Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CHIÊN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ TRUNG: NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ MỘT VÀI KHUYẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.93 KB, 18 trang )

CHIÊN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG:
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ MỘT VÀI KHUYẾN NGHỊ
Tóm tắt
Cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc có thể coi là được bắt đầu từ
ngày 22/3/2018 khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký một bản ghi nhớ theo Mục 301
của Đạo luật Thương mại năm 1974, áp dụng mức thuế đối với 50 tỷ USD giá trị hàng
hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. Đáp trả, ngày 2/4/2018, Bộ Thương mại Trung Quốc đã áp
đặt thuế đối với 128 sản phẩm của Mỹ bao gồm phế liệu nhôm, máy bay, ô tô, thịt lợn và
đậu nành (có thuế suất 25%), cũng như trái cây, hạt và ống thép (15%). Cuộc chiến tranh
thương mại giữa 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới tiếp tục leo thang khi ngày 24/9/2018, Mỹ
áp thuế 10% đối với 200 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu và mức thuế này được
đe dọa sẽ có thể tăng lên 25% vào đầu năm 2019. Phía Mỹ còn cảnh báo rằng họ có thể
tiếp tục áp mức thuế tương tự đối với 267 tỉ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc
trong thời gian tới, v.v... Trung Quốc cũng đáp trả tương ứng và cũng được cho rằng còn
đang chuẩn bị những “đòn nguy hiểm” gây khó khăn nghiêm trọng cho nền kinh tế Mỹ.
Nói cách khác, Trung Quốc và Mỹ thúc đẩy một cuộc chiến tranh thương mại căng thẳng
và cho dù Mỹ rất lạc quan về chiến thắng song hai nền kinh tế lớn nhất toàn cầu đã bắt
đầu có những dấu hiệu phải chịu đựng những tác động tất yếu được ghi nhận.
Điều cần nhấn mạnh là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đã và sẽ có
những ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó nền kinh tế với độ mở
lớn như Việt Nam. Có thể thấy rằng Mỹ và Trung Quốc là hai thị trường xuất – nhập
khẩu lớn và quan trọng nhất, do vậy mọi sự biến động của hai nền kinh tế này chắc chắn
sẽ có những tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế Việt Nam. Bài viết này sẽ phân tích
và đánh giá một số tác động của xung đột thương mại Mỹ - Trung trong thời gian qua đến
nền kinh tế Việt Nam ở cả hai giác độ: tích cực và tiêu cực. Trên cơ sở đó, đề xuất một số
khuyến nghị chính sách và khuyến nghị đối với các doanh nghiệp của Việt Nam để có thể
chủ động ứng phó và giảm thiểu những những tác động tiêu cực của cuộc chiến tranh
thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất Mỹ - Trung trong thời gian tới.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc Mỹ, nền kinh thế
lớn thứ nhất “khơi mào” cho một cuộc chiến tranh thương mại rất quy mô với Trung


Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, làm dấy lên những quan ngại về chủ nghĩa bảo hộ
1


mới trỗi dậy. Mặc dù rất nhiều chuyên gia nhận định rằng một trong những mục tiêu quan
trọng gây ra cuộc chiến này là vấn đề chính trị và địa chính trị, cụ thể là mong muốn
kiềm chế tham vọng vị trí bá chủ thế giới của Trung Quốc, không cho phép vượt Mỹ cả
về kinh tế, quân sự và tầm ảnh hưởng, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm
2050, v.v..., song không thể không thấy rõ những mục tiêu nhằm tái cấu trúc nền công
nghiệp Mỹ, chủ nghĩa dân túy hay những cam kết của Tổng thống Mỹ trong quá trình
tranh cử năm 2016 như “nước Mỹ trên hết”, “đưa nước Mỹ trở lại vĩ đại”. Tuy nhiên,
không thể không thấy chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và các chính sách đối ngoại về thương
mại của Mỹ vấp phải những cản trở như: (i) Trung Quốc không chỉ sở hữu nền kinh tế rất
lớn, mà còn là thị trường đông dân nhất thế giới với GDP danh nghĩa bằng ⅔ GDP của
Mỹ nhưng tính ngang bằng sức mua thì đã đạt tới mức 23,3 nghìn tỷ so với 19,4 nghìn tỷ
của Mỹ; (ii) tác động của cuộc chiến thương mại đối với nền kinh tế Trung Quốc không
quá lớn, thể hiện chủ yếu ở kim ngạch trị giá hơn 500 tỷ USD xuất khẩu sang Mỹ (tương
đương 4,2% GDP) và theo tính toán của Morgan Stanley, cuộc chiến thương mại này có
thể làm giảm 0,0007% đến tăng trưởng GDP của Trung Quốc; (iii) khả năng chống chịu
của nền kinh tế Trung Quốc cao với tỷ lệ tiết kiệm/GDP hiện là 47% trong khi của Mỹ
chỉ là 18%, tổng xuất khẩu của Trung Quốc chỉ bằng khoảng 20% GDP, v.v...; (iv) trái lại,
Trung Quốc cũng có những “con bài chiến lược” nhất định khi là thị trường xuất khẩu
quan trọng của Mỹ đối với một số mặt hàng như đậu tương, thực phẩm, máy bay và đặc
biệt là hơn 1000 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ. Việc “ăn miếng trả miếng” giữa 2
cường quốc kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những tác động không nhỏ cho nền kinh tế thế
giới, đặc biệt là các quốc gia có mối quan hệ thương mại chặt chẽ với 2 nền kinh tế này.
Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ với GDP năm 2017 trên 220 tỷ USD nhưng có độ
mở đứng thứ 7 trong các nền kinh tế có độ mở cao nhất thế giới với giá trị kim ngạch
xuất nhập khẩu/GDP đã đạt trên 190%. Điều này đồng nghĩa với nền kinh tế Việt Nam
được xem là nền kinh tế “dễ bị tổn thương” khi có các cú sốc đến từ bên ngoài. Thương

mại quốc tế của Việt Nam gắn khá chặt và đang có xu hướng gia tăng với 2 thị trường Mỹ
và Trung Quốc. Cụ thể, theo số liệu của Tổng cục Hải quan riêng 6 tháng đầu năm 2018,
kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đã tăng hơn 17% lên 46,82 tỷ USD
nhờ tăng cả hai chiều xuất - nhập, tức là tăng gấp đôi so với 6 tháng đầu năm 2013. Cũng
theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2018 tăng 9,66% so với cùng kỳ 2017 đạt 21,6 tỷ USD
– đây là thị trường đạt cao nhất, chiếm 18,9% tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu
2


của cả nước. Do đó, một điều rõ ràng rằng khi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung
diễn ra, nền kinh tế Việt Nam không thể tránh khỏi những tác động từ cuộc chiến này.
Những tác động, bao gồm cả tích cực và tiêu cực sẽ được làm rõ trong phần phân tích
dưới đây.
2. Chiến tranh thương mại và mục tiêu bảo trợ mậu dịch của Mỹ
Sự ra đời của Hiệp ước chung về thuế quan (GATT) 1948 và ngày nay là Tổ chức
Thương mại Quốc tế (WTO) chính là kết quả của những cuộc “đấu tranh” giữa tự do
thương mại quốc tế và chủ nghĩa bảo trợ mậu dịch. Các nước thành viên của WTO phải
tuân thủ các quy định về thuế quan trong quan hệ trao đổi hàng hóa và dịch vụ để đảm sự
công bằng/bình đẳng trong phân bổ lợi ích từ thương mại quốc tế. Song trên thực tế,
trong quá trình tồn tại của WTO đến nay ghi nhận không ít quốc gia đã phải chấp nhận sự
trừng phạt do những vi phạm các quy định và phải chấp nhận các mức thuế áp đặt bởi các
đối tác như thuế chống bán phá giá hoặc các hình thức thuế bổ sung, nằm ngoài những
quy chế thông thường của WTO lên hàng hóa xuất khẩu của các quốc gia đó để buộc phải
tuân thủ các quy định của WTO.
Nhằm thực hiện những lời hứa mang đậm mầu sắc dân túy như “nước Mỹ trên
hết”, “đưa nước Mỹ trở lại vĩ đại”, Tổng thống D. Trump đã thực hiện hàng loạt thay đổi
và rút lui khỏi nhiều cam kết quốc tế và khu vực, bao gồm cả Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình dương (TPP), Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), cũng như thay đổi
“thái độ thương mại với các đồng minh Châu Âu (EU), Nhật Bản, v.v... Với Trung Quốc,

D. Trump nhiều lần chỉ trích cho rằng Trung Quốc đã không công bằng trong thương mại
quốc tế khi không tuân thủ các qui định về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Do
vậy, Mỹ đã thực thi ba hành động riêng biệt để chống lại Trung Quốc: áp đặt thuế quan,
khiếu nại với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và giải quyết những lo ngại về đầu tư
của Trung Quốc vào các ngành công nghiệp của Mỹ, đặc biệt là các công ty công nghệ.
Khi một quốc gia thấy có sự vi phạm, gây ra sự bất công bằng từ một quốc gia khác thì
có thể khởi kiện lên WTO và yêu cầu sự phán xử đa phương. Tuy nhiên, Mỹ đã không
chờ sự phán quyết của cơ quan quyền lực thương mại WTO mà tự ý áp dụng việc đánh
thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. Đáp lại tương ứng, Trung Quốc đã ngay
lập tức áp thuế lên các mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ và khởi kiện lên WTO và chiến tranh
thương mại Mỹ - Trung đã chính thức xảy ra.

3


Nếu như thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu
hình và hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá
nhằm đưa lại lợi ích cho các bên. Nếu như thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với
sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc
gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài và việc tăng cường thương mại quốc tế thường
được xem như ý nghĩa cơ bản của "toàn cầu hoá". Thì sự “tuyên chiến” về thương mại
với các đối tác, thậm chí là các đồng minh truyền thống của Mỹ cũng như việc phát động
cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung từ đầu năm 2018 cho thấy nước Mỹ đã tái hiện
chủ nghĩa bảo trợ mậu dịch. Dù có những động cơ chính trị hay địa chính trị như đề cập
trên đây thì mục tiêu bảo trợ mậu dịch của Mỹ là điều rất rõ ràng.
Các biểu hiện của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung hoàn toàn phù hợp với
những tổng kết mang tính nguyên lý về thương mại quốc tế. Cụ thể là chiến tranh thương
mại xảy ra khi hai hay nhiều nước tăng hoặc tạo ra thuế hoặc các loại rào cản thương mại
với nhau nhằm đáp trả những rào cản thương mại của nước đối tác thương mại. Chiến
tranh thương mại là kết quả của sự theo đuổi chủ nghĩa bảo trợ mậu dịch, đói lập hay

chống lại tự do thương mại quốc tế. Hy sinh hay đánh đổi những lợi ích từ thương mại
quốc tế (TOT), bảo trợ mậu dịch nhằm mang lại những lợi ích về phát triển sản xuất trong
nước và đảm bảo việc làm, để bảo vệ tài nguyên và các nguồn lực trong nước. Song cả
kinh tế học chuẩn tắc và kinh tế học thực chứng đều đã chứng minh rằng sự bảo hộ mậu
dịch cũng mang lại sự trì trệ của các doanh nghiệp, các ngành được bảo hộ và nhiều thiệt
hại về kinh tế khác bởi lẽ, khi tăng sự bảo hộ chống lại sự thâm nhập của hàng hóa nhập
khẩu (với giá rẻ hơn sản xuất trong nước), chính phủ nước đã làm cho những hàng hóa đó
trở nên đắt đỏ đối với người sản xuất và tiêu dùng nội địa. Còn trong thời đại ngày nay,
bảo trợ mậu dịch tất yếu sẽ gây ra chiến tranh thương mại và có thể được xem là chống
lại xu thế hợp tác, mở cửa và toàn cầu hoá. Đáp trả tương xứng nhau về chính sách
thương mại kèm theo những tuyên bố lạc quan và cứng rắn, song diễn biến của cả nền
kinh tế Mỹ và Trung Quốc cho thấy đã có những tác động tiêu cực và sẽ không có kẻ
chiến thắng trong cuộc chiến tranh này. Đồng thời, sự ổn định và tăng trưởng của nền
kinh tế toàn cầu bị đe dọa là những hệ lụy đã được ghi nhận.
3. Diễn biến của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ -Trung
Trước khi xung đột thương mại diễn ra, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất
của Mỹ, với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa là 578,2 tỷ USD trong năm 2016. Trung
Quốc là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ 3 của Mỹ năm 2017 với hàng hóa trị giá
4


130,4 tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu là: sản phẩm hàng không & phụ tùng,
hạt có dầu & ngũ cốc, xe máy, v.v...
Bảng 1: Hàng hóa chủ yếu Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc năm 2017 (tỷ USD)
Sản phẩm

2016

2017


2017/2016

Sản phẩm hàng không & phụ tùng

14,6

16,3

11,6%

Hạt có dầu & ngũ cốc

15,5

13,7

-11,6%

Xe máy

8,3

10,1

21,1%

Thiết bị điện tử/bán dẫn

6,7


6,9

3,0%

Dầu và khí

1,4

6,9

373,3%

Rác thải

5,2

5,6

8,5%

Thiết bị đo lường/y tế/định vị

5,5

5,6

2,1%

Hóa chất cơ bản


4,6

4,9

6,6%

Nhựa, cao su tổng hợp, sợi nhân tạo và sợi 3,6
tổng hợp

4,1

15,3%

Dược phẩm và thuốc

2,8

3,4

20,7%

Tổng

115,6

130,4

12,8%

Nguồn: />

Trong khi đó, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc với tổng khối
lượng hàng xuất khẩu đạt 505,5 tỷ USD năm 2017. Các loại hàng xuất khẩu hàng đầu bao
gồm thiết bị thông tin, thiết bị máy tính, may mặc, v.v...
Bảng 2: Hàng hóa chủ yếu Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2017 (Đvt: tỷ USD)
Sản phẩm

2016

2017

2017/2016

Thiết bị thông tin

65,7

78,0

18,7%

Thiết bị máy tính

52,2

58,6

12,3%

Hàng hóa không thuộc các nhóm trên


34,4

36,5

6,1%

May mặc

25,5

24,5

-3,6%

5


Sản phẩm

2016

2017

2017/2016

Thiết bị điện tử/bán dẫn

18,9

23,2


22,5%

Nội thất và thiết bị nhà bếp

16,5

18,2

10,2%

Đồ gia dụng và máy móc khác

14,1

14,5

3,1%

Giày dép

14,6

14,1

-3,7%

Sản phẩm nhựa

12,3


13,8

11,8%

Phụ tùng mô tô

13,1

13,5

3,2%

Tổng

462,6

505,6

9,3%

Nguồn: />
Qua số liệu thống kê về kim ngạch xuất - nhập khẩu giữa hai nước có thể thấy Mỹ
luôn trong tình trạng thâm hụt, nếu như năm 2016 là 347 tỷ USD thì năm 2017 đã tăng
lên 375,2 tỷ USD và đây là một trong những lý do Tổng thống Mỹ “lên án” về quan hệ
thương mại Mỹ - Trung.

Trung Quốc gia nhập WTO

Suy thoái kinh tế 2007-2008


6


Nguồn: />
Hình: Cán cân thương mại Mỹ-Trung Quốc giai đoạn 2000-2018 (Đvt: Tỷ USD)
(Ghi chú: Số liệu 2018 tính đến hết tháng 8)

Chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc bắt đầu diễn ra ngày 22 tháng 3 năm
2018, khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã ký một bản ghi nhớ theo Mục 301 của
Đạo luật Thương mại năm 1974, chỉ đạo Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) áp dụng
mức thuế 50 tỷ đô la Mỹ cho hàng hóa Trung Quốc. Trong một tuyên bố chính thức, theo
yêu cầu của phần này, Mỹ cho rằng các mức thuế được đề xuất là "một phản ứng đối với
các hoạt động thương mại không công bằng của Trung Quốc trong những năm qua", bao
gồm cả hành vi ăn cắp sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ. Danh sách các hàng hóa đánh thuế
quan trọng tập trung vào các sản phẩm được đưa vào kế hoạch ‘Made in China 2025’,
bao gồm các sản phẩm liên quan đến công nghệ thông tin và robot.
Để đáp trả chính sách của Mỹ, ngày 2 tháng 4, Bộ Thương mại Trung Quốc đã áp
đặt thuế đối với 128 sản phẩm của Mỹ bao gồm phế liệu nhôm, máy bay, ô tô, sản phẩm
thịt lợn và đậu nành (có thuế suất 25%), cũng như trái cây, hạt và ống thép (15%).

7


Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình: Diễn biến chiến tranh thương mại Mỹ-Trung
Ngày 3 tháng 4, USTR đã công bố danh sách hơn 1.300 mặt hàng nhập khẩu của
Trung Quốc trị giá 50 tỷ USD bao gồm chi tiết máy bay, pin, TV màn hình phẳng, thiết bị
y tế, vệ tinh và vũ khí. Để trả đũa cho tuyên bố đó, Trung Quốc áp dụng mức thuế 25%
bổ sung cho máy bay, ô tô và đậu tương, là hàng xuất khẩu nông nghiệp hàng đầu của

Hoa Kỳ sang Trung Quốc. Vào ngày 5 tháng 4, Trump đã chỉ đạo USTR xem xét 100 tỷ
đô la trong các mức thuế bổ sung.
Tháng 5, Trung Quốc đã hủy đơn hàng mua đậu tương Mỹ. Vào ngày 20 tháng 5,
Bộ trưởng Tài chính Steven Mnuchin, trong một cuộc phỏng vấn trên Fox News
Sunday cho biết, "Chúng tôi đang đưa cuộc chiến thương mại vào tình trạng trì trệ".
Ngày 5 tháng 6, Mỹ áp đặt mức thuế 25% trên 50 tỷ đô la xuất khẩu của Trung
Quốc và tiếp tục 34 tỷ đô la vào ngày 6 tháng 7, với thêm 16 tỷ đô la để bắt đầu vào một
ngày sau đó. Bộ Thương mại Trung Quốc cáo buộc Hoa Kỳ tung ra một cuộc chiến
thương mại và nói rằng Trung Quốc sẽ đáp trả tương tự với mức thuế tương tự đối với
hàng nhập khẩu của Mỹ, bắt đầu từ ngày 6 tháng 7. Ba ngày sau, Nhà Trắng tuyên bố
rằng Hoa Kỳ sẽ áp đặt thêm 10% thuế quan đối với hàng nhập khẩu trị giá 200 tỷ USD
8


nếu Trung Quốc trả đũa các mức thuế của Mỹ. Bộ Thương mại Trung Quốc trả lời nhanh
chóng rằng Trung Quốc sẽ "phản công cứng rắn".
Ngày 18/9 Chính phủ Trung Quốc áp đặt thuế với số hàng hóa Mỹ trị giá 60 tỷ
USD. Mức thuế mới của Trung Quốc sẽ là 5% hoặc 10% phụ thuộc vào sản phẩm và
cũng được áp dụng cùng ngày 24/9. Hơn 5.000 sản phẩm Mỹ sẽ bị ảnh hưởng, như thịt,
hạt, đồ uống có cồn, hóa chất, quần áo, máy móc, đồ đạc và phụ tùng ô tô.
Ngày 24 tháng 9, chính sách áp thuế 10% với 200 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc
nhập khẩu có hiệu lực với hơn 5.000 nghìn sản phẩm của Trung Quốc, từ mỳ chính, găng
tay chơi bóng chày cho tới thiết bị định tuyến mạng và phụ tùng máy móc công nghiệp.
Như vậy, tổng giá trị hàng hóa Trung Quốc bị Mỹ áp thuế đã tăng lên 250 tỷ USD, tương
đương khoảng một nửa giá trị xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ năm 2017. Dự kiến
mức thuế sẽ tăng lên 25% vào đầu năm 2019.
Có thể thấy cuộc chiến thương mại giữa hai cường quốc hàng đầu về kinh tế trên
thế giới đã tạo ra những rủi ro cao cho nền kinh tế hai nước này và có thể làm mất đi
0,25% tổng GDP của cả hai nền kinh tế trong năm 2018. Tình hình sẽ còn tồi tệ hơn trong
năm tới, khi mà cả hai nước đều phải chứng kiến độ sút giảm trong mức tăng trưởng kinh

tế khoảng 0,5% hoặc cao hơn nữa. Tuy nhiên, tính đến mức tăng trưởng của Trung Quốc
là 6-7% và của Mỹ là 2-3%, thì thiệt hại của nền kinh tế Mỹ sẽ là lớn hơn so với Trung
Quốc.
4. Tác động của chiến tranh thương mại Mỹ Trung đến nền kinh tế Việt Nam
Có thể nói còn quá sớm và không dễ dàng để đánh giá những tác động của cuộc
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đến nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế
Việt Nam nói riêng bởi cuộc chiến nay mới xảy ra và những diễn biến cũng mới chỉ bắt
đầu có động. Tuy nhiên, theo quan điểm của các tác giả trong bài viết này, xung đột
thương mại Mỹ - Trung sẽ bao gồm cả những tác động tiêu cực và tích cực cho nền kinh
tế Việt Nam.
4.1 Tác động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam
Mở rộng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Môi trường đầu tư của
Trung Quốc đang dần kém hấp dẫn do mất đi lợi thế về chi phí thấp khi mà tốc độ tăng
tiền lương của Trung Quốc là cao nhất trong các nước Châu Á. Tiền lương trong ngành
sản xuất hàng tháng đã tăng lên mức 4.126 CNY (khoảng 607 USD) vào cuối năm 2015,
ngang bằng với mức tiền lương ở Brazil, nhưng cao hơn nhiều so với ở Mexico, Thái
9


Lan, Malaysia, Việt Nam và Ấn Độ. Trong bối cảnh Mỹ áp nhiều mức thuế suất cao lên
các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, môi trường thu hút đầu tư nước ngoài của Trung
Quốc càng trở nên kém cạnh tranh hơn. Trong khi đó, các nước đang phát triển khác với
chi phí tiền lương và các chi phí khác thấp hơn như Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này
để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài chuyển hướng đầu tư từ Trung Quốc sang Việt
Nam. Báo cáo gần đây về môi trường kinh doanh của Việt Nam do Phòng Thương mại
Mỹ công bố cho thấy Việt Nam đang trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư Mỹ và
nước ngoài. Có tới 36% các công ty được khảo sát ở Mỹ cho biết họ muốn mở rộng kinh
doanh tại Việt Nam, so với 21% ở Thái Lan và 19% ở Malaysia. Rất nhiều doanh nghiệp
lớn trong đó có các công ty Mỹ đang theo đuổi chiến lược “Trung Quốc cộng một” nhằm
tìm kiếm một quốc gia khác để giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Việt Nam là một

quốc gia có sự ổn định chính trị và vị trí địa chính trị quan trọng sẽ trở thành lựa chọn ưu
tiên cho vị trí “cộng một” của nhiều doanh nghiệp nước ngoài lớn, đặc biệt là các doanh
nghiệp Mỹ.
Cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang cả thị trường Mỹ và Trung Quốc:
Với chính sách đánh thuế lên hàng hóa Trung Quốc, nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc sẽ
giảm đi và tạo ra một “khoảng trống” trong thị trường Mỹ. Theo thống kê của Tổng cục
Hải Quan Trung Quốc, xuất khẩu hàng hóa của nước này sang Mỹ trong nửa đầu năm nay
chỉ tăng 5,4% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn đáng kể so với mức tăng 19,3% được
ghi nhận trong 6 tháng đầu năm ngoái. Đây là cơ hội nhất định cho các doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam có thể gia tăng xuất khẩu sang Mỹ, đặc biệt là các ngành hàng như lắp ráp
đồ điện tử, các loại chip, chất bán dẫn, hàng may mặc, da giày, sản xuất đồ chơi trẻ em,
đồ dùng thể thao, đồ gỗ nội thất, v.v... Đây là những ngành hàng mà Việt Nam có cơ hội
rất lớn trong việc giành thêm thị phần từ Trung Quốc tại thị trường Mỹ cũng như thu hút
thêm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các ngành hàng này ở Việt Nam, qua đó
tạo thêm việc làm, tăng xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại.
Cơ hội Việt Nam giảm thấp chi phía nhập khẩu và giá thành sản phẩm: Không thể
phủ nhận rằng phần lớn hàng hóa tiêu dùng, máy mọc công cụ và nhiều mặt hàng là
nguyên liệu Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc. Ngoài lượng cung hàng hóa xuất khẩu
sang Việt Nam tăng lên khi lượng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ giảm xuống thì đồng
Nhân dân tệ của Trung quốc (CNY) cũng sẽ giảm giá và đây là cơ hội để Việt Nam có thể
nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc với giá rẻ hơn. Người tiêu dùng Việt Nam sẽ có lợi
ích hơn, trong khi các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu và máy công cụ nhập khẩu từ
10


Trung Quốc, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được hưởng lợi từ chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm giảm.
Cơ hội để cải cách thể chế, chính sách liên quan đến sở hữu trí tuệ: Một trong
những điểm mấu chốt mà Tổng thống Mỹ đưa ra khi áp thuế đối với các mặt hàng của
Trung Quốc là do Trung Quốc đã vi phạm luật sở hữu trí tuệ. Để tránh vấp phải những

vấn đề tương tự như Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải xem xét lại việc thực thi luật sở hữu
trí tuệ. Việt Nam đã lần đầu thông qua luật bảo hộ sở hữu trí tuệ vào năm 2005, sau đó
sửa đổi bổ sung trong lộ trình đảm bảo yêu cầu gia nhập WTO. Tuy nhiên việc thực thi
thường không theo kịp luật và các công ty đang thúc đẩy việc thi hành luật để chủ động
bảo vệ tài sản trí tuệ của mình. Việt Nam vẫn đang tiếp tục đổi mới để củng cố luật này.
Theo dự kiến, năm 2018 hai hiệp định quan trọng là Hiệp định CPTPP và hiệp định
thương mại tự do Việt Nam - EU sẽ cùng đạt được. Đây được xem là một bước ngoặt
trong việc thiết lập hệ thống hành lang pháp lý liên quan đến sở hữu trí tuệ của Việt Nam.
Đó sẽ là cơ sở vững chắc cho tăng trưởng và phát triển kinh tế trong tương lai của Việt
Nam.
4.2 Những tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam
Sự giảm sút trong GDP: Mặc dù có những lợi ích nhất định về chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm hạ thấp theo sự giảm giá của hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc,
song xuất khẩu của Việt Nam lại bị cạnh tranh bởi chính xuất khẩu của Trung Quốc. Điều
này lại có tác động tiêu cực đến tăng trưởng của nền kinh tế dựa vào xuất khẩu của Việt
Nam. Theo sự tính toán của Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ
Kế hoạch đầu tư, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc sẽ làm giảm GDP Việt Nam
năm 2019 sẽ là 5.105 tỷ đồng. Trong các năm 2020 và 2021, GDP sẽ bị tác động là cao
nhất, lần lượt là 7.250 tỷ đồng và 7.720 tỷ đồng. Đến năm 2022, tác động của chiến tranh
thương mại sẽ giảm nhiệt khi là 0,11%, tương đương khoảng 7.740 tỷ đồng.

11


Nguồn: Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch đầu tư
Sơ đồ: Ước tính sự giảm sút GDP của Việt Nam do chiến tranh thương mại Mỹ
Trung (Đvt: tỷ đồng)
Tính cả giai đoạn 2018-2022, xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc sẽ làm GDP
Việt Nam hụt khoảng 29.200 tỷ đồng, tính trung bình khoảng 6.000 tỷ đồng/năm. Quy
mô GDP giảm sút tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng từ đó tạo áp lực lên

các vấn đề an sinh xã hội.
Áp lực về tỷ giá và lạm phát: Khi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ Trung bắt đầu
diễn ra, sự lo ngại về một áp lực đối với tỷ giá và chính sách tỷ giá của Việt Nam ngay
lập tức được cũng xuất hiện. Trước khi Mỹ áp chính sách thuế mới thì đồng USD có xu
hướng tăng giá và Trung Quốc duy trì tỷ giá khá ổn định của đồng CNY. Tuy nhiên, khi
cuộc chiến tranh thương mại bắt đầu, giá đồng Nhân dân tệ đã giảm nhanh. Trong vòng 6
tháng đầu năm 2018, CNY đã mất giá 6,1% so với USD. Việc CNY mất giá đã tạo sức ép
lên đồng Việt Nam (VND). Theo tính toán, nếu nhân dân tệ xuống giá 8% so với USD thì
đồng Việt Nam có thể cho xuống giá 2-3% so với USD. Nếu áp lực mạnh hơn và nhân
dân tệ xuống giá 10% thì đồng Việt Nam có thể cho xuống giá 4-5%. Mặc dù cán cân
thương mại hàng hóa của Việt Nam đạt xuất siêu 5,39 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm
2018, tuy nhiên khu vực kinh tế trong nước lại nhập siêu 18,26 tỷ USD, còn khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu lên đến 23,65 tỷ USD nên áp lực của việc
mất giá của VND vẫn là một mối lo với khu vực kinh tế trong nước.
12


Sự xáo trộn của hoạt động xuất nhập khẩu: Trong quan hệ thương mại song
phương, Trung Quốc là nước xuất khẩu hàng hóa lớn nhất cho Việt Nam với kim ngạch
đạt 58,23 tỷ USD năm 2017. Trong khi đó, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam với kim ngạch đạt 41,61 tỷ USD. Sự leo thang của cuộc chiến tranh thương mại
giữa 2 đối tác thương mại lớn nhất chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu
của Việt Nam. Trước hết, Việt Nam sẽ trở thành thị trường để cả hai phía trong cuộc
chiến này có thể “lợi dụng” để né tránh sự trả đũa của phía bên kia. Cụ thể, nhiều nhà sản
xuất Trung Quốc sẽ đưa hàng hóa của mình sang thị trường Việt Nam và “núp bóng”
hàng hóa Việt Nam để xuất khẩu sang Mỹ. Đây cũng là một nguy cơ với Việt Nam vì
hiện tại Việt Nam đang đứng hàng thứ 5 trong số các nước xuất siêu với Mỹ. Nếu các
doanh nghiệp Trung Quốc biến Việt Nam thành nơi “sơ chế” hàng xuất khẩu để tránh
thuế thì khả năng Việt Nam phải chịu những biện pháp trừng phạt về kinh tế từ Mỹ là rất
cao. Điều này hoàn toàn không có lợi cho các ngành xuất khẩu của Việt Nam.

Bảng 3: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam (tỷ USD)
Năm

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Tổng kim ngạch

Chênh lệch

2016
2017

478
525

345
368

823
893

133
157

2016
2017

21,97

35,46

49,93
58,23

71,9
93,69

27,96
22,76

2016
2017

38,5
41,61

8,7
9,2

47,2
50,81

29,8
32,41

Việt Nam-Thế giới

Việt Nam - Trung Quốc


Việt Nam-Mỹ

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Bên cạnh đó, do việc Mỹ áp đặt các mức thuế cao nên nhiều loại hàng hóa của
Trung Quốc sẽ quay về thị trường nội địa cùng với sự mất giá của CNY khiến cho hàng
hóa của Trung Quốc trở nên rẻ hơn. Đây trở thành cản trở lớn của hàng hóa Việt Nam khi
xuất khẩu sang Trung Quốc. Hệ quả là tình trạng thâm hụt thương mại sẽ dễ dàng quay
trở lại.

13


Áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nước: Như đã phân tích ở trên, hàng
hóa Trung Quốc có xu hướng sẽ tràn san Việt Nam để né mức thuế cao của Mỹ. Điều này
đặt các nhà sản xuất trong nước của Việt Nam phải đứng trước áp lực cạnh tranh gay gắt
của hàng Trung Quốc vốn lợi thế ở giá rẻ
5. Một số khuyến nghị trước những tác động của cuộc chiến tranh thương mại
Mỹ - Trung
Mặc dù đã có một vài tín hiệu tích cực hy vọng có thể giảm bớt căng thẳng về
quan hệ thương mại Mỹ - Trung sau cuộc điện đàm được cho là “dài và tốt đẹp” giữa
Tổng thống Mỹ D. Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, song các chuyên gia
kinh tế, bao gồm của cả Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản đều dự báo rằng cuộc chiến tranh
thương mại Mỹ - Trung sẽ còn có thể kéo dài không phải chỉ hơn 1 năm, thậm chí có thể
10-20 năm. Mỹ và Trung Quốc còn nhiều “đòn có thể tung vào nhau”. Với diễn biến còn
phức tạp của cuộc chiến tranh thương mại giữa hai cường quốc kinh tế như vậy, để có thể
giảm thiểu những bất lợi và tận dụng những cơ hội do cuộc chiến này mang lại, sự chủ
động để thích ứng là điều cần thiết đối với Việt Nam.
Trước hết, đối với các cơ quan quản lý nhà nước nói chung, Bộ Công thương, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư: cần xác định rõ cuộc chiến tranh thương mại đang diễn ra không chỉ
là xung đột Mỹ - Trung mà sẽ còn tiếp tục leo thang sự căng thẳng thậm chí đối đầu đa

chiều giữa Mỹ với Canada, Mexico, EU, Nhật Bản. Không chỉ đơn thuần là cải thiện cán
cân thương mại Mỹ - Trung hay trừng phát Trung Quốc mà sâu xa là chủ nghĩa dân túy
và chủ nghĩa bảo trợ mậu dịch để giành lợi thế cũng như những lợi ích của Mỹ. Để đánh
giá được một cách liên tục và cập nhật diễn biến cũng như tác động của cuộc chiến tranh
thương mại Mỹ - Trung và các nước khác, Việt Nam cần thành lập một bộ phận chuyên
trách theo dõi các vấn đề liên quan đến xung đột hoặc nguy cơ xung đột thương mại thế
giới. Bộ phận này cần có sự tham gia hay tham vấn của các chuyên gia kinh tế, đặc biệt
về thương mại quốc tế để có thể tham mưu, tư vấn về chính sách kịp thời cho chính phủ.
Một số chính sách cụ thể cần được quan tâm:
+ Cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư như đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
để tranh thủ thu hút đầu tư nước ngoài trong khi đang có những diễn biến thuận lợi cho
Việt Nam về thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư. Kịp thời ban hành và áp dụng
thực hiện những chính sách sàng lọc cơ cấu đầu tư, hướng đầu tư nước ngoài vào những
lĩnh vực tạo ra động lực cho sự tăng trưởng và ổn định nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là
14


các lĩnh vực phát triển công nghệ, công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hiện đại hóa
nông nghiệp gắn với bảo vệ môi trường, v.v...
+ Song song với việc thực hiện các yêu cầu và cam kết với WTO, cần tiếp tục
hoàn thiện hệ thống thuế theo hướng hiệu quả, đơn giản, dễ hiểu và dễ áp dụng nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong nước, tăng
cường năng lực cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.
+ Hoàn thiện hệ thống luật sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy khoa học công nghệ phát
triển từ đó tạo tiền đề cho sự thu hút đầu tư phát triển công nghệ, thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam.
+ Thúc đẩy ký kết và thực hiện các hiệp ước thương mại tự do với Châu Âu và các
nước khác; tận dụng mọi cơ hội nhằm thúc đẩy và tăng cường quan hệ thương mại đa
phương với các nước để giảm thiểu rủi ro từ việc Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào hai
nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc.

Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN): Trên cơ sở cập nhật diễn biến tỷ
giá USD, CNY, EUR và một số đồng tiền của các quốc gia có liên quan đến xung đột
thương mại đang diễn trên thế giới, NHNN cần kiên định với chính sách tỷ giá trung tâm,
đã và đang phát huy rất hiệu quả trong điều hành tỷ giá kể từ khi áp dụng 2016. Việt Nam
luôn cảnh giác để tránh bị cuốn vào cuộc chiến tranh thương mại và nguy cơ của cuộc
chiến tranh tiền tệ có thể xảy ra bằng việc từng bước tiệm cận với cơ chế tỷ giá thị
trường. Vụ Quản lý ngoại hối của NHNN cần xây dựng các kịch bản khác nhau về diễn
biến tỷ giá và sự vận hành chính sách tỷ giá tương ứng với các kịch bản đó. Đặc biệt chú
trọng đến diễn biến của đồng CNY và chính sách tỷ giá của Trung Quốc, chủ động phòng
tránh những diễn biến bất lợi cho hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam với Trung
Quốc nhưng vẫn đảm bảo lợi ích thương mại quốc tế với các đối tác thương mại khác.
Ngoài ra, NHNN cần chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng thương mại
(NHTM) trong việc ổn định tỷ giá, ổn định khả năng thanh toán của các doanh nghiệp và
các NHTM trước nhu cầu nhập khẩu và các nghĩa vụ thanh toán quốc tế thông qua các
công cụ gián tiếp mang tính thị trường. Tuyệt đối hạn chế những công cụ chính sách điều
tiết hay những điều chỉnh hành chính có thể duy trì sự ổn định mang tính hình thức
nhưng lại gây khó khăn thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất – nhập khẩu và nền kinh tế.
Đối với các ngân hàng thương mại: Các NHTM có vai trò quan trọng và không thể
thiếu trong quan hệ thương mại quốc tế và ổn định, sự phát triển của các doanh nghiệp.
15


Trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và có thể rộng hơn nữa, các NHTM
sẽ luôn là đồng hành và hỗ trợ, trước hết là các dịch vụ ngoại hối, thanh toán quốc tế và
tài trợ ngoại thương cho các doanh nghiệp: (i) cần đẩy mạnh các giao dịch ngoại tệ phi tín
dụng (mua - bán) thông qua niêm yết và từng bước thực hiện giao dịch ngoại tệ hai chiều,
đáp ứng nhu cầu ngoại tệ chính đáng và loại bỏ những biến động tỷ giá do tâm lý; (ii)
tăng cường khả năng cung cấp các dịch vụ phái sinh ngoại tệ để đảm bảo rằng các doanh
nghiệp Việt Nam không phải chịu đựng tổn thất từ rủi ro tỷ giá và rủi ro lãi suất của các
đồng tiền mạnh sử dụng đến các giao dịch thương mại quốc tế; (iii) tăng cường các quan

hệ ngân hàng đại lý và các hoạt động ngân hàng quốc tế để tranh thủ và mở rộng nguồn
lực, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp Việt Nam tham
gia thương mại quốc tế; (iv) tư vấn cho các doanh nghiệp các giải pháp hạn chế rủi ro tỷ
giá, rủi ro lãi suất và các rủi ro khác từ thương mại quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam:
+ Đối với doanh nghiệp xuất khẩu: trước những khó khăn và cơ hội khi cuộc chiến
tranh thương mại Mỹ - Trung diễn ra, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần tăng
cường khả năng cấp nhật thông tin thị trường một cách đầy đủ, chính xác để chủ động ra
các quyết định phù hợp. Bên cạnh việc củng cố và duy trì các thị trường truyền thống thì
việc tìm kiếm, khai thác các thị trường mới nhằm hạn chế tối đa sự phụ thuộc vào thị
trường Trung Quốc và Mỹ là điều có ý nghĩa rất quan trọng. Đa phương hóa thị trường là
giải pháp hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra khi thị trường Mỹ và Trung Quốc có
những diễn biến phức tạp. Cụ thể, các doanh nghiệp xuất khẩu cần phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan quản lý nhà nước như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI),
Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao và các đối tác để có thể thực hiện xúc tiến thương mại
và phát triển các thị trường mới ở các nước và khu tiềm năng.
+ Đối với doanh nghiệp nhập khẩu: trước mắt các doanh nghiệp nhập khẩu của
Việt Nam dường như đang được hưởng lợi từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
khi giá cả của hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và từ Mỹ có xu hướng rẻ hơn. Tuy
nhiên, việc gia tăng nhập khẩu cũng dẫn đến nguy cơ thâm hụt thương mại, tăng trưởng
nóng và tình trạng quá tải của nền kinh tế. Do vậy, xác định cơ cấu nhập khẩu hợp lý là
điều có ý nghĩa hơn cả trong thời điểm hiện nay. Các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa
nguyên liệu và công cụ cần liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp sản xuất trong nước và
xuất khẩu để củng cố các chuỗi giá trị, vừa đảm bảo cân đối giữa nhập khẩu và nhu cầu
sản xuất, đồn thời góp phần đảm bảo cân bằng thương mại bền vững. Với các doanh
16


nghiệp nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng, lợi ích sẽ tăng thêm khi biết cần cân đối giữa nhu
cầu tiêu dùng và lượng hàng hóa nhập khẩu. Đây là thời điểm người tiêu dùng Việt Nam

được quyền ưu tiên lựa chọn sản phẩm nhập khẩu có chất lượng và giá thấp nếu như các
doanh nghiệp nhập khẩu biết tối đa hóa lợi nhuận kết hợp với sự chú trọng đến lợi ích
cộng đồng.
+ Đối với các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ nội địa: trước những áp lực cạnh
tranh lớn từ hàng hóa Trung Quốc và cả Mỹ, các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa ở thị trường nội địa cần phải tự mình nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc đổi mới
công nghệ, xúc tiến thị trường để hiểu và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng
trong nước. Đẩy mạnh liên kết với các doanh nghiệp nhập khẩu để tối ưu hóa cơ cấu sản
phẩm đầu vào cho quá trình ổn định và mở rộng quy mô sản xuất. Nếu như gặp nhiều khó
khăn trong cạnh tranh về giá, các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ hàng hóa ở thị trường
trong nước sẽ phấn đấu để tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua sự khác biệt, lợi thế
hiểu biết về tâm lý, nhu cầu người tiêu dùng và thị trường trong nước. Nói cách khác,
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung cũng chính là cơ hội để các doanh nghiệp sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa trong nước khẳng định vị thế, khả năng tồn tại và thích nghi với những
tác động từ diễn biến thị trường quốc tế.

Tài liệu tham khảo
1. />2. />3. />4. />5. />6. />7. />8. />17


9. />
18



×