong bảng: 2.3
Dựa theo cách tính điểm ở trên thì chỉ co con thứ 1 ( tổng điểm=7) là nghiêm
trọng. 3 con còn lại viêm ở thể nhẹ và trung bình. Con thứ 1 có dịch viêm mùi tanh
khắm, dịch có màu đỏ như máu cá do bị sót nhau,sót con. Nhau thai sót lại thối
giữa gây viêm tử cung. Những con nay thường là nái già lứa đẻ >7, sức rặn đẻ yếu.
Qua đó ta thấy, không nên sử dụng và khai thác những con nái quá già và nên
chuẩn bị hộ lý đỡ đẻ tốt cho những con nái kiểm định đẻ lứa đầu.
20
Bảng 2.3. Một số triệu chứng lâm sàng của bệnh viêm tử cung.
Ngày
Triệu chứng
1 2 3 4 5
Con
1
Nhiệt độ
o
c 40.2 42 41.5 39.8 39.2
Chảy mủ X x x x
Trạng
thái ăn
Giảm ăn X x
Không ăn
x x
Con
2
Nhiệt độ
o
c 39.2 39.6 39.5 39.5 38.6
Chảy mủ X x x
Trạng
thái ăn
Giảm ăn
x x
Không ăn
Con
3
Nhiệt độ
o
c
39.3 39.8 41 39.5 38.7
Chảy mủ X x x
Trạng
thái ăn
Giảm ăn x x
Không ăn
x
Con
4
Nhiệt độ
o
c 40 40.2 41 39.5 39.2
Chảy mủ X x x
Trạng
thái ăn
Giảm ăn
X x
Không ăn
21
2.5.3. Tình hình bệnh trên đàn lợn nái trong thời gian 2 tháng 2012 tại trai
THANH XUÂN
Bảng 2.4. Tình hình bệnh trên đàn lơn nái nuôi tại trại THANH XUÂN
Tên bệnh
Số con theo dõi
(con)
Số con mắc
(con)
Tỷ lệ mắc
(%)
Viêm tử cung
44 19
43,2
Bại liệt sau đẻ
44
3
6,8
Hiện tượng đẻ khó
44 5 11,4
Viêm khớp- tổn
thương cơ giới
44 6 13,6
Viêm phổi
44 7 15,9
Qua theo dõi chúng tôi thấy bệnh viêm tử cung là bệnh chiếm tỷ lệ cao
nhất trong các bệnh xảy ra, trong số 44 lợn nái được tiến hành theo dõi thì có tới
19 lợn nái bị bệnh viêm tử cung chiếm tỷ lệ 43,2%.
Hiện tượng đẻ khó cũng chiếm tỷ lệ khá cao 11,4%. Nguyên nhân đẻ khó
ở đây chủ yếu là do bào thai. Phần lớn là do tư thế thai không thuận lợi, thai
quá to, một số khác là do thai chết đã lâu nên kích thích con mẹ co bóp tử
cung yếu và chỉ có 2 trường hợp đẻ khó là do con mẹ quá già chế độ vận động
ít.
Bệnh bại liệt sau đẻ với nái đẻ mắc, chiếm tỷ lệ 6,8%. Nguyên nhân là do
con mẹ đã quá già yếu nhưng do có thành tích sinh sản tốt nên được giữ lại. Kết
quả con mẹ hấp thu Ca, P kém khi mang thai nên phải huy động Ca, P từ xương
vào bào thai. Khi đẻ con ra lại phải huy động Ca, P vào sữa làm cho con mẹ bị
mềm xương, loãng xương dẫn tới bại liệt
22
Bệnh đường hô hấp tỷ lệ mắc không nhiều chiếm tỉ lệ 15,9% trường hợp
nái mắc bệnh, do thời tiết lạnh con vật có hiện tượng sốt, ho, khó thở, bỏ ăn.
Trong quá trình điều trị chúng tôi thấy không có hiện tượng nhiễm bệnh nào
khác và không có hiện tượng nái bị sẩy thai trong giai đoạn này.
Viêm khớp - tổn thương cơ giới đây cũng là nhóm bệnh có tỷ lệ mắc khá
cao, có con bị chiếm tỷ lệ 13,6%. Nguyên nhân chính là do nền chuồng trơn,
trong khi xếp lại lợn con vật đi lại bị trượt ngã, khớp đập mạnh vào vật cứng dẫn
đến tổn thương cơ, khớp. Ssau đó vi khuẩn xâm nhập gây nên các thể viêm khớp
khác nhau.
Theo chúng tôi do ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh.Thời tiết mùa
xuân ẩm ướt, vượt xa so với khung độ ẩm thích hợp cho lợn nái (70-80%), nhiệt
độ thì thay đổi thất thường làm nái mệt mỏi, khả năng thu nhận thức ăn giảm,
sức khoẻ, sức đề kháng giảm sút nên tỷ lệ lợn mắc bệnh tăng cao. Mặt khác,
nhiệt độ thay đổi do chuyển mùa từ xuân sang hè, độ ẩm cao thúc đẩy nhanh sự
phân huỷ sản phẩm phụ của quá trình sinh đẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho vi
khuẩn gây bệnh có sẵn trong tử cung phát triển tăng nhanh về số lượng và độc
lực gây viêm tử cung, cho lợn nái.
2.5.4.Tình hình mắc viêm tử cung trên đàn lợn nái nuôi tại trại THANH
XUÂN
2.5.4.1. Tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái theo lứa đẻ
Bảng 2.5. Tình hình mắc bệnh viêm tử cung theo lứa đẻ ( n=44)
Lứa đẻ
Mắc bệnh
Số con mắc
( con )
Tỷ lệ mắc
( % )
Lứa 1 – 2 15 34,1
Lứa 3 – 5 10 22,7
Lứa 6 – 9 19 43,2
Chúng tôi theo dõi 44 lợn nái mắc viêm tử cung và thấy rằng. Tỉ lệ viêm
lứa 1-2, 6-9 cao hơn lứa 3-5 là do:
23
Cơ cấu đàn nái của các trang trại: Đối với các trang trại lợn nái mới vào lứa
đẻ 1 - 2, những nái đẻ lứa đầu xương chậu hẹp nên có hiện tượng đẻ khó, phải can
thiệp bằng tay, các dụng cụ trợ sản gây xây xước niêm mạc tử cung và gây viêm.
Đối với các trang trại lợn nái bước vào lứa đẻ thứ 6 - 8, sức khoẻ và sức đề
kháng đàn nái đã giảm sút, sức rặn đẻ yếu, sự co bóp của cơ tử cung giảm nên rất
dễ bị sót nhau. Sót nhau còn là nguyên nhân kế phát gây viêm tử cung và viêm vú.
Mặt khác khi nái bước vào lứa đẻ thứ 6 - 8, sản lượng sữa tiết ra cũng giảm
hơn so với các lứa trước, nên khi bị viêm tử cung nái bỏ ăn càng làm cho lượng sữa
giảm đi có khi mất hẳn.
Do công tác vệ sinh chuồng sàn, vệ sinh nái đẻ và kỹ thuật đỡ đẻ: Trong
quá trình theo dõi, chúng tôi thấy vệ sinh chuồng sàn và vệ sinh cho nái đã được
công nhân trong trại thực hiện nhưng không triệt để có thể do họ chưa hiểu hết ý
nghĩa của công tác này; trong quá trình đẻ, cổ tử cung lợn nái luôn mở đòi hỏi
đảm bảo vệ sinh nhằm ngăn chặn vi sinh vật có hại xâm nhập gây bệnh; tuy
nhiên khi đỡ đẻ, công nhân để nái đẻ xong mới lau rửa phần sau và hai hàng vú
kết hợp với việc vệ sinh, sát trùng không được thực hiện tốt nên các vi khuẩn cơ
hội không bị tiêu diệt, chúng có cơ hội xâm nhập vào tử cung và gây viêm.
2.5.4.2. Tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái theo mùa
24
Ngoài các yếu tố đã nêu trên thì điều kiện khí hậu cũng ảnh hưởng rất
nhiều đến bệnh viêm tử cung, vào các mùa khác nhau tỷ lệ lợn mắc bệnh viêm
tử cung cũng khác nhau và hiệu quả điều trị bệnh cũng khác nhau. Kết quả theo
dõi được thể điều tra và thể hiện ở bảng 2.6.
Qua bảng số liệu 2.6 năm 2011 chùng tôi thu thập được thấy vào mùa
hè, lợn mắc bệnh viêm tử cung với tỷ lệ cao nhất ( 41,3% ), tiếp đó là mùa xuân
( 26,7% ), ít nhất là mùa thu và mùa đông . Mùa hè, nhiệt độ ở trong chuồng
nuôi cao, nếu không có các biện pháp điều chỉnh nhiệt độ thì nhiệt độ còn cao
hơn. Nhiệt độ cao làm cho khả năng thu nhận thức ăn giảm, sức khỏe, sức đề
kháng của con vật cũng giảm sút nên tỷ lệ mắc bệnh của lợn nái rất cao, đặc biệt
là các bệnh ở đường sinh dục.
Vào mùa đông, nhiệt độ xuống thấp nên vi khuẩn không có điều kiện thuận
lợi để phát triển, tiểu khí hậu trong chuồng nuôi lại được điều chỉnh khá tốt nhờ có
hệ thống bạt che tự động xung quanh, do vậy tỷ lệ mắc bệnh sinh sản cũng thấp hơn.
Bảng 2.6. Tình hình mắc bệnh viêm tử cung qua các mùa (n=150)
Mùa
Mắc bệnh
Số con mắc
( con )
Tỷ lệ mắc
( % )
Mùa xuân 40 26,7
Mùa hè 62 41,3
Mùa thu 20 13,3
Mùa đông 23 15,3
2.5.4.3. Tỉ lệ viêm tử cung khi can thiệp không đảm bảo vô trùng
Bảng 2.7. Tỉ lệ viêm tử cung khi can thiệp không đảm bảo vô trùng tai trại
THANH XUÂN
Biện pháp can thiệp Số con theo dõi
(con)
Số con mắc
(con)
Tỉ lệ mắc
(%)
25