Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Chiến tranh thương mại Mỹ Trung: tác động và phản ứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.15 KB, 13 trang )

Chiến tranh thương mại Mỹ Trung: tác động và phản ứng

1 I. Bản chất của cuộc chiến thương mại Mỹ -Trung
Cuộc chiến thương mại Mỹ Trung biểu hiện bên ngoài là nhằm để cân
bằng cán cân thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc và ép Trung Quốc thay đổi
chính sách cho phép các nhà đầu tư Mỹ tiếp cận thị trường Trung Quốc mà
không phải đánh đổi sức mạnh của Mỹ đó là các bí quyết công nghệ. Tuy nhiên,
xét về bản chất thì cuộc chiến thương mại này do Mỹ phát động dường như là
nằm trong chiến lược tổng thể nhằm kiềm chế Trung Quốc, để duy trì vị thế siêu
cường duy nhất trên thế giới của Mỹ chứ không chỉ là vấn đề thương mại và đầu
tư đơn thuần.
1.1 Chiến lược kiềm chế Trung Quốc

Thực tế là Chiến lược kiềm chế Trung Quốc đã được Mỹ thực hiện từ các
đời Tổng thống trước. Đáng chú ý đó là thời kỳ Tổng thống Obama đã đưa ra 3
mũi chiến lược để bao vây Trung Quốc đó là: (i) Đàm phán hiệp định thương
mại TPP với các nước vành đai Châu Á – Thái Bình Dương mà không có Trung
Quốc, để từng bước chuyển dịch dòng thương mại và đầu tư ra khỏi Trung
Quốc; (ii) Đàm phán Hiệp định đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây
dương giữa Mỹ và EU để tăng cường dòng đầu tư và thương mại giữa hai đối
tác nắm giữ công nghệ và vốn lớn nhất thế giới này; (iii) Thực hiện chiến lược
xoay trục quân sự về Châu Á TBD, kiểm soát chặt cửa ngõ ra biển của Trung
Quốc.
Hình 1: Chiến lược Vành đai – Con đường của Trung Quốc

Nguồn: S. Eckardt (2018)


1.2 Đối sách của Trung Quốc

Để đối phó với Chiến lược kiềm chế của chính quyền Obama, Trung Quốc


một mặt vẫn tiếp tục khai thác các định chế thương mại và đầu tư hiện hành để
phát huy sức mạnh thương mại của mình để thúc đẩy phát triển kinh tế. Mặt
khác, Trung Quốc từng bước xây dựng các định chế tài chính, kinh tế và các cấu
trúc thương mại mới để từng bước tạo làm xói mòn sức mạnh và tầm ảnh hưởng
của phương Tây trong lĩnh vực thương mại, tài chính, đầu tư và tiền tệ. Chiến
lược Một Vành Đai Một Con đường là chiến lược tổng thể để liên kết các nước
lục địa với nhau và các nước Đông Nam Á, Nam Á, Trung Đông và Châu phi
xung quanh vai trò trung tâm của Trung Quốc đồng thời phá vỡ thế bao vây trên
biển của chiến lược xoay trục của Mỹ. Đồng thời để phá vỡ vai trò chi phối của
Mỹ và đồng minh trong các định chế quốc tế quan trọng như IMF, WB, ADB,
Ngân hàng Tái thiết và phát triển, v.v…Trung Quốc một mặt vẫn tiếp tục tham
gia các thể chế đa phương này để gia tăng ảnh hưởng, đồng thời xây dựng các
định chế đa phương mới, do Trung Quốc dẫn dắt hoặc chi phối để cạnh tranh
ảnh hưởng với các định chế do Mỹ và đồng minh thành lập từ sau thế chiến thứ
2 đến nay. Trung Quốc thể hiện rõ tham vọng thay đổi luật chơi mới và hình
thành sân chơi mới để phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Trung Quốc thành lập
Ngân hàng phát triển Hạ tầng AIIB và Ngân hàng phát triển mới với các nước
BRICS nhằm cạnh tranh trực tiếp với WB và ADB; thành lập quỹ tiền tệ Trung
Quốc ASEAN ACF, Hiệp định hợp tác Lan Thương-Mekong, đóng vai tròn dẫn
dắt trong đàm phán hiệp định hợp tác và đối tác khu vực RCEP để từng bước
nắm vai trò dẫn dắt tại khu vực châu Á. Cùng với việc tạo dựng các định chế đa
phương mới, Trung Quốc đã gia tăng mạnh mẽ chưa từng có công cụ cho vay,
hỗ trợ ra nước ngoài để gia tăng ảnh hưởng và tập hợp lực lượng. Trong giai
đoạn 2007- 2014 hai ngân hàng: Ngân hàng Phát triển Trung Quốc CDB và
Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Trung Quốc CHEXIM đã cung cấp tín dụng phát
triển cho các đối tác nước ngoài lên đến 118 tỷ USD, trong cùng thời gian đó
Ngân hàng Thế giới WB, Ngân hàng phát triển Châu Á ADB, Ngân hàng Phát
triển liên Mỹ IADB, và ngân hàng Phát triển châu Phi tất cả cũng chỉ cung cấp
được 119 tỷ USD tín dụng cho các quốc gia 1. Trung Quốc đã phát triển rất mạnh
hệ thống thanh toán qua các thiết bị di động và dần dần thay thế hệ thống thanh

toán do Mỹ và Phương Tây kiểm soát như hiên nay qua mạng SWIFT, Visa,
Master, American Express, v.v…
Khi Tổng thống D. Trump lên nắm quyền, Mỹ đã có những đánh giá lại
chiến lược kiềm chế Trung Quốc của chính quyền tiền nhiệm. Họ cho rằng cách
tiếp cận của chính quyền tiền nhiệm dựa trên các định chế thương mại và tài
chính cũ trong việc kiềm chế Trung Quốc là không hiệu quả. Thực tế là sức
mạnh thương mại của Trung Quốc vượt xa Mỹ. Hiện nay Trung Quốc là đối tác
thương mại lớn nhất của 124 quốc gia và lãnh thổ trên toàn thế giới trong khi
Mỹ chỉ là đối tác thương mại lớn nhất của 56 quốc gia và lãnh thổ. Trong thương
mại quốc tế, Trung Quốc luôn đạt thặng dư thương mại trong khi đó Mỹ luôn
thâm hụt. Điểm yếu của Trung Quốc là công nghệ. Tuy nhiên nhờ tăng trưởng
kinh tế vượt bậc hơn 3 thập kỷ qua đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt công nghệ của
Trung Quốc. Trung Quốc đã mua các hãng công nghệ hàng đầu của phương Tây
để có thể nhanh chóng nắm bắt được công nghệ và cách thức phát triển công
nghê. Năm 2004 TCL của Trung Quốc đã mua mảng TV và điện thoại di động
của hãng Thompson (Pháp) để nắm công nghệ sản xuất các thiết bị điện tử; cùng
1 Phạm Sỹ Thành (2018).


năm này SAIC công ty ô tô Thượng Hải đã nắm cổ phần chi phối hãng ô tô của
Hàn Quốc Ssangyong để chuyển các công nghệ ô tô do Hàn Quốc phát triển về
Trung Quốc2; tương tự năm 2004 Lenovo của Trung Quốc mua luôn mảng sản
xuất máy tính xách tay và thương hiệu Thinkpad của IBM và 9 năm sau Trung
Quốc lại mua tiếp mảng máy chủ phổ thông từ IBM điều này giúp cho Trung
Quốc nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần trong lĩnh vực phần cứng toàn cầu; Năm
2005 sau khi mua Thompson, Trung Quốc lại mua thêm 45% công ty Alcatel của
Pháp và năm 2014 mua lại Motorola Mobility của Mỹ để tiếp tục củng cố nền
tảng công nghệ cho thiết bị di động. Năm 2010 hãng xe Thuỵ Điển cũng chung
số phận khi công ty ô tô Trung Quốc Geely đã mua lại hãng này từ tay Ford,…
Số liệu tổng thể (Hình 2) cũng cho thấy, Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư ra nước

ngoài nhưng hầu như là tập trung vào các nước phát triển và có công nghệ
nguồn; hình thức đầu tư ưa thích nhất của Trung Quốc là mua bán sáp nhập
M&A để vừa nắm được công nghệ vừa tiếp tục phát triển công nghệ tại môi
trường hiện tại. Trong năm 2017, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc
vào Bắc Mỹ chiếm 16% (27,2 tỷ USD); vào Châu Âu chiếm 53,4% (90,6 tỷ
USD); vào Úc và New Zealand chiếm 3,5% (5,9 tỷ USD),…
Hình 2: Đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc

Nguồn: Phạm Sỹ Thành (2018)
Như vậy có thể thấy Trung Quốc đã phát huy rất tốt điểm mạnh về thương
mại và quy mô thị trường của mình để phát triển kinh tế, thông qua đó đã tạo
nguồn lực quan trọng để đầu tư vào phát triển khoa học, công nghệ để nhanh
chóng khắc phục điểm yếu của Trung Quốc. Cho đến năm 2017 Trung Quốc đã
là một người khổng lồ về công nghệ xét trên quy mô đầu tư (Hình 3).
Hình 3: Quy mô đầu tư cho R&D ở Trung Quốc

2 Mặc dù các hợp đồng mua bán này thất bại về mặt thương mại nhưng đã thành công về mặt công nghệ.


Nguồn: OECD 2017: Khảo sát kinh tế Trung Quốc. Kích thước vòng tròn biểu thị tổng số
chi tiêu cho R&D. Trục hoành là phần trăm R&D theo GDP, Trục tung là số nghiên cứu viên
trên một ngàn dân.

2 Thay đổi chiến lược thời tổng thống D. Trump
Cách tiếp cận của Tổng thống Mỹ D. Trump đã có sự thay đổi lớn. Dường
như chính quyền Mỹ thời ông D. Trump đã nhận ra rằng các cấu trúc thương
mại, đầu tư, và tài chính được Mỹ và Phương tây xây dựng và phát triển từ sau
thế chiến thứ hai đến nay đã không đủ để giúp Mỹ kiềm chế Trung Quốc. Mỹ đã
thay đổi cách tiếp cận theo hướng trực tiếp đánh vào sức mạnh của Trung Quốc
là thương mại và khoét sâu và điểm yếu của Trung Quốc là hạn chế khả năng cải

thiện năng lực công nghệ của Trung Quốc. Để làm được điều này, nước Mỹ cần
có lực lượng đồng minh mạnh. Chiến lược của Mỹ sẽ thất bại nếu Mỹ không hạn
chế được khả năng tiếp cận thị trường và công nghệ tại các nước EU, Nhật, và
các cường quốc công nghệ khác. Điều này đòi hỏi Mỹ buộc phải đàm phán lại
với các đồng minh của mình. Tuy nhiên chính các cam kết đa phương hiện nay
đã giảm khả năng đàm phán của Mỹ với các đồng minh trong việc phối hợp
kiềm chế Trung Quốc do lợi ích của các nước trong quan hệ với Trung Quốc là
khác nhau.
Để khắc phục điều này D. Trump đã từng bước rút ra khỏi các cam kết đa
phương, đàm phán lại các thoả thuận với các đồng minh, siết chặt các quy định
về M&A trong lĩnh vực công nghệ3,…
Mỹ từng bước làm suy yếu các định chế thương mại đa phương, trước tiên
rút ra khỏi cam kết TPP, đàm phán lại hiệp ước NAFTA, đe dọa rút khỏi WTO…
Kể từ đầu năm 2018, Mỹ đã phớt lờ các quy định của WTO mà Mỹ là một thành
viên áp thuế khoảng 7% trị giá hàng nhập khẩu vào Mỹ từ các đối tác thương
mại, bao gồm pin năng lượng mặt trời và máy giặt (9,7 tỷ USD), thép và nhôm
(46 tỷ USD), đưa ra danh sách trừng phạt hơn 800 mặt hàng nhập khẩu từ Trung
Quốc (50 tỷ USD). Nếu tính cả đe dọa áp thuế trả đũa của các đối tác thương
mại, quy mô tranh chấp thương mại có thể lên khoảng 800 tỷ USD, trong đó
3 Các doanh nghiệp có vốn sở hữu của Trung Quốc hơn 25% sẽ không được mua các doanh nghiệp công nghệ
của Mỹ.


khoảng 500 tỷ USD hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và 275 tỷ USD nhập khẩu ô
tô và phụ tùng từ EU.
Mỹ đang hoặc đe dọa triển khai các nhóm biện pháp sau:
- Áp dụng biện pháp tự vệ toàn cầu dưới hình thức hạn ngạch thuế quan
đối với pin năng lượng mặt trời và máy giặt bắt đầu từ ngày 22/1/2018 (phần lớn
nhằm vào hàng hóa từ Trung Quốc).4
- Áp thuế nhập khẩu 25% đối với thép và 10% với nhôm nhập khẩu từ

EU, Canada và Mexico (từ ngày 1/6/2018), đồng thời áp hạn ngạch đối với các
nước khác như Hàn Quốc, Argentina, Úc, Braxin.
- Nhóm biện pháp “đánh” trực tiếp vào Trung Quốc: (i) Ngày 6/7/2018, Mỹ
chính thức áp thuế 25% đối với 34 tỷ USD hàng hóa của Trung Quốc tập trung vào
các sản phẩm thuộc Chương trình “Made in China 2025” 5. Ngày 23/8/2018: Mỹ
tiếp tục áp dụng thuế nhập khẩu 25% đối với 16 tỷ USD hàng hóa từ Trung Quốc.
(ii) Ngày 24/9/2018: Mỹ tiếp tục áp thuế nhập khẩu 10% đối với 200 tỷ USD hàng
hóa Trung Quốc. Sau đó, từ ngày 1/1/2019, mức thuế 10% này sẽ tăng lên thành
25%. (iii) Tổng thống Mỹ tiếp tục dọa áp thuế 267 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc
nhập khẩu nếu Trung Quốc đáp trả đợt thuế 200 tỷ USD hàng hóa của Mỹ.
Cùng với việc áp thuế, Mỹ đã ban hành lệnh cấm các doanh nghiệp có
vốn sở hữu của Trung Quốc lên tới 25% mua, bán, sáp nhập các công ty công
nghệ của Mỹ. Bên cạnh đó, Chính quyền Trump đang xây dựng dự luật “Thuế
quan công bằng và có đi có lại”, trong đó dự kiến trao quyền cho Tổng thống
Mỹ đơn phương tăng thuế không cần sự cho phép của Quốc hội. Nếu dự luật này
được thông qua sẽ có những quy định vi phạm 02 nguyên tắc cơ bản của WTO
là đối xử tối huệ quốc và ràng buộc thuế quan.
2.1 Phản ứng của các nước
2.1.1 Trung Quốc

- Đợt áp thuế nhập khẩu tháng 7 và 8 của Mỹ (50 tỷ USD) đã được Trung
Quốc đáp trả tương đương.
- Sau khi Mỹ áp thuế 10% lên 200 tỷ USD hàng nhập khẩu Trung Quốc,
Trung Quốc cũng đáp trả bằng việc áp thuế lên 60 tỷ USD hàng hóa Mỹ (thuế suất 510% với hơn 5.000 mặt hàng Mỹ có hiệu lực từ ngày 24/9/2018).
- Bên cạnh đó, để giảm thiểu tác động, Trung Quốc đã triển khai một số
biện pháp như giảm 0,5% mức dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng, bơm thêm
lượng tiền trị giá 700 tỷ Nhân dân tệ vào nền kinh tế (tương đương 106 tỷ USD).
2.1.2 Liên minh châu Âu (EU)

Ngày 22/6/2018, EU bắt đầu áp thuế với các sản phẩm từ Mỹ trị giá 2,8 tỷ

euro (tương đương khoảng 3,3 tỷ USD). 6 Đây là động thái đáp trả việc Mỹ áp
thuế 25% với thép và 10% với nhôm nhập khẩu từ EU, Canada và Mexico.
4 Trung Quốc chỉ chiếm 8% thị phần xuất khẩu pin mặt trời vào Mỹ nhưng Trung Quốc đã chuyển hoạt động sản
xuất sang các nước khác. Hiện 80% pin năng lượng mặt trời ở Mỹ là hàng nhập khẩu từ Châu Á trong đó
Malaysia 36%; Hàn Quốc 21%; Thái Lan 9%; Việt Nam 9%.
5 Chương trình này bao gồm 37 nhóm hàng như: Lốp máy bay, lò ph ản ứng hạt nhân, ca nô, đ ộng c ơ máy
bay, thiết bị công nghiệp, máy móc thiết bị xây dựng, ph ụ tùng và thi ết bị khoan d ầu khí, các lo ại máy
nông nghiệp, máy chế biến thực phẩm, thiết bị điện tử, chíp và vi mạch…


EU cũng đe dọa áp thuế hàng hóa của Mỹ với trị giá 294 tỷ USD nếu Mỹ
quyết định áp thuế 20% đối với ô tô từ châu Âu. Phản ứng của EU đến nay chỉ
giới hạn vào những biện pháp tác động trực tiếp đến EU, không có bất kỳ phản
ứng nào đối với các biện pháp Mỹ áp đặt lên Trung Quốc, bởi EU vẫn cần giữ
quan hệ đồng minh với Mỹ.
2.1.3 Nhật Bản

Nhật Bản tỏ lo ngại trước các chính sách bảo hộ của Mỹ song tránh chỉ
trích công khai và đến nay chưa thực hiện bất kỳ biện pháp trả đủa nào đối với
Mỹ. Đối với việc Mỹ áp thuế thép, Nhật Bản vẫn đang nỗ lực thuyết phục chính
quyền Mỹ. Tuy nhiên, nếu Mỹ áp thuế cao đối với ô tô là mặt hàng chủ lực của
Nhật Bản sang Mỹ, Nhật Bản sẽ “buộc phải có biện pháp can thiệp”. Để giảm
thiểu tác động của xung đột thương mại, tháng 7/2018, Nhật Bản đã ký FTA với
EU để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.1.4 Một số nước khác

- Ngày 1/7/2018, Canada đã áp thuế lên hàng xuất khẩu của Mỹ trị giá
12,6 tỷ USD gồm 40 sản phẩm nhôm và thép với mức áp thuế nặng nhất 25%; các
mặt hàng khác như sốt cà chua, bánh pizza đến nước rửa bát - bị áp thuế 10%).
- Mexico áp thuế 15-25% lên một số mặt hàng Mỹ trị giá khoảng 3 tỷ

USD, bao gồm thịt lợn, khoai tây, táo, rượu, phô mai...
- Từ 21/6/2018, Thổ Nhĩ Kỳ đánh thuế với tổng giá trị tới 1,8 tỷ USD hàng
hóa nhập từ Mỹ nhằm trả đũa việc Mỹ áp thuế mới với nhôm và thép nhập khẩu7.
3 Tác động căng thẳng thương mại đến kinh tế th ế gi ới, khu v ực
Đông Nam Á và Việt Nam
Việc đánh giá tác động của xung đột thương mại giữa Mỹ và các đối tác
lớn, nhất là với Trung Quốc còn phụ thuộc vào mức độ, quy mô và thời gian diễn
ra. Nếu đây thực sự là một cuộc cạnh tranh chiến lược, thì căng thẳng thương mại
giữa hai nước sẽ không dừng lại mà sẽ tiếp tục leo thang. Để thực hiện được mục
tiêu kiềm chế Trung Quốc trong dài hạn, loại bỏ nguy cơ đe doạ vị thế của Mỹ
trên thế giới thì các biện pháp của Mỹ chỉ có thể dừng lại khi các nguy cơ đó hoàn
toàn bị loại bỏ. Điều này chỉ có thể đạt được khi kéo tăng trưởng tiềm năng của
Trung Quốc về ngang tốc độ tăng trưởng của các nước OECD. Điều kiện cần để
đạt được mục tiêu này đó là loại bỏ Trung Quốc ra khỏi trung tâm của các chuỗi
giá trị sản xuất toàn cầu và qua đó hạn chế tối đa vai trò của Trung Quốc trong
thương mại quốc tế. Điều kiện đủ đó là hạn chế năng lực sản xuất của Trung Quốc
qua đó hạn chế sức mạnh thị trường nội địa rộng lớn của Trung Quốc. Các ước
lượng đánh giá gần đây đều cho rằng Mỹ sẽ tiếp tục leo thang cuộc chiến thương
mại. Đặc biệt kết quả cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vừa qua đã đưa ra một thông
điệp khá đồng thuận của cử tri Mỹ đối với chính sách của chính quyền Trump đối
với Trung Quốc.

6 Gồm có rượu bourbon, quần jean, xe máy, việt quất, nước ép việt quất, nước ép cam, ngô ngọt, bơ lạc, đồ trang
điểm và sản phẩm thép.
7 Cụ thể: Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đánh thuế 266,5 triệu USD đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ, gồm than, giấy,
thuốc lá, gạo, ô tô, mỹ phẩm, thiết bị máy móc, sản phẩm hóa dầu… Mức thuế mới này sẽ ảnh hưởng đến 19%
trong tổng số 9,4 tỷ USD hàng hóa của Mỹ xuất sang Thổ Nhĩ Kỳ (theo số liệu của Đại diện Thương mại Mỹ).


3.1 Một số đánh giá ban đầu về tác động của chiến tranh thương mại

3.1.1 Về tăng trưởng kinh tế:

Căng thẳng thương mại giữa Mỹ và các đối tác lớn, nhất là với Trung Quốc
đang đe dọa tới triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Kinh tế Mỹ, châu Âu và
Trung Quốc suy giảm sẽ là thách thức đối với các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là
các quốc gia phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Tác động tiêu cực sẽ càng lớn nếu
những nước này đồng thời cũng phải chịu áp lực từ việc dòng vốn rút ra. Cho đến
nay, các ước tính về mức độ thiệt hại của căng thẳng thương mại chỉ mới tính toán
dựa trên việc áp dụng thuế quan ăn miếng trả miếng lẫn nhau giữa các đối tác
thương mại lớn. Tuy nhiên, nếu cuộc chiến tranh thương mại này leo thang theo
hướng phá vỡ các định chế thương mại quốc tế và thay đổi hoàn toàn cơ cấu
thương mại thế giới thì mức thiệt hại sẽ rất khó lường và chưa có tổ chức nào
đánh giá, ước lượng. Tại kỳ họp Đại hội đồng Liên Hợp quốc lần thứ 73, Tổng
thống Trump đã tuyên bố chống lại toàn cầu hóa và đi theo chủ nghĩa đơn
phương. Những ước lượng dưới đây dựa trên kịch bản thuế quan giữa các nước:
- Theo IMF (T7/2018): kịch bản xấu nhất khi xảy ra “chiến tranh thương
mại toàn diện”, GDP toàn cầu có thể giảm khoảng 0,5 điểm phần trăm vào năm
2020, tương đương giảm khoảng 430 tỷ USD.
- Theo BIS (T6/2018), đà tăng trưởng đỉnh cao của năm 2017 của kinh tế
thế giới có thể bị đứt đoạn khi chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng và “châm
ngòi” cho cuộc suy thoái kinh tế mới.
- Đối với Mỹ và Trung Quốc:
(i) Theo ước tính của JP Morgan (T9/2018), nếu Mỹ áp dụng 25% thuế
lên tất cả các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc thì có thể làm Trung Quốc bị
thiệt hại khoảng 1,3 điểm phần trăm GDP và mất đi 5,5 triệu việc làm. Trong
trường hợp đó, nếu Trung Quốc lựa chọn phương án phá giá thêm 12% đồng
CNY trong năm 2019 so với năm 2018 thì sẽ giảm thiểu được thiệt hại về GDP
và hạn chế thiệt hại về việc làm xuống còn 900.000. Điều này có nguy cơ tạo ra
một cuộc chiến tranh tiền tệ trên quy mô lớn.
(ii) Theo Phó chủ tịch chiến lược tín dụng của Moody’s, động thái áp thuế

mới nhất của Trump đánh dấu “một bước leo thang mạnh mẽ trong các căng
thẳng thương mại” và có thể khiến GDP của Trung Quốc thiệt hại khoảng 0,30,5 điểm phần trăm vào năm 2019.
(iii) Theo Bloomberg Economics (T9/2018), ước tính tác động của các gói
thuế mà Mỹ áp trên 250 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc sẽ khiến GDP Trung
Quốc giảm khoảng 0,5 điểm phần trăm mỗi năm. Con số này sẽ tăng lên 0,9
điểm phần trăm sau khi mức thuế nhập khẩu được nâng lên 25% với 200 tỷ USD
bắt đầu từ ngày 1/1/2019;
(iv) Theo HSBC (T7/2018), việc Mỹ áp thuế 200 tỷ USD hàng nhập khẩu
của Trung Quốc, GDP của Mỹ có thể giảm 0,2%; trong trường hợp chiến tranh
thương mại toàn diện kéo dài hơn 1 năm, có thể khiến kinh tế Mỹ suy thoái. Đối
với Trung Quốc, xuất khẩu có thể giảm 1,5 điểm phần trăm (tính theo năm),
GDP giảm 0,28 điểm phần trăm8.

8 Theo đánh giá của HSBC ngày 11/7/2018


- Các nền kinh tế tại Đông Nam Á có độ mở thương mại cao và tham gia
nhiều vào chuỗi cung ứng nên dễ gặp rủi ro khi căng thẳng thương mại leo
thang: (i) Nhiều hàng hóa của các nước này tham gia vào chuỗi cung ứng, giúp
Trung Quốc tạo ra hàng xuất khẩu nên hoạt động kinh tế sẽ bị ảnh hưởng. Theo
Ngân hàng RHB (Malaysia), trong số các nước ASEAN, Philippines có thể chịu
ảnh hưởng nhiều nhất vì 16,9% giá trị hàng hóa xuất khẩu của Philippines là một
phần của chuỗi giá trị Trung Quốc. Trong khi đó, con số này ở Malaysia,
Indonesia và Thái Lan lần lượt là 11,4% và gần 11%. Theo đánh giá của OCBC,
Mỹ áp thuế 250 tỷ USD lên hàng hóa Trung Quốc khiến GDP của Trung Quốc
và các nền kinh tế châu Á năm 2018 giảm từ 0,1 - 0,5 điểm phần trăm. 9 (ii)
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất đối với nhiều nền kinh tế Đông Nam
Á và cũng là nguồn đầu tư quan trọng trong khu vực.
Tuy vậy, về ngắn hạn, xu hướng chuyển dịch các cơ sở sản xuất sang
Đông Nam Á từ Trung Quốc và Mỹ có thể thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển

bởi lợi thế về nguồn nhân lực và chi phí nhân công rẻ: Theo thống kê của Văn
phòng thương mại Mỹ, khoảng 1/3 của hơn 430 doanh nghiệp Mỹ tại Trung
Quốc đã hoặc đang cân nhắc chuyển các khu sản xuất ra nước ngoài khi căng
thẳng của cuộc chiến tranh thương mại đang leo thang trong đó Đông Nam Á
đang là lựa chọn hàng đầu.
Hình 4: Xu hướng lựa chọn địa điểm đầu tư khi dịch chuyển khỏi TQ

3.1.2 Về thương mại-đầu tư

- Cùng với cảnh báo về nguy cơ chiến tranh thương mại, IMF đã điều
chỉnh tăng trưởng thương mại toàn cầu giảm từ mức 5,1% xuống 4,8% cho năm
2018 và từ 4,7% xuống 4,5% cho năm 2019.
- Theo WB, xung đột thương mại nếu tiếp tục leo thang có thể tác động
nghiêm trọng đến thương mại toàn cầu tương đương tác động của của khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Theo ước tính, việc tăng cường sử dụng
thuế quan trên phạm vi toàn cầu có thể làm giảm 9% thương mại thế giới.
- Xung đột thương mại dù ở quy mô nào cũng đều làm cho môi trường
kinh tế toàn cầu trở nên bất trắc, gia tăng tâm lý bất an, thúc đẩy các tập đoàn
toàn cầu phải tính toán lại các chiến lược đầu tư, sản xuất kinh doanh. Trước
mắt, chuỗi sản xuất của các nhóm hàng bị áp thuế có thể sẽ có những điều chỉnh
để tránh và giảm thiểu các tác động của việc tăng thuế. Do đó, sẽ thúc đẩy mạnh
hơn xu hướng dịch chuyển sản xuất một số hàng hóa ra khỏi Trung Quốc quay
9 Singapore giảm 0,3 đpt, Trung Quốc giảm 0,5 đpt, Malaysia giảm 0,3 đpt; Indonesia giảm 0,1 đpt...


trở lại Mỹ hoặc sang các nước khác. Sự dịch chuyển các chuỗi sản xuất sẽ kéo
theo sự dịch chuyển các dòng đầu tư thương mại quốc tế. Các dòng hàng hóa
Trung Quốc qua nước thứ 3 vào Mỹ để tránh thuế có thể sẽ tăng lên. Trong trung
và dài hạn, sản xuất cùng với dòng vốn có thể chảy nhiều hơn về Mỹ cũng như
xu hướng Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư ra bên ngoài sẽ tăng lên.

- Đối với hệ thống thương mại quốc tế, xung đột thương mại giữa Mỹ và
một số nền kinh tế lớn có tác động nhiều chiều: (i) Tạo thêm động lực để các
nước, nhất là các nước vừa và nhỏ, tăng cường liên kết kinh tế, đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ nhằm giảm phụ thuộc vào Mỹ và Trung Quốc. (ii) Việc đơn
phương áp thuế lên hàng hóa của các đối tác không tuân theo quy trình, thủ tục
WTO có thể tạo ra tiền lệ cho các nước vi phạm quy định WTO, từ đó phá vỡ
các quy tắc và trật tự thương mại quốc tế.
3.1.3 Về thị trường tài chính-tiền tệ

Căng thẳng thương mại gây tâm lý bất an, tác động đến niềm tin của nhà
đầu tư, tạo ra những xáo trộn nhất định lên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế.
9T2018, cùng với xu hướng tăng lãi suất của Fed, dòng vốn rút ra khỏi các thị
trường mới nổi, nhiều đồng tiền mất giá mạnh so với USD đã khiến thị trường
trở nên phức tạp và diễn biến khó lường. 9 tháng đầu năm 2018, đồng nội tệ
nhiều nước mất giá mạnh, đặc biệt là tại các nước có tình trạng mất cân đối vĩ
mô nghiêm trọng như thâm hụt thương mại lớn, nợ nước ngoài cao, lạm phát tăng
mạnh và phụ thuộc vào dòng vốn bên ngoài đỉnh điểm là Argentina và Thổ Nhĩ
Kỳ. 9T2018 đồng USD tăng giá khoảng 5,1%10, một số đồng tiền mới nổi giảm
giá mạnh so với USD như peso Argentina (giảm 53,7% so với cuối năm 2017),
lira Thổ Nhĩ Kỳ (-40,1%), rupee Ấn Độ (-12,2%); rupiah Indonesia (-8,8%),
peso Philippines (-7,5%), Nhân dân tệ (-5,1%) buộc NHTW các nước này phải
liên tục tăng lãi suất và can thiệp bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối11.
3.2 Tác động đến Việt Nam:

Tác động của căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc tới kinh tế Việt
Nam chưa thể đánh giá một cách rõ ràng do các yếu tố đều có thể tác động hai
chiều, cụ thể:
3.2.1 Cơ hội

- Về xuất khẩu: Việc các mặt hàng do Trung Quốc sản xuất bị đánh thuế

cao sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng
tương tự sang Mỹ. Tác động tích cực trước mắt là không lớn bởi các hàng hóa
của Trung Quốc bị đánh thuế cao trong đợt đầu tập trung vào nhóm hàng máy
móc, hóa phẩm, linh kiện máy bay, lốp cao su và thiết bị y tế không phải là sản
phẩm chủ lực, cạnh tranh của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Đồng thời Trung
Quốc cũng đã phá giá đồng CNY gần đủ để bù đắp thiệt hại do thuế tăng 10%
(gói 200 tỷ USD). Tuy nhiên kể từ ngày 01/01/2019 khi Mỹ nâng thuế lên 25%
và Trung Quốc không thể phá giá tương ứng thì lợi thế của xuất khẩu Việt Nam
10 Chỉ số ngày 19/9/2018 so với đầu quý II/2018.
11 Trong 9 tháng đầu năm 2018, Argentina tăng lãi suất 04 lần từ 27,25% lên 60%/năm; Indonesia cũng 04 lần
tăng lãi suất từ 4,25% mức 5,5%; Philippines tăng 3 lần từ 3% lên 4%; Ấn Độ tăng lãi suất từ 6,25% lên 6,5%;
Thổ Nhĩ Kỳ tăng lãi suất 02 lần từ 8% lên 17,75%. Các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Philippines thực hiện can
thiệp trên thị trường ngoại tệ, giảm dự trữ ngoại hối. Riêng Trung Quốc hạ dự trữ bắt buộc để hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế trong điều kiện căng thẳng thương mại với Mỹ tăng cao.


sẽ trở nên rõ rệt hơn. Khi Mỹ đánh thuế trọn gói thêm 267 tỷ USD nữa thì lợi
thế của xuất khẩu Việt Nam là khá lớn. Nghiên cứu của Freund và cộng sự
(2018) cho thấy nếu Mỹ không mở rộng phạm vi đánh thuế thì xuất khẩu của
Việt Nam và thu nhập của Việt Nam đều tăng thêm.
Hình 4: Kịch bản 1: Đánh thuế 25% trên gói 250 tỷ USD (% thay đổi theo kịch
bản cơ sở)

Nguồn: Freund và các cộng sự (2018).
Tuy nhiên nếu Mỹ đánh thuế trên toàn bộ hàng nhập khẩu song phương
với Trung Quốc thì mức độ hưởng lợi của Việt Nam tăng mạnh (Hình 5).

Hình 5: Kịch bản 2: 25% tăng thêm trên toàn bộ hàng nhập khẩu từ Trung
Quốc (% thay đổi so với KB cơ sở)


- Về đầu tư: Như phân tích ở trên, nếu đây là cuộc cạnh tranh chiến lược
giữa Mỹ và Trung Quốc thì Mỹ buộc phải tạo sức ép đủ lớn để dịch chuyển các
chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu ra khỏi Trung Quốc. Đây chính là cơ hội lớn cho
các nước Đông Nam Á, và Nam Á đặc biệt là Việt Nam có những điều kiện khá
tương đồng với Trung Quốc. Xu hướng các dòng vốn bắt đầu dịch chuyển ra
khỏi Trung Quốc là khá rõ. Tuy nhiên nếu cuộc chiến leo thang thì việc kinh tế
Trung Quốc suy giảm, thương mại quốc tế suy giảm sẽ kéo theo đầu tư trên toàn
thế giới suy giảm. Điều này có thể có tác động tiêu cực đến dòng vốn đầu tư
nước ngoài và đầu tư trong nước. Tuy nhiên do Việt Nam không tham gia quá
sâu vào các chuỗi giá trị sản xuất từ Trung Quốc do đó tác động của tăng xuất
khẩu và tăng đầu tư từ việc thay thế chuỗi giá trị toàn cầu từ Trung Quốc được
cho là lớn hơn nhiều tác động giảm cầu đầu tư. Do đó nhìn chung dòng vốn đầu
tư vào Việt Nam được dự kiến vẫn trong xu hướng tăng.
3.2.2 Khó khăn, thách thức.

a. Về thương mại
- Hàng hóa bị đánh thuế của Mỹ và Trung Quốc có thể sẽ tìm cách lẩn
tránh thuế thông qua Việt Nam dưới hình thức: (i) Tạm nhập tái xuất; hoặc (ii)
Xây dựng nhà máy ở Việt Nam nhưng trên thực tế chỉ đóng mác sản xuất tại
Việt Nam để tránh thuế. Trong trường hợp này, sản xuất trong nước và xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam đều bị ảnh hưởng tiêu cực.
- Căng thẳng thương mại không chỉ giữa Mỹ và Trung Quốc mà còn với
các đồng minh của mình, do đó, diễn biến của chính sách này rất khó lường.
Trong khi đó, Việt Nam nằm trong top 5 quốc gia mà Mỹ có thâm hụt thương
mại lớn nhất với hơn 38 tỷ USD năm 2017. Cần tính đến trường hợp Mỹ áp
dụng các biện pháp thuế và hàng rào kỹ thuất đối với các nước có thặng dư
thương mại lớn với Mỹ, bao gồm cả Việt Nam thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị


tác động mạnh, nhất là các mặt hàng dệt may, giày dép, điện thoại, máy vi tính,

thiết bị điện tử, sản phẩm gỗ, nông sản, thủy sản, sản phẩm thép, nhôm12.
- Xu hướng giảm giá đồng CNY khiến gia tăng tình trạng nhập siêu từ
Trung Quốc do giá cả hàng hóa Trung Quốc trở nên rẻ hơn. Trong khi đó, đồng
USD tăng giá so với đồng VND sẽ làm tăng chi phí nhập khẩu nguyên vật liệu
của các doanh nghiệp trong nước, khiến chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa tăng
lên ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu.
b. Về đầu tư nước ngoài
Việt Nam có thể là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài muốn chuyển
dịch hoạt động sản xuất kinh doanh khỏi Trung Quốc để tránh mức thuế cao.
Tuy nhiên, năng lực hấp thụ các dòng đầu tư này của Việt Nam là khá hạn chế
(nguồn nhân lực có kỹ năng, trình độ công nghệ, cơ sở hạ tầng...) trong khi đó
cũng phải cạnh tranh rất lớn với các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Ấn Độ…Ngoài ra, cần hết sức lưu ý làn sóng chuyển dịch
các công nghệ cũ, lạc hậu của các nhà đầu tư Trung Quốc trong bối cảnh Trung
Quốc đang đẩy mạnh đầu tư phát triển công nghệ cao và hạn chế các công nghệ
gây ô nhiễm môi trường.
c. Về thị trường tài chính - tiền tệ
Đồng CNY liên tục giảm mạnh trong bối cảnh căng thẳng thương mại leo
thang cùng với xu hướng tăng giá của đồng USD có thể khiến việc ổn định thị
trường tiền tệ (tỷ giá, lãi suất) tại Việt Nam gặp khó khăn: Đồng CNY giảm giá
kích thích xu hướng hạ giá đồng nội tệ các quốc gia trong khu vực để cạnh tranh
xuất khẩu, trong bối cảnh đồng USD tăng giá, Fed tiếp tục tăng lãi suất sẽ làm
gia tăng sức ép đối với tỷ giá VND. Tuy nhiên việc đồng CNY mất giá cũng có
tác động bất lợi rất lớn đến kinh tế Trung Quốc. Nếu Trung Quốc tiếp tục phá
giá đồng CNY ở biên độ lớn sẽ kích thích dòng tiền đầu tư đổi chiều chạy mạnh
ra khỏi Trung Quốc, và có thể kích hoạt quá trình suy thoái của kinh tế Trung
Quốc. Theo ước tích gần đây của các tổ tài chính quốc tế thì Trung Quốc sẽ
không thể để đồng CNY phá giá quá 7.2 CNY/1USD. Chính vì vậy kịch bản
đồng CNY mất giá quá lớn là ít xảy ra.
Ngoài ra, có thể có tác động gia tăng gánh nặng nợ công/nợ nước ngoài

do xu hướng tăng lãi suất quốc tế. Tuy vậy, tác động này đối với Việt Nam cũng
không lớn do quy mô nợ nước ngoài quốc gia vẫn ở mức thấp (ước khoảng
49%GDP năm 2018), trong đó một phần đáng kể là nợ vay ưu đãi của Chính phủ
nên ít nhạy cảm với biến động của lãi suất quốc tế, nợ thương mại của Chính
phủ và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân vẫn còn ở mức thấp và được quản lý
chặt chẽ (hàng năm Chính phủ đưa ra hạn mức vay nợ trung-dài hạn nước ngoài
đối với khu vực tư nhân) nên tác động tiêu cực này sẽ không lớn.
12 Sản phẩm thép: Nếu bị áp mức thuế 25% như các nước khác (hiện nay phổ biến là 0%) thì ngành thép sẽ bị ảnh ưởng khá
mạnh do lượng thép xuất khẩu vào Mỹ khá lớn (năm 2017) đạt khoảng 400 triệu USD, chiếm tỷ lệ 11,1% tổng lượng thép
xuất khẩu của Việt nam) và ngày càng tăng nhưng tỷ tỷ tọng thép nhập khẩu từ Việt Nam vào Mỹ chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng lượng thép nhập khẩu của Mỹ. Sản phẩm nhôm: Năm 2017, Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ các sản phẩm nhôm với tổng
trị giá khoảng 123 triệu USD và đang trong xu hướng tăng lên. Nếu bị áp mức thuế 10% cùng với thuế nhập khẩu bổ sung do
lần tránh thuế theo kết luận của Bộ Thương mại Mỹ thì sản phẩm nhôm của Việt nam không thể cạnh tranh ở thị trường Mỹ.
Các mặt hàng nông sản, thủy sản: Đây là những mặt hàng quan trọng của Việt Nam, nếu bị áp mức thuế cao cùng với các
rào cản thương mại khác (thuế chống bán phá giá, truy suất nguồn gốc, tiêu chuẩn vệ sinh,…) sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam.


4 Hàm ý chính sách
Các đánh giá tác động trên đây đều chưa tính đến các phản ứng của Chính
phủ Trung Quốc. Do đó để giảm thiểu tác động của xung đột thương mại, Việt
Nam cần theo dõi sát tình hình, chủ động đánh giá, dự báo diễn biến để có phản
ứng chính sách phù hợp. Tăng cường đa dạng hóa quan hệ thương mại, có thể
đẩy nhanh hơn đàm phán một số liên kết kinh tế, hiệp định thương mại tự do
(FTA) song phương và khu vực.
Trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ phải điều chỉnh chính sách mạnh hơn
hướng vào thị trường nội địa. Tuy nhiên, do tỷ lệ tín dụng trên GDP của Trung
Quốc hiện nay đã tăng rất cao. Nếu chỉ tính tín dụng cho khu vực tư nhân thì
năm 2017 là tỷ lệ tín dụng trên GDP của Trung Quốc là 208,7% và đến nay đã
tăng hơn 213%13. Do đó, kịch bản xấu là Trung Quốc tiếp tục thực hiện chính

sách nới lỏng tín dụng để thúc đẩy đầu tư trong nước thay thế dòng vốn nước
ngoài dịch chuyển ra ngoài, thì rủi ro nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Trung
Quốc sẽ tăng mạnh. Trong trường hợp đó, chi phí để giải cứu hệ thống ngân
hàng Trung Quốc sẽ rất cao, và Trung Quốc sẽ rơi vào suy thoái. Trong trường
hợp đó nguy cơ đồng CNY bị mất giá rất lớn có thể xảy ra. Sự đổ vỡ của hệ
thống ngân hàng và kinh tế Trung Quốc có thể tạo hiệu ứng dây chuyên đối với
các nước trên thế giới, đặc biệt là với những nước có quan hệ thương mại và đầu
tư lớn với Trung Quốc. Nếu kịch bản xấu này xảy ra, chúng ta cần phải xem xét
tổng thể phản ứng của các nước khác để có đối sách phù hợp. Để chuẩn bị cho
kịch bản xấu này thì ngay từ bây giờ chính sách tiền tệ cần phải thận trọng, tạo
dư chính sách đủ lớn để kịp phản ứng.
Kịch bản trung bình là dòng tiền nước ngoài vẫn tiếp tục chạy ra khỏi
Quốc và Trung Quốc sẽ chấp nhận tăng trưởng kinh tế thấp hơn để từng bước
điều chỉnh chính sách, không tăng tín dụng quá nhanh để có dư địa kiểm soát nợ
xấu. Chính phủ Trung Quốc phải hỗ trợ mạnh mẽ để giúp các Ngân hàng và
doanh nghiệp hạn chế gia tăng nợ xấu. Điều này buộc Chính phủ Trung Quốc
phải kéo các quỹ đầu tư từ nước ngoài về. Các dự án do Trung Quốc đầu tư có
thể sẽ bị dừng, hoặc chậm tiến độ. Trong trường hợp này dòng tiền nước ngoài
vào Việt Nam có thể tăng mạnh do dịch chuyển chuỗi giá trị toàn cầu ra khỏi
Trung Quốc. Chính sách tiền tệ cần chủ động để đón dòng vốn đầu tư này và hỗ
trợ doanh nghiệp nội địa Việt Nam tận dụng được cơ hội. Đặc biệt khi áp lực
lạm phát giảm (nhu cầu thế giới giảm, giá dầu giảm, đồng tiền lên giá,…) việc
điều hành chính sách tiền tệ phải đủ linh hoạt để đảm bảo thanh khoản cho hệ
thống đáp ứng nhu cầu tín dụng gia tăng nhưng cũng không nên tăng quá nhanh
có thể gây ra lạm phát cho chu kỳ sau.
Như vậy có thể thấy, trong năm tới cơ hội và thách thức đều lớn. Trên góc
độ vĩ mô, Việt Nam cần tập trung ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, thực hiện các giải pháp để tăng cường sức chống chọi với các cú sốc bên
ngoài, chính sách chọn lọc, thu hút đầu tư phù hợp, cải thiện môi trường kinh
doanh, tiếp nhận làn sóng đầu tư mới từ sự dịch chuyển sản xuất. Về điều hành

CSTT, trong thời gian tới, cần tiếp tục điều hành chủ động chính sách tiền tệ, tỷ
giá linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường, phối hợp chặt chẽ với chính sách
tài khóa và các chính sách vĩ mô khác; triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý
ngoại hối, ổn định thị trường ngoại tệ; chủ động công tác truyền thông để không
13 Nguồn: BIS 2018


gây tâm lý bất ổn đến thị trường ngoại hối nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần
ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.
+ Về xuất nhập khẩu: Nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu để tranh
thủ cơ hội xuất khẩu vào thị trường khó tính như Mỹ; Đẩy mạnh một số mặt
hàng xuất khẩu mà Việt Nam có thế mạnh vào thị trường Mỹ 14; Tăng cường
kiểm tra, rà soát các cơ chế, chính sách về tạm nhập tái xuất để hạn chế việc
hàng Trung Quốc “đội lốt” hàng Việt Nam vào thị trường Mỹ; Tăng cường xúc
tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng các ưu đãi
trong các FTA, tránh phụ thuộc vào một số ít thị trường xuất khẩu; Tập trung
khai thác thị trường nội địa, hỗ trợ phát triển thị trường trong nước tương đương
với thị trường xuất khẩu, tăng cường công tác kiểm soát xuất xứ và chất lượng
sản phẩm nhằm bảo vệ quyền lợi người sản xuất và người tiêu dùng Việt Nam.
+ Về đầu tư: tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đơn giản hóa
thủ tục kinh doanh; định hướng thu hút FDI vào các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, lĩnh vực công nghệ cao; triển khai quyết liệt các biện pháp thúc đẩy công
nghiệp hỗ trợ, có thể đi kèm với các chính sách bảo hộ mạnh; giám sát chặt chẽ
trong việc lựa chọn các dự án đầu tư để tránh các công nghệ lạc hâu, gây ô
nhiễm môi trường.

14 như linh kiện điện tử, may mặc; đồng thời, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc các mặt hàng thủy
sản, nông sản như gạo, cá da trơn,...




×