Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM CẦN NGHIÊN CỨU KINH NGHIỆM FINTECH CỦA TRUNG QUỐC VÀ TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC TRONG BỐI CẢNH CUỘC CHIẾN THƯƠNG MẠI GIA TĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.49 KB, 18 trang )

CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM CẦN NGHIÊN CỨU
KINH NGHIỆM FINTECH CỦA TRUNG QUỐC VÀ TĂNG CƯỜNG HỢP
TÁC TRONG BỐI CẢNH CUỘC CHIẾN THƯƠNG MẠI GIA TĂNG

1. Tóm tắt nghiên cứu
Thị trương tài chính thế giới không ngừng đón nhất những quyết định
của Chính phủ Mỹ liên quan đến thương mại với Trung Quốc và một số quốc
gia khác, rong những năm gần đây, nắm bắt xu hướng phát triển công nghệ
nói chung, từ quy mô các nhóm hàng bị đánh thuế nhập khẩu, đến mức thuế
đánh lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, đến tuyên bố rút khỏi Liên minh Bưu
chính Thế giới (UPU), nhắm thẳng vào Trung Quốc nhằm gia tăng sức ép
thương mại với nước này. Bản thân các nhà lập chính sách và chuyên gia tài
chính của Trung Quốc cũng chưa tính toán và lường hết được các tác động của
cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đến kinh tế và tiền tệ nước này đến mức độ
nào. Tuy nhiên nhìn nhận sự sụt giảm tới 6.000 tỷ USD của giá trị vốn hóa trên
thị trường chứng khoán và mức sụt giảm chỉ số chứng khoán Trung Quốc thấp
nhất trong 4 năm qua, cùng với chỉ số giá tiêu dùng tăng cao,, kinh tế tăng
trưởng chậm lại… cũng đủ thấy những ảnh hưởng rất rõ ràng. Trong bối cảnh
ấy các Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cần tích cực nghiên cứu,
tham khảo kinh nghiệm và tăng cường hợp tác hoạt động ngân hàng với Trung
Quốc, của các nước trong khu vực nói chung và công nghệ tài tài chính
(Fintech) nói riêng, nhằm phát triển công nghệ ngân hàng, nâng cao năng lực
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam, tăng sức đề kháng trước
các diễn biến mới của kinh tế toàn cầu cũng như khu vực.


Từ khóa: nghiên cứu kinh nghiệm, Fintech củaTrung Quốc, ngân hàng
thương mại, tăng cường hợp tác, cuộc chiến thương mại
Nội dung nghiên cứu
1. Nắm bắt các xu hướng và tích cực nghiên cứu kinh nghiệm của Trung
Quốc về phát triển Fintech


Nếu như trong nhiều năm trước đây, Trung Quốc phải học kinh nghiệm quản
lý hệ thống tài chính của các nước phát triển, thì hiện nay tình hình đang diễn ra
ngược lại, nhiều nước trên thế giới đang phải học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc
trong lĩnh vực công nghệ tài chính (fintech). Hiện nay Trung Quốc đang là thị
trường lớn nhất thế giới về thanh toán kỹ thuật số, chiếm gần 50% toàn cầu. Trung
Quốc cũng thống lĩnh mảng cho vay trực tuyến, chiếm tới 3/4 thị trường thế giới.
Trong một bảng xếp hạng các công ty Fintech cải tiến nhất thế giới năm 2016, các
doanh nghiệp trong lĩnh vực này của Trung Quốc nắm giữ 4 trong 5 vị trí top đầu.
Công ty Fintech lớn nhất của Trung Quốc đó là Ant Financial, có giá trị lên tới 60
tỉ USD, không thua kém gì UBS, ngân hàng lớn nhất Thụy Sĩ hiện nay. Văn Quốc
( 2017)
Xu hướng phát triển mạnh mẽ Fintech tại Trung Quốc hiện nay được nhận
thấy rõ nhất ở 3 lĩnh vực sau đây:
Thứ nhất là thanh toán qua các thiết bị di động
Một thực tế là, những người thuộc tầng lớp người tiêu dùng trung lưu của
Trung Quốc, vốn tăng mạnh theo sự bùng nổ của internet, luôn thích mua sắm trực
tuyến. Điều đó khiến lực lượng đông đảo này sớm thích ứng với các giao dịch
thanh toán kỹ thuật số qua các thiết bị di động.
Việc chuyển sang nền tảng thanh toán dựa trên kỹ thuật số có sự tăng tốc
trong thời gian qua cùng với sự trỗi dậy của điện thoại thông minh (smartphone),
vốn nhanh chóng được ưa thích bởi nhiều người Trung Quốc chưa từng sở hữu một
chiếc máy tính cá nhân nào trước đây. Hiện nay ước tính có khoảng 95% người sử


dụng internet tại Trung Quốc thực hiện mua sắm qua thiết bị di động. Alipay, bộ
phận thanh toán của Alibaba, đã nhanh chóng trở thành ví tiền di động được nhiều
người dân Trung Quốc lựa chọn. Tencent cũng giới thiệu chức năng thanh toán
trong ứng dụng trên thiết bị di động phổ biến WeChat của mình, với 500 triệu
người sử dụng. Động cơ tìm kiếm Baidu cũng ra mắt ví tiền di động của riêng
mình. Phạm Xuân Hòe và Nguyễn Thị Minh Ngọc (2017)

Chính sự cạnh tranh trong hoạt động này cũng đã thúc đẩy hàng loạt cải tiến,
đặc biệt trong cách ứng dụng trên các thiết bị di động có thể kết nối trực tuyến với
các giao dịch bán lẻ trực tiếp. Mã vạch ma trận đã trở nên được sử dụng phổ biến
trong thanh toán trên các thiết bị di động của khách hàng Trung Quốc ở các nhà
hàng và cửa hàng bán lẻ, trung tâm mua sắm, siêu thị, thậm chí là những người bán
hàng trên các vỉa hè ở Trung Quốc. Người sử dụng chỉ cần mở WeChat hoặc
Alipay, quét mã vạch và thanh toán. Điện thoại có thể được dùng như thẻ thanh
toán, chỉ với một cú nhấp khác, người sử dụng trình mã vạch để nhân viên cửa
hàng, nhân viên bán hàng, thu ngân quét mã QR Code. Họ cũng dễ dàng gửi tiền
cho nhau giống như gửi tin nhắn qua điện thoại.
Nhiều chức năng thanh toán trong WeChat hoặc Alipay cũng có ở những
quốc gia khác, nhưng dưới hình thức riêng lẻ: Stripe hoặc PayPal được các cửa
hàng trực tuyến dùng để xử lý các thanh toán; Apple Pay hoặc Android Pay cho
những ai sử dụng điện thoại như một loại ví điện tử; Facebook Messenger hoặc
Venmo cho bạn bè chuyển tiền. Tại Trung Quốc, tất cả các chức năng riêng biệt ấy
đã được tích hợp lại thành nền tảng duy nhất. Theo Bộ Công nghiệp và Công nghệ
Thông tin Trung Quốc, khoảng 425 triệu người Trung Quốc, tương đương 65%
người sử dụng thiết bị di động, điện thoại thông minh được sử dụng như ví điện tử,
tỉ lệ cao nhất trên thế giới hiện nay. Thanh toán qua di động đạt 38.000 tỉ nhân dân
tệ, tương đương 5.500 tỉ USD trong năm 2016, gấp hơn 5 lần quy mô thị trường
Mỹ. Phạm Xuân Hòe và cộng sự (2017)


Thứ hai, đó là sự phát triển mạnh mẽ hoạt động cho vay trực tuyến ở
Trung Quốc
Ở hầu hết các nước, ngân hàng bỏ qua người cho vay nhỏ. Vấn đề này đặc
biệt nghiêm trọng ở Trung Quốc. Các ngân hàng sở hữu nhà nước chỉ ưa thích cho
vay những công ty quốc doanh. Việc thiếu một hệ thống có khả năng đánh giá rủi
ro tín dụng tiêu dùng càng khiến cho các ngân hàng nước này e ngại cho vay cá
nhân. Những tổ chức cho vay “chợ đen” như tiệm cầm đồ cũng cho vay tiêu dùng

nhưng lãi suất rất cao.
Do đó, các công ty Fintech đã nhanh chóng bắt đầu lấp vào khoảng trống
này. Các nền tảng mua sắm trực tuyến đã phát triển những dịch vụ cho vay và sử
dụng các giao dịch và thông tin cá nhân của khách hàng để xây dựng điểm tín
dụng. Những người mua hàng trên Alibaba và JD.com, 2 cổng thương mại điện tử
lớn nhất Trung Quốc, dễ dàng cho vay những khoản tiền nhỏ, đặc biệt dưới 10.000
nhân dân tệ. Theo Công ty Ant Financial, 60% người đi vay nhỏ này chưa bao giờ
sử dụng thẻ tín dụng. Ant và JD.com cũng cho vay các nhà kinh doanh, nhiều
người trong số họ là doanh nghiệp nhỏ. Phạm Xuân Hòe và cộng sự (2017)
Hình thức tín dụng cho vay ngang hàng (P2P) đặc biệt phát triển rất nhanh
tại Trung Quốc. Từ chỉ 214 tổ chức cho vay P2P năm 2011, đến năm 2015, con số
này đã tăng lên hơn 3.000 tổ chức. Mặc dù hơn 1/3 số tổ chức loại này đến nay đã
đóng cửa nhưng P2P vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Các khoản cho vay P2P đã tăng
gấp 28 lần từ mức 30 tỉ nhân dân tệ vào đầu năm 2014 lên tới 850 tỉ nhân dân tệ
vào tháng 9/2017. Các tổ chức cho vay trực tuyến đã làm được một việc là cho vay
với lãi suất thấp hơn so với thị trường chợ đen nhờ có sự cạnh tranh. Văn Quốc
(2017)
Thứ ba, đó là sự phát triển mạnh mẽ của Fintech ở Trung Quốc là hoạt
động đầu tư


Trước đây người tiết kiệm tiền Trung Quốc chỉ có 2 lựa chọn: một là gửi tiền
vào ngân hàng, chịu lãi suất thấp, nhưng an toàn; hai là đổ tiền vào thị trường
chứng khoán, lợi nhuận có thể cao hơn nhưng lại rủi ro. Không hề có khoảng giữa
nào cả của 2 lựa chọn đó. Bởi vậy các Công ty Fintech đã mở ra khoảng giữa đó.
Tại Trung Quốc, các nhà quản lý quỹ không có cơ hội đóng vai trò trung
gian, quản lý tiền cho người khác khi thị trường nhảy sang thời kỹ thuật số. Điều
này chủ yếu là do sự khác biệt giữa các thế hệ người dân tại Trung Quốc hiện nay,
những lao động có thu nhập cao nhất thường là người trẻ hơn và sẵn sàng tin vào
các nền tảng web quản lý tiền cho mình, trong khi phần đông người trung niên và

lớn tuổi lựa chọn gửi tiền vào ngân hàng.
Đột phá lớn nhất là việc Alibaba tung ra quỹ trực tuyến Yu’e Bao vào năm
2013, được quảng bá là một cách giúp người dân hưởng lãi suất trên số tiền có
trong các tài khoản thương mại điện tử. Yu’e Bao cung cấp mức sinh lời ngang
hàng với thị trường liên ngân hàng, vốn có lãi suất thả nổi. Nghĩa là người tiết
kiệm có thể hưởng mức lãi suất cao hơn 3 điểm phần trăm so với lãi suất tại các
ngân hàng. Rủi ro cũng ít, vì tiền của họ vẫn nằm trong tay các ngân hàng. Yu’e
Bao đã thu hút 185 triệu khách hàng trong vòng 18 tháng, với 600 tỉ nhân dân tệ
được quản lý. Văn Quốc ( 2017)
Những người chơi mới nhanh chóng nhảy vào các tài khoản thương mại điện
tử. Năm 2014, Tencent tung ra Licaitong, một nền tảng quỹ trực tuyến kết nối với
WeChat. Trong vòng 1 năm, Tencent đã có 100 tỉ nhân dân tệ được quản lý. Lufax,
công ty P2P lớn nhất Trung Quốc, đã vươn xa trở thành một “siêu thị” tài chính:
cho vay các khoản vay cá nhân, chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản, quỹ
tương hỗ, tài chính… Phạm Xuân Hòe và cộng sự (2017)
Mặc dù các ứng dụng Fintech và tổ chức cho vay trực tuyến có số lượng
người sử dụng khổng lồ ở Trung Quốc, nhưng chủ yếu là người tiêu dùng và doanh
nghiệp nhỏ. Do đó, tính đến tháng 9/2017, dư nợ cho vay P2P chỉ chiếm chưa tới


0,8% tổng dư nợ ngân hàng. Tín dụng do các công ty thương mại điện tử cung cấp
cũng chiếm tỉ lệ không đáng kể. Thu nhập từ các thanh toán qua thiết bị di động
chiếm chưa tới 2% doanh thu ngân hàng. Dự báo các công ty Fintech chiếm chỉ
1/20 hoạt động kinh doanh của các ngân hàng vào năm 2020. Văn Quốc ( 2017)
Tuy nhiên, chỉ nhìn vào tổng quy mô của Fintech thì chưa đủ. Ở những phân
khúc thị trường mà họ đặt trọng tâm, các công ty Fintech đã có kết quả thành công
rất lớn. Các thanh toán kỹ thuật số chiếm tới gần 1/3 giao dịch thanh toán không sử
dụng tiền mặt tại Trung Quốc, bỏ xa thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ. Các khoản cho vay
P2P cũng chiếm tới 1/5 tổng tín dụng tiêu dùng ở nước này vào thời điểm tháng
9/2017. Phạm Xuân Hòe và cộng sự (2017)

Thứ tư, mở rộng đầu tư phát triển Fintech tại khu vực châu Á
Không chỉ phát triển mạnh ở thị trường trong nước, các công ty Fintech của
Trung Quốc đang nỗ lực vươn ra thị trường nước ngoài, trước tiên là các quốc gia
đông dân, các nước trong khu vực. Ví di động của WeChat giờ được sử dụng trên
toàn cầu, hiện chủ yếu ở châu Á. Hay Ant Financial đã đầu tư vào các công ty tài
chính di động ở Ấn Độ, Hàn Quốc và Thái Lan. Tuy nhiên, các công ty Fintech của
Trung Quốc không dễ dàng đạt được thành công ở thị trường châu Âu, Mỹ, Nhật
Bản,…Bởi vì, các công ty dạng này chủ yếu ra đời để giải quyết những hạn chế
trong hệ thống tài chính Trung Quốc. Trong khi đó, khi vươn ra các thị trường như
đã đề cập, các công ty Fintech của Trung Quốc chạm đến hoạt động ngân hàng lõi
ở nước ngoài, cần đến sự hợp tác Chính phủ và phải tuân thủ các quy định của
nước sở tại... Đây là những lực cản của các Công ty Fintech của Trung Quốc trong
nỗ lực bành trướng toàn cầu.
Alipay là công ty con của tập đoàn Alibaba Group, được thành lập năm
2004. Hiện nay Alipay có hơn 520 triệu người dùng đang hoạt động, chủ yếu ở
Trung Quốc. Alipay đã được phát triển từ một chiếc ví kỹ thuật số cho đến một
phong cách sống. Người dùng có thể gọi taxi, đặt phòng khách sạn, hẹn gặp bác sĩ,


mua vé xem phim, thanh toán hóa đơn tiện ích hoặc mua các sản phẩm quản lý tài
sản trực tiếp trong ứng dụng. Ngoài các khoản thanh toán trực tuyến, Alipay đang
mở rộng để thanh toán ngoại tuyến tại cửa hàng cả trong và ngoài Trung Quốc.
Alipay đã triển khai dịch vụ tới hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ bao gồm các thị
trường lớn như Singapore, Anh, Bỉ, Pháp, Mỹ, Úc, Indonesia…và hỗ trợ thanh
quyết toán 18 loại tiền tệ phổ biến trên thế giới. Thị trường Việt Nam là một trong
những thị trường mục tiêu tiếp theo của Alipay nằm trong chiến lược kinh doanh
toàn cầu. Phạm Xuân Hòe và cộng sự (2017)
Thứ năm, hợp tác phát triển Fintech tại Việt Nam
Ngày 10/11/2017, Công ty Cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam
(NAPAS) và Công ty quản lý dịch vụ thanh toán của Trung Quốc (Alipay) chính

thức thiết lập quan hệ hợp tác thông qua việc ký kết thỏa thuận chiến lược giữa hai
bên. NAPAS đã và đang triển khai kết nối hệ thống với các tổ chức thẻ quốc tế, các
tổ chức chuyển mạch quốc gia, các công ty thanh toán quốc gia để cung cấp
phương tiện thanh toán cho các kênh thanh toán chính thống tại Việt Nam. Thông
qua hợp tác giữa NAPAS, các ngân hàng và Alipay, các đơn vị bán hàng sẽ được
cung cấp thêm một phương thức thanh toán thuận tiện, mới mẻ để đáp ứng nhu cầu
của các khách du lịch Trung Quốc thực hiện chi tiêu, mua sắm bằng ứng dụng
thanh toán Alipay - tương tự như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ hay tài khoản ngân hàng khi đến Việt Nam. Lạc Nhạn (2017)
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, trong năm 2016, khách du lịch Trung
Quốc đến Việt Nam đạt 2,7 triệu người, chiếm 27% tổng lượng khách du lịch quốc
tế đến Việt Nam. Trong quý I năm 2017, khách du lịch Trung Quốc tăng 64% so
với cùng kỳ năm 2016, đạt gần 3,2 triệu lượt người, chiếm 30% tổng lượng khách
du lịch quốc tế đến Việt Nam. Anh Mình (2017)
Với sự hợp tác giữa NAPAS, các ngân hàng và Alipay, khách du lịch Trung
Quốc đến Việt Nam ngoài phương tiện thanh toán bằng thẻ UnionPay có thể sử


dụng thêm phương tiện thanh toán thông qua ứng dụng Alipay, đang rất được phổ
biến tại Trung Quốc. Việc tổ chức kết nối và cung cấp các dịch vụ thanh toán thông
qua cổng chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử của NAPAS giúp đưa luồng tiền
thanh toán của các giao dịch xuyên biên giới đi qua hệ thống các ngân hàng và tổ
chức thanh toán tại Việt Nam.
Tháng 4/2016, Alibaba Group đã đầu tư 1 tỉ USD lấy quyền quản lý Lazada
Group SA, mở rộng thị trường thương mại điện tử sang khu vực Đông Nam Á, bao
gồm cả Lazada Việt Nam. Theo công bố từ Lazada Việt Nam, công ty có hơn 1.000
nhân viên đến cuối năm 2015, kết nối với gần 4.000 nhà bán hàng, phân phối hơn
400.000 mặt hàng thuộc 13 ngành hàng khác nhau. Đây là những tín hiệu đầu tiên
của các Fintech Trung Quốc mở rộng thị phần hoạt động ở Việt Nam. Văn Quốc
( 2017)
2. Nghiên cứu xu hướng phát triển Fintech trên thế giới

Trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay, thuật ngữ Fintech được nhắc
đến khác nhiều trong lĩnh vực tài chính. Fintech là việc ứng dụng công nghệ tiên
tiến vào dịch vụ tài chính. Fintech được ghép là từ hai từ Financial (tài chính) và
Technology (công nghệ). Hiểu một cách đơn giản, Fintech là những công ty tham
gia cung cấp dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ số. Fintech được sử
dụng chung cho tất cả các công ty sử dụng internet, điện thoại di động, công nghệ
điện toán đám mây và các phần mềm mã nguồn mở, kỹ thuật số nhằm mục đích
nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng, tài chính, chứng khoán, quản lý danh
mục và đầu tư. Với xu hướng phát triển nhanh và mạnh trong những năm gần đây,
Fintech đang có nhiều cơ hội để mở rộng thị phần, cùng với đó là tăng tính cạnh
tranh đối với các ngân hàng và công ty tài chính, đặc biệt trong lĩnh vực thanh
toán. Tuy nhiên đây cũng là cơ hội để đầu tư Fintech, cơ hội để hợp tác với các
công ty Fintech của các ngân hàng. Thu Hương (2017)


Công nghệ số là nền tảng cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng. Tại một số nước phát triển, kể cả các nước đang phát triển đã xuất hiện ngày
càng nhiều “ngân hàng không giấy”. Các dịch vụ ngân hàng qua Internet, Mobile,
mạng xã hội, phát triển ngân hàng số áp dụng nhiều giải pháp công nghệ mới hiện
đại thông qua việc áp dụng xác thực vân tay, nhận diện khuôn mặt, sinh trắc, sử
dụng mã QR Code, thanh toán phi tiếp xúc…đang mang lại tiện lợi trong giao dịch
thanh toán điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán dựa trên các thiết bị di động, tập trung là điện thoại di động
(mobile payment) đã đem lại cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính một cách thuận
tiện, với chi phí thấp, hợp lý cho hàng trăm triệu khách hàng là những người có thu
nhập thấp. Sự xuất hiện của mobile payment giúp cộng đồng thu nhập thấp tham
gia và có cơ hội hưởng lợi trực tiếp từ những thành quả của cuộc Cách mạng Công
nghiệp 4.0.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) là sự kết
hợp các công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh

học. Bản chất của CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp
tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất;
nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người
máy,...Minh Khoa (2017)
Về kinh nghiệm quốc tế trong quản lý và khuyến khích phát triển Fintech
một số nước trong khu vực. Tại Thái Lan sự phát triển của Fintech và thanh toán từ
tiền mặt đến kỹ thuật số. Các dự án trong Quy hoạch phát triển Thanh toán điện tử
quốc gia do Ngân hàng Trung ương Thailand ( BOT) chỉ đạo. Theo đó, có 6 công
nghệ cơ bản có tính cách mạng ở Thái Lan, đó là thanh toán QR, công nghệ
Blockchains và Sổ cái phân tán (DPL), công nghệ sinh trắc học, Công nghệ Big
Data/phân tích dữ liệu, công nghệ Machine Learning/ Trí tuệ nhân tạo và chuẩn


mực/Open APIs (giao diện lập trình ứng dụng mở). Chiến lược Fintech của Ngân
hàng Trung ương Thái Lan là sử dụng khuôn khổ thử nghiệm để thúc đẩy đổi mới
sáng tạo xây dựng hệ sinh thái Fintech bền vững. Về khuôn khổ pháp lý thử
nghiệm của BOT, có các quy định rõ ràng, chặt chẽ nhằm bảo vệ các lợi ích của
người tham gia; quy định cụ thể các sản phẩm và dịch vụ tài chính có tính sáng tạo
đã được thử nghiệm trong khuôn khổ pháp lý thử nghiệm của BOT.
Cơ quan Quản lý Tiền tệ Singapore (MAS) thành lập Nhóm công tác về
khuôn khổ thử nghiệm Fintech của MAS, tham vấn cộng đồng, tiếp nhận và xử lý
các đơn xin tham gia khuôn khổ thử nghiệm Fintech, tương tác với các bên tham
gia Fintech, tương tác với các cơ quan quản lý khác, xây dựng khuôn khổ pháp lý
thử nghiệm Fintech, quá trình xây dựng khuôn khổ thử nghiệm thông qua các kênh
phản hồi chính Fintech:... MAS xác định một trung tâm tài chính thông minh là nơi
sáng kiến đổi mới được phổ biến và công nghệ được sử dụng rộng khắp nhằm tăng
cường hiệu quả, quản lý rủi ro tốt hơn, tạo ra các cơ hội mới, nâng cao chất lượng
cuộc sống, đồng thời đó cũng là nơi mà bức tranh Fintech đầy rực rỡ, kết nối và số
hóa. Khuôn khổ pháp lý thử nghiệm Fintech của Singapore bao gồm: mục tiêu,

nguyên tắc, đối tượng tham gia thử nghiệm, các lĩnh vực được phép thử nghiệp,
cấp phép...) và những vấn đề đặt ra cho các cơ quan quản lý trong việc đảm bảo
đồng thời mục tiêu đẩy mạnh đổi mới sáng tạo về công nghệ tài chính, đang lại lợi
ích chính đáng của người sử dụng dịch vụ Fintech trong khi có thể hạn chế tối đa
những rủi ro.
3. Chủ động nghiên cứu xu hướng phát triển công nghệ Fintech tại các
nước trong khu vực và ứng dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hoạt động Fintech xuất hiện tại Việt Nam cùng với các công ty trung gian
thanh toán vào năm 2008 và đã không còn xa lạ với nhiều người. Tuy nhiên, đến
nay, các công ty Fintech vẫn đang ở những bước đầu phát triển và mới bùng nổ
mạnh mẽ trong khoảng 3 - 4 năm gần đây, bắt đầu từ năm 2015. Tính đến nay có


27 tổ chức đã được NHNN cấp phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
Thanh toán di động dần trở thành xu hướng trong thời đại hiện nay với các phương
thức thanh toán mới ra đời trên cơ sở ứng dụng các công nghệ, giao diện hiện đại
như mã QR, số hóa thông tin thẻ, ví điện tử… 12 ngân hàng đã triển khai dịch vụ
thanh toán QR Code với số lượng các điểm giao dịch chấp nhận thanh toán lên tới
hơn 5000 điểm chấp nhận thanh toán QR Code. 78 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán đã triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 41 tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán qua điện thoại di động.
Việt Nam là một thị tường có dân số trẻ đầy hứa hẹn cho các công ty ứng
dụng công nghệ vào dịch vụ tài chính, với gần 62% dân số trong độ tuổi từ 15 đến
54 tuổi sử dụng internet và điện thoại thông minh nhiều, tương ứng với tỷ lệ 52%
người dân sử dụng Internet, 45% sử dụng điện thoại thông minh (smartphone)
nhưng chỉ khoảng 30% dân số Việt Nam có tài khoản ngân hàng và chỉ 3% sử dụng
thẻ tín dụng trong thanh toán, hơn 110 triệu các loại thẻ do các ngân hàng phát
hành và sử dụng, trong đó có trên 9,0 triệu thẻ tín dụng quốc tế. Hiện nay, Việt
Nam có 140 thuê bao di động/100 dân, gần 60 triệu thuê bao 3G, 4G với 99% số
quận, huyện trên toàn quốc đã được phủ sóng 4G. Số thuê bao di động băng rộng

SmartPhone dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên 80 triệu vào năm 2020. Đây là điều kiện lý
tưởng để thúc đẩy thanh toán di động, cũng như các dịch vụ tài chính và thương
mại điện tử khác đến tất cả các vùng miền, đem lại lợi ích cho doanh nghiệp và tất
cả các nhóm dân cư ở Việt Nam, thay đổi triệt để thói quen dùng tiền mặt như hiện
tại. Điều này đã biến Việt Nam trở thành một thị trường đầy tiềm năng cho các
công ty Fintech khai thác và phát triển, lấp đầy khoảng trống mà các ngân hàng
đang để lại. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2017. Không chỉ có các công ty
Fintech của Việt Nam mà nhiều công ty Fintech quốc tế và các quỹ đầu tư nước
ngoài như Investree của Indonesia hay The FinLab của Singapore, nhiều nhà đầu


tư nước ngoài khác cũng đang rất quam tâm tìm hiểu, nghiên cứu, đầu tư và kinh
doanh Fintech ở thị trường Việt Nam.
Tại Việt Nam, hàng loạt doanh nghiệp trong các lĩnh vực viễn thông, ngân
hàng, các công ty khởi nghiệp tài chính điện tử (Fintech) cũng bắt đầu cung cấp
dịch vụ đến các vùng sâu, vùng xa, các khu công nghiệp và tiếp cận với một số
lượng lớn người lao động, bình thường vốn ít có điều kiện tiếp xúc với các dịch vụ
tài chính truyền thống.
Việt Nam đã có sự đột phá trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử,
trong thời gian qua, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam đã và
đang không ngừng phát triển, đặc biệt có sự đột phá trong việc phát triển dịch vụ
ngân hàng điện tử hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên của xã hội và
thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương
tiện thanh toán tiếp tục có xu hướng giảm, từ 14,02% năm 2010 xuống còn 11,45%
vào tháng 8.2017. Tạp chí Tài chính (2017)
Tính đến nay Việt Nam đã có gần 50 công ty Fintech hoạt động trong nhiều
lĩnh vực khác nhau như thanh toán, cho vay, quản trị dữ liệu, quản lý máy POS, tài
chính cá nhân, gọi vốn cộng đồng (crowdfunding), so sánh lãi suất… Chiếm đa số
trong đó vẫn là các công ty hoạt động trong mảng thanh toán. Tạp chí Tài chính
(2017)

Tuy nhiên, nhìn chung hoạt động tài chính-ngân hàng tại Việt Nam vẫn chưa
phổ biến các phương tiện kỹ thuật số, các dịch vụ ứng dụng công nghệ cao mà vẫn
phần nhiều dựa vào các nghiệp vụ truyền thống, khi mà nhân viên ngân hàng vẫn
còn phải trực tiếp đi gặp khách hàng, tốn rất nhiều thời gian và chi phí.
Một số dự báo đã chỉ ra rằng, Fintech nói chung và thanh toán qua thiết bị di
động nói riêng ở Việt Nam sẽ nhanh chóng bùng nổ và phổ cập trong 1-2 năm tới
đây, điều mà đã diễn ra đối với điện thoại di động hơn 10 năm trước. Đây cũng là
mục tiêu quan trọng của Chính phủ, mong muốn làm bùng nổ và phổ cập thanh


toán di động, góp phần đưa tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương diện thanh toán ở
mức thấp hơn 10% vào năm 2020. Chính phủ đã ban hành một số chính sách, đề án
nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và thanh toán di động
nói riêng. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2017.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành
liên quan để triển khai phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán điện
tử; các giải pháp để tăng cường quản lý, giám sát, đảm bảo an ninh, an toàn và sự
tin cậy đối với các hệ thống thanh toán theo các nguyên tắc giám sát quốc tế.
Bên cạnh đó, NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực công nghệ tài
chính (Fintech) để tham mưu, đề xuất hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hệ sinh thái
trong lĩnh vực Fintech nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Fintech tại Việt
Nam phát triển, phù hợp với chủ trương, định hướng của Chính phủ.
Khách hàng đang có xu hướng chuyển dịch dùng các kênh giao dịch sang
hướng số, phi chi nhánh; cùng một lúc hoặc trong một lộ trình để có thể sử dụng
nhiều kênh khác nhau trong việc tương tác, giao dịch với NH.
Những thay đổi trên, cùng với kết quả mang lại của xu hướng cách mạng
công nghiệp 4.0, làm nên làn sóng số hóa thay đổi cơ bản và toàn diện các mô hình
kinh doanh và hoạt động của rất nhiều NH.
Từ xu hướng phát triển tất yếu của lĩnh vực Fintech và hiện còn tồn tại
khoảng trống pháp lý trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam, một số nội dung dự kiến

trong cơ chế quản lý thử nghiệm Fintech. Mục tiêu hướng đến hiện thực hóa các
giải pháp tại Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến
năm 2025” được phê duyệt tại Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của
Thủ tướng Chính phủ; thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo và hiện đại hóa lĩnh vực hoạt
động ngân hàng, qua đó thúc đẩy mục tiêu phổ cập tài chính cho người dân; Tạo
lập môi trường thử nghiệm nhằm hoàn thiện và phát triển các giải pháp công nghệ
tài chính, phù hợp với nhu cầu thị trường và khuôn khổ pháp lý; Hạn chế rủi ro xảy


ra cho khách hàng khi tham gia sử dụng các dịch vụ Fintech chưa được cấp phép
chính thức.
Fintech là lĩnh vực mới, biến đổi không ngừng, do vậy, trong quá trình xây
dựng và triển khai có nhiều thách thức trong xác định phạm vi dịch vụ, rủi ro chưa
thể dự đoán, ảnh hưởng tới niềm tin và sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân, sự gia
tăng không ngừng của các dịch vụ xuyên biên giới lợi dụng cho mục đích phi pháp
như rửa tiền, tài trợ khủng bố… Đồng thời, hiện nay chưa có khuôn khổ về thể chế
quản lý nên khó xác định điều kiện và tiêu chuẩn khi thẩm định đơn vị tham gia
Sanbox, hạn chế về năng lực đội ngũ cán bộ quản lý.
NHNN đang nghiên cứu xây dựng khuôn khổ pháp lý thử nghiệm nhằm thúc
đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp Fintech, phù hợp với chủ trương và định
hướng của Chính phủ Việt Nam về việc tạo lập môi trường pháp lý và kinh doanh
thuận lợi cho hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo theo Quyết định số 844/QĐTTg ngày 18/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “hỗ trợ hệ sinh
thái khởi nghiệp Quốc gia đến năm 2025”. Trong thời gian tới, NHNN đang tiieps
tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý thử nghiệm cho hoạt động Fintech trong lĩnh vực
ngân hàng tại Việt Nam, cũng như trong quá trình xây dựng Chiến lược phát triển
lĩnh vực Fintech tại Việt Nam trong dài hạn.
5. Khuyến nghị hàm ý chính sách về phát triển Fintech ở Việt Nam
Dự báo kết thúc năm 2018, NHNN Việt Nam sẽ xây dựng xong dự thảo cơ
chế quản lý thử nghiệm Fintech, nghiên cứu, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với
một số vấn đề như mô hình ngân hàng đại lý, tiền điện tử, chính sách về hoạt động

ngân hàng tương thích với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, ban hành chính
sách, quy định khuyến khích sự phát triển các giải pháp, công nghệ thanh toán đổi
mới, sáng tạo, hướng tới hỗ trợ phổ cập tài chính ở Việt Nam, tiến đến xây dựng
Nghị định về Cơ chế quản lý thử nghiệm hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân


hàng. Đây là bước tiến quan trọng trong tạo hành lanh pháp lý cho phát triển
Fintech. Bài viết xin đưa ra một số khuyến nghị sau:
Một là, Việt Nam cần tiếp tục tham khảo kinh nghiệm Fintech của Trung
Quốc, của một số nước trong khu vực, cả bài học thành công và bài học thất bại,
đón nhận những thời cơ, những tác động tích cực của cuộc chiến thương mại Mỹ Trung, hạn chế những tác động bất lợi đối với nền kinh tể Việt Nam. Hiện nay
NAPAS hiện đang quản trị và vận hành hệ thống chuyển mạch kết nối liên thông
hơn 17.300 máy ATM, 270.600 máy POS, phục vụ hơn 100 triệu lượt chủ thẻ của
43 ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam.
Cùng với việc hợp tác với Alipay, ngày 13/9/2017, NAPAS cùng với Samsung và 6
ngân hàng thương mại đã cung cấp ra thị trường ứng dụng thanh toán di động
Samsung Pay trên nền tảng hạ tầng chuyển mạch tài chính và hạ tầng số hóa thanh
toán của NAPAS cho sản phẩm thẻ ATM nội địa của các ngân hàng tại Việt Nam.
Lạc Nhạn (2017)
Vì vậy, NAPAS cần tiếp tục là đầu mối hợp tác với các tập đoàn, doanh
nghiệp khác có liên quan, dảm bảo hợp tác có hiệu quả với đối tác Trung Quốc,
tranh thủ kinh nghiệm, công nghệ và cách làm của đối tác này để nâng tầm hoạt
động Fintech của các đơn vị có liên quan tại Việt Nam.
Hai là, các NHTM Việt Nam cũng chủ động nắm bắt, đầu tư ứng dụng và
liên kết với các Fintech trong hoạt động kinh doanh của mình với các đối tác Trung
Quốc và đối tác trong khu vực ở phạm vi có thể chấp nhận được, có định hướng
chiến lược phát triển cụ thể cho hoạt động nghiệp vụ, cung cấp các sản phẩm dịch
vụ, tối ưu hóa lợi nhuận.
Ba là, Fintech là một lĩnh vực mới lại liên tục phát triển, đổi mới với nhịp độ
nhanh, bởi vậy hành lang pháp lý hiện hành tại Việt Nam cho hoạt động nghiệp vụ

và định hướng phát triển trong tương lai của các công ty Fintech nhìn chung còn
thiếu hoặc chưa tương thích với bối cảnh số hóa, ứng dụng thành tựu của cuộc cách


mạng công nghiệp 4.0 và mới chỉ tập trung vào khía cạnh thanh toán của Fintech.
Do đó, để hướng tới xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của
các công ty Fintech trong lĩnh vực ngân hàng, cần phải có sự nắm bắt, hiểu biết về
lĩnh vực này, tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc về xây dựng khuôn khổ
pháp lý, khảo sát kỹ lưỡng những thủ đoạn của các doanh nghiệp, thương nhân
Trung Quốc trong việc thanh toán mã QR đối với khách du lịch Trung Quốc tại
Việt Nam, đưa ra các chế tài quản lý phù hợp.
Bốn là, một số công nghệ hiện đại, có tầm ảnh hưởng sâu rộng hiện đang
được các công ty Fintech trên thế giới áp dụng vào lĩnh vực ngân hàng - tài chính
như: công nghệ chuỗi khối Blockchain, giao diện lập trình ứng dụng-API, trí thông
minh nhân tạo (AI).... Do đó các NHTM Việt Nam cần chủ động nghiên cứu, nắm
bắt các xu hướng công nghệ mới, mạnh dạn đầu tư, ứng dụng trong hoạt động kinh
doanh.
Bốn là, sự phát triển của mô hình ngân hàng bán lẻ thách thức (challenger
bank) trong thế kỷ 21 trên các khía cạnh khác nhau về công nghệ, các quy định
trong quản lý và hành vi của người tiêu dùng...cũng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ.
Đây cũng là những thách thức mới, thách thức lớn cho các NHTM Việt Nam, cần
đầu tư mạnh mẽ cho công nghệ, hợp tác với các công ty Fintech cho chiến lược
phát triển kinh doanh thời kỳ mới.
Năm là, các ngành chức năng cần có các biện pháp cụ thể phát triển hệ sinh
thái cho hoạt động thanh toán di động (Mobile payment), phát triển thanh toán điện
tử trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Cần thiết phải phối hợp và kết nối tất cả
các Bộ, Ngành, đơn vị liên quan để giải quyết những khó khăn vướng mắc trong
thanh toán điện tử, thanh toán di động nhằm phát triển hiệu quả thanh toán không
dùng tiền mặt tại Việt Nam. Cần lựa chọn, áp dụng mô hình phát triển hệ sinh thái
Mobile Payment phù hợp với thực tế Việt Nam nhằm góp phần thúc đẩy phát triển



thanh toán không dùng tiền mặt và Tài chính Toàn diện tại Việt Nam theo định
hướng của Chính phủ.
6. Kết luận
Các ngân hàng tại Trung Quốc và sự phát triển Fintech tại Trung Quốc, đạt
được những kết quả rất quan trọng, đặc biệt là về thanh toán trên các thiết bị di
động, sự phát triển mạnh mẽ hoạt động cho vay trực tuyến và hoạt động đầu tư ở
Trung Quốc. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, cần tích cực nghiêm
cứu tõ những kinh nghiệm có liên quan của Trung Quốc và rút ra một số bài học có
thể tham khảo cho các NHTM Việt Nam hiện nay, đó là việc làm hết sức cần thiết
trong bối cảnh hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch và dịch vụ quốc tế giữa Việt
Nam và Trung Quốc sẽ phát triển mạnh, đa dạng, phức tạp tỏng thời gian tới trước
bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung tiếp tục căng thẳng.
Nguồn tài liệu tham khảo:
Thu Hương (2017): “Fintech là gì mà lại được coi là cuộc cách mạng đe dọa
hệ thống ngân hàng toàn cầu?”. Truy cập tại : Ngày truy cập 15/11/2017
Minh Khoa (2017) “Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là gì?”. Truy cập tại:
Truy
cập ngày 24/3/2018.
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2017): “Fintech - cơ hội và thách thức với Ngân
hàng Việt Nam” Truy cập tại: />option=com_k2&view=item&id=3059:fintech-co-hoi-va-thach-thuc-voingan-hang-viet-nam&Itemid=235&lang=vi. Ngày truy cập 15/11/2017
Phạm Xuân Hòe và Nguyễn Thị Minh Ngọc (2017): “Start-up của FINTECH,
cơ hội hợp tác và thách thức cạnh tranh đối với ngân hàng”. Truy cập tại:
/>onid=hAlg9KClf_NsB1zZ_Yw7LPQI-As1aoVC3OHADzvxMJF-L1wR2dY1!
370011199!1484355409?
dDocName=SBV308189&p=3&_afrLoop=6459114606314000#%40%3F_afrLoop
%3D6459114606314000%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName
%3DSBV308189%26leftWidth%3D20%2525%26p%3D3%26rightWidth
%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrlstate%3D14dryu66m6_4. Ngày truy cập 15/11/2017



Tạp chí Tài chính (2017): “Fintech là đối thủ hay cơ hội của nhà băng?”.
Truy cập tại: Truy cập ngày 14/11/2017
Văn Quốc ( 2017) : “Nhờ đâu mà Trung Quốc đi trước cả thế giới về
fintech?”. Truy cập tại: Nguồn The Economist:
Truy cập ngày 6/11/2017
Lạc Nhạn (2017): “Alipay của Jack Ma ký thỏa thuận hợp tác với NAPAS”.
Truy cập tại: Truy cập ngày 15/11/2017
Anh Mình (2017): “Khách Trung Quốc tới Việt Nam tăng kỷ lục”. Truy cập tại:
Truy cập ngày 15/11/2017



×