Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Quyền của người biểu diễn SHTT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.09 KB, 43 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
NGÀNH LUẬT KINH TẾ

Đề tài:

Quyền của người biểu diễn

TP.HCM, Ngày 20 tháng 02 năm 2017


Quyền của người biểu diễn

Mục lục
Chương 1: Những lý luận chung về người biểu diễn..................................................................3
1.

Khái quát chung về quyền liên quan đến quyền tác giả...................................................3

2.

Chủ thể biểu diễn được pháp luật bảo hộ.........................................................................5

3.

Lý do bảo hộ quyền của người biểu diễn.........................................................................7

Chương 2: Nội dung quyền của người biểu diễn........................................................................9
1.

Khách thể quyền của người biểu diễn..............................................................................9



2.

Quyền của người biểu diễn............................................................................................10
2.1.

Cơ sở pháp lý..........................................................................................................10

2.2.

Nội dung quyền của người biểu diễn......................................................................10

2.2.1.

Quyền nhân thân.................................................................................................10

2.2.2.

Quyền tài sản......................................................................................................13

2.3.

Quy định về quyền của người biểu diễn trong điều ước quốc tế............................15

3.

Chuyển giao quyền của người biểu diễn........................................................................16

4.


Giới hạn quyền của người biểu diễn..............................................................................17
4.1.

5.

6.

7.

Các nguyên tắc giới hạn quyền của người biểu diễn..............................................17

Thời hạn bảo hộ.............................................................................................................21
5.1.

Cơ sở pháp lý..........................................................................................................21

5.2.

Nội dung quy định pháp lý tại Việt Nam................................................................22

5.3.

Nội dung quy định pháp lý trong điều ước quốc tế................................................23

Chủ sở hữu quyền liên quan:.........................................................................................24
6.1.

Chủ sở hữu cuộc biểu diễn.....................................................................................24

6.2.


Khai thác quyền......................................................................................................25

Đăng kí quyền tác giả, quyền liên quan.........................................................................25
7.1.

Khái niệm đăng kí quyền tác giả, quyền liên quan.................................................25

7.2.

Thủ tục dăng kí quyền liên quan............................................................................26

7.3. Thời hạn cấp, đăng bạ công bố đăng kí, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký
quyền liên quan.................................................................................................................27
8.

Các biện pháp bảo vệ người biểu diễn...........................................................................29
8.1.

Nhóm 2

Biện pháp dân sự....................................................................................................29
Page 2


Quyền của người biểu diễn
8.2.

Biện pháp hành chính.............................................................................................30


8.3.

Biện pháp hình sự...................................................................................................32

Chương 3: Phân tích ví dụ điển hình........................................................................................34
1.

Mô tả vụ việc ................................................................................................................34

2.

Phân tích – đánh giá vụ việc .........................................................................................34
2.1.

Phân tích.................................................................................................................34

2.2.

Đánh giá..................................................................................................................37

Chương 4: giải pháp – kiến nghị...............................................................................................38
1.

Giải pháp:.......................................................................................................................39

2. Một số kiến nghị khác.......................................................................................................40

Nhóm 2

Page 3



Quyền của người biểu diễn

Chương 1: Những lý luận chung về người biểu diễn
1. Khái quát chung về quyền liên quan đến quyền tác giả.
1.1.

Khái niệm

Khái niệm quyền liên quan đến quyền tác giả được đưa ra tại Khoản 3 Điều 4 Luật
Sở hữu trí tuệ 2005 ( sửa đổi bổ sung 2009 ) như sau:
“ Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của
tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng,
tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa ”.
Ngoài ra, tại nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền
tác giả và quyền liên quan cũng đã giải thích tại Khoản 2 Điều 3 về bảo hộ quyền tác
giả, quyền liên quan, theo đó, quyền liên quan được hiểu là:
“Bản ghi âm, ghi hình; các quyền của tổ chức phát sóng đối với chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được quy định tại Điều 745,
746, 747 và Điều 748 của Bộ luật Dân sự và Điều 29, 30 và 31 của Luật Sở hữu trí
tuệ ”.Các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn; các quyền của nhà sản
xuất”.
Như vậy, so với những quyền liên quan được bảo hộ ở cấp độ toàn cầu theo các
điều ước quốc tế như Công ước Rome hay Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản
ghi âm năm 1996 (WPPT), khái niệm quyền liên quan được quy định trong pháp luật
Việt Nam có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hình và quyền của tổ chức phát sóng đối với tín hiệu về tinh mang chương trình được
mã hóa. Điều này không trực tiếp ảnh hưởng đến năng lực bảo hộ của pháp luật sở hữu

trí tuệ quốc gia trong mối tương quan với điều ước quốc tế mà là vấn đề quan điểm lập
pháp cũng như đặc điểm của hệ thông pháp luật mỗi nước.

Nhóm 2

Page 4


Quyền của người biểu diễn
1.2.

Đặc điểm

Tên gọi quyền liên quan đến quyền tác giả đã phần nào cho thấy rằng, quyền liên
quan và quyền tác giả có sự gần gũi nhất định, thể hiện ở một số đặc điểm chung phân
biệt chúng với nhóm quyền sở hữu công nghiệp. Đó là tính chất sáng tạo, tính nguyên
gốc của đối tượng được bảo hộ, tính tự động của cơ chế xác lập sự bảo hộ… Tuy
nhiên, là một lĩnh vực cơ bản của quyền sở hữu trí tuệ, quyền liên quan có các đặc
trưng riêng của nó như sau:

 Hoạt động của các chủ thể quyền liên quan chính là hành vi sử dụng tác
phẩm đã có:
Đúng như tên gọi của nó, quyền liên quan có mối liên hệ mật thiết với quyền tác
giả mà biểu hiện dễ thấy nhất là việc tác phẩm đã được tác giả sáng tạo chính là cơ sở
để các chủ thể quyền liên quan tiến hành các hoạt động nghề nghiệp của mình mà từ
đó phát sinh các quyền này. Hành vi sáng tạo nghệ thuật làm phát sinh các quyền mà
pháp luật sở hữu trí tuệ bảo hộ cho người ca sĩ chính là việc trình bày các ca khúc đã
được sáng tác, với người nhạc công đó là sự thể hiện những bản nhạc đã được viết bởi
các nhà soạn nhạc. Với diễn viên cũng vậy, dù là trong một vở kịch, một bài múa hay
trước máy quay, diễn xuất của họ không thể không dựa trên một kịch bản có sẵn từ

trước, mặc dù kịch bản ấy có thể chi tiết đến từng lời thoại, động tác hay dành rất
nhiều “ đất trống ” cho người diễn viên tự do ứng biến bằng khả năng diễn xuất của
mình. Các nhà sản xuất băng đĩa càng không có gì để ghi thu lại một khi không có tác
phẩm nào để người biểu diễn có thể trình bày…
 Đối tượng quyền liên quan được bảo hộ khi có tính nguyên gốc:
Tính chất này của đối tượng quyền liên quan được xem xét trên hai phương diện
chủ yếu sau:
Thứ nhất, tính nguyên gốc được xác định trên cơ sở lao động sáng tạo mang dấu ấn
cá nhân của chủ thể.
Thứ hai, tính nguyên gốc của quyền liên quan còn được thể hiện ở việc quyền liên
quan chỉ được xác định theo các đối tượng của quyền liên quan được tạo ra lần đầu
tiên.
 Quyền liên quan chỉ được bảo hộ trong thời hạn nhất định, kể cả các quyền
nhân thân:

Nhóm 2

Page 5


Quyền của người biểu diễn
Đây là một đặc điểm riêng biệt của quyền liên quan trong sự so sánh với quyền tác
giả và cả quyền sở hữu công nghiệp. Đối với quyền tác giả, các quyền tài sản và các
quyền nhân thân có thể chuyển dịch (quyền công bố tác phẩm) được bảo hộ với thời
hạn thông thường là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết; các quyền
nhân thân gắn liền với tác giả không thể chuyển dịch được bảo hộ vô thời hạn. Đối với
quyền sở hữu công nghiệp, thời hạn bảo hộ phần lớn là xác định (có thể gia hạn hoặc
không), tuy nhiên, đối với tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, thời hạn
bảo hộ là không xác định và sẽ kéo dài đến khi nào các đối tượng này còn đáp ứng
được điều kiện bảo hộ.

Như vậy, thông thường thì luôn có một số đối tượng của quyền tác giả và quyền sở
hữu công nghiệp được bảo hộ với thời hạn không xác định. Tuy nhiên, đối với quyền
liên quan, sự bảo hộ trên phạm vi quốc tế cũng như pháp luật sở hữu trí tuệ hầu hết các
quốc gia đều giới hạn thời hạn bảo hộ ở mức độ nhất định, thường là 50 năm kể từ khi
các đối tượng (cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng) được định hình
hoặc công bố.
 Quyền liên quan được bảo hộ trên nguyên tắc không làm phương hại đến
quyền tác giả:
Hình thành sau khi quyền tác giả đã được bảo hộ một cách phổ biến và rộng rãi, lại
mang bản chất gắn bó mật thiết với quyền tác giả, do vậy việc bảo hộ quyền liên quan
bao giờ cũng được xem xét trong mối quan hệ với quyền tác giả và thể hiện nguyên tắc
không gây bất kỳ sự phương hại nào có thể đối với quyền này.
2. Chủ thể biểu diễn được pháp luật bảo hộ
Căn cứ theo khoản 1 điều 16 Luật sở hữu trí tuệ quy đinh:
“ Người biểu diễn là người sử dụng tác phẩm một cách sáng tạo trong việc thể hiện
các tác phẩm văn học nghệ thuật, bao gồm diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và
những người khác trình bày tác phẩm văn học, nghệ thuật”.
Một tác phẩm có thể đến với công chúng bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng
thông qua người biểu diễn với sự cảm thụ và thể hiện sáng tạo của mình thì tác phẩm
trở nên sinh động và có sức truyền thụ tới công chúng nhanh nhất. Chính vì vậy, dù
các hình thức giải trí ngày càng đa dạng nhưng số lượng người biểu diễn không
ngừng gia tăng và nền công nghiệp biểu diễn vẫn không ngừng phát triển. Người biểu
Nhóm 2

Page 6


Quyền của người biểu diễn
diễn là cầu nối giữa tác giả và công chúng, góp phần truyền bá, lưu giữ và phát triển
các tác phẩm có giá trị, do đó pháp luật đã công nhận và bảo hộ các quyền của người

biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của mình.
Căn cứ theo khoản 2 điều 16 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy đinh:
“2. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu cuộc biểu diễn quy định tại khoản 1 Điều 44
của Luật này”
Căn cứ theo điều 33 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy đinh:
“ 1. Tổ chức, cá nhân sử dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ
thuật của mình để thực hiện cuộc biểu diễn là chủ sở hữu đối với cuộc biểu diễn đó,
trừ trường hợp có thoả thuận khác với bên liên quan”.
Trong đó, nếu người biểu diễn tự mình đầu tư tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật
để thực hiện cuộc biểu diễn thì họ là người biểu diễn đồng thời là chủ sở hữu đối với
cuộc biểu diễn đó. Nếu do người khác đầu tư tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật để thực
hiện cuộc biểu diễn đó thì chủ sở hữu quyền liên quan là tổ chức, cá nhân đầu tư.
Quy mô và tính chất cuộc biểu diễn không ảnh hưởng đến quyền của người biểu
diễn. Cuộc biểu diễn có thể chỉ đơn giản có một người biểu diễn như nhạc công độc
tấu một bản nhạc, cũng có thể có rất nhiều người biểu diễn cùng tham gia như một bộ
phim, một vở kịch hay một buổi biểu diễn ca nhạc lớn. Để thực hiện một cuộc biểu
diễn lớn như vậy thường cần có sự hợp tác của rất nhiều người nhưng chỉ những
người trực tiếp trình diễn, thể hiện tác phẩm mới được coi là người biểu diễn và về
nguyên tắc họ là chủ sở hữu quyền đầu tiên đối với cuộc biểu diễn.
Những ai được coi là người biểu diễn được quy định rõ tại điều 3 Công ước quốc
tế bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng (Công ước
Rome):
“Người biểu diễn là các diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và các người khác
nhập vai, hát, đọc, ngâm, trình bày, hoặc biểu diễn khác các tác phẩm văn học, nghệ
thuật”.
Trong khái niệm người biểu diễn được mở rộng, ngoài những chủ thể tương tự
được liệt kê trong Công ước Rome, người biểu diễn còn bao gồm người trình bày các
Nhóm 2

Page 7



Quyền của người biểu diễn
hình thức thể hiện dân gian Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (Hiệp
ước WPPT năm 1996).
Giống như mọi khái niệm pháp lý, khái niệm người biểu diễn không chỉ biến đổi
theo thời gian mà còn có những khác biệt theo phạm vi lãnh thổ. Pháp luật các nước
tùy thuộc điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và kỹ năng lập pháp đã có những điều
chỉnh trong việc đưa ra khái niệm người biểu diễn và cuộc biểu diễn, cũng như điều
kiện để được bảo hộ quyền của người biểu diễn. Trên cơ sở khái niệm người biểu
diễn của Công ước Rome, Điều 16 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam liệt kê các tổ chức,
cá nhân được bảo hộ quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam.
3. Lý do bảo hộ quyền của người biểu diễn.
Không khó để nhận ra người biểu diễn đã đóng góp không nhỏ sức sáng tạo trong
quá trình biểu diễn các tác phẩm, vì vậy các công ước quốc tế, cũng như luật pháp các
quốc gia đã thừa nhận và bảo hộ quyền của người biểu diễn. Tuy nhiên, mức độ bảo
hộ của các nước không đồng nhất. Một số nước đã coi cuộc biểu diễn là một sản
phẩm sáng tạo độc lập và người biểu diễn hưởng các quyền riêng biệt.
Ví dụ: Luật Bản quyền, Thiết kế và sáng chế năm 1988 của Anh quy định Quyền
của người biểu diễn:
“Độc lập với bất cứ quyền tác giả, quyền nhân thân đối với tác phẩm được biểu
diễn hay bất kỳ bộ phim, bản ghi âm, chương trình phát sóng hoặc chương trình cáp
nào có trong buổi biểu diễn và bất kỳ quyền và nghĩa vụ nào khác...”.
Điều 7.1 Luật Bản quyền Đài Loan cũng khẳng định:
“Người biểu diễn trình diễn tác phẩm hoặc các thể hiện dân gian được bảo hộ
độc lập. Việc bảo hộ quyền của người biểu diễn không ảnh hưởng đến quyền tác giả
của tác phẩm gốc”.
Trong khi nhiều nước khác nhận định người biểu diễn chỉ đơn thuần trình diễn lại
tác phẩm, mức độ sáng tạo thấp hơn so với các tác phẩm thông thường, do đó cho
người biểu diễn được hưởng quyền đối với buổi biểu diễn của mình ở cấp độ thấp

hơn dưới dạng quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi tắt là quyền liên quan).

Nhóm 2

Page 8


Quyền của người biểu diễn
Ví dụ: tại Mục II Chương II Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam về nội dung, giới hạn
quyền và thời hạn bảo hộ quyền liên quan đã liệt kê các đối tượng được bảo hộ quyền
liên quan, trong đó Quyền của người biểu diễn được quy định tại Điều 29.
Dù cuộc biểu diễn được bảo hộ như một sản phẩm sáng tạo độc lập hay như một
đối tượng của quyền liên quan, việc bảo hộ quyền của người biểu diễn là rất cần thiết.
Bởi sự phát triển của công nghiệp ghi âm, công nghiệp điện ảnh và đặc biệt gần đây
là Internet đã giúp người biểu diễn định hình, sao chép và truyền phát cuộc biểu diễn
của mình tới đông đảo công chúng một cách nhanh chóng, nhưng cũng chính những
bản sao cuộc biểu diễn đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng kiểm soát công
chúng tiếp cận với cuộc biểu diễn. Nếu như đối với buổi biểu diễn trực tiếp chỉ cần
thông qua kiểm soát vé vào cửa là có thể khống chế được công chúng tiếp cận buổi
biểu diễn, thì nay với vô số bản sao băng từ hay bản lưu dưới dạng điện tử, khả năng
kiểm soát và khống chế các cá nhân, tổ chức tiếp cận, sử dụng và khai thác cuộc biểu
diễn của người biểu diễn bị thu nhỏ, khả năng thụ hưởng thù lao, thu hồi chi phí và
đầu tư cho cuộc biểu diễn bị đe doạ. Vì vậy yêu cầu bảo hộ quyền của người biểu
diễn càng trở nên bức thiết.
Mặt khác, việc bảo hộ quyền liên quan, trong đó có quyền của người biểu diễn,
góp phần củng cố và hoàn thiện cơ chế bảo hộ quyền tác giả. Khi quyền của người
biểu diễn được bảo hộ, người biểu diễn nhận được thù lao tương xứng với công sức
đã bỏ ra trong quá trình thể hiện, truyền bá tác phẩm sẽ càng nỗ lực truyền tải các sản
phẩm sáng tạo của các tác giả, nâng cao giá trị của các tác phẩm. Đồng thời khi biểu
diễn các tác phẩm, người biểu diễn trước tiên phải tuân thủ các nghĩa vụ xin phép và

trả tiền bản quyền cho tác giả theo quy định của pháp luật, khi đó tác giả được thụ
hưởng các quyền mà pháp luật cho phép.

Nhóm 2

Page 9


Quyền của người biểu diễn

Chương 2: Nội dung quyền của người biểu diễn.
1. Khách thể quyền của người biểu diễn
Khách thể quyền của người biểu diễn: là các cuộc biểu diễn tác phẩm của tác giả
do người biểu diễn thực hiện tại lãnh thổ quốc gia và nước ngoài.
Chỉ những cuộc biểu diễn các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học mới là
khách thể của quyền biểu diễn. Để xác định thế nào là một tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học lại cần đối chiếu với khái niệm tác phẩm theo quy định của pháp
luật từng nước. Theo luật Việt Nam, khoản 7 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ quy định :
“Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học
thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào".
Do đó, mọi thành quả của quá trình sáng tạo trong văn học, nghệ thuật hay khoa
học đã được định hình đều có thể trở thành đối tượng để biểu diễn và người biểu diễn
các thành quả đó sẽ được hưởng các quyền của người biểu diễn theo quy định pháp
luật.
Theo nguyên tắc hiệu lực lãnh thổ của luật bản quyền, nơi thực hiện cuộc biểu diễn
cũng là một trong những điều kiện bảo hộ cuộc biểu diễn. Pháp luật các nước thường
chỉ bảo hộ cuộc biểu diễn của công dân nước mình, cuộc biểu diễn được thực hiện trên
phạm vi lãnh thổ quốc gia mình và các trường hợp khác tùy thuộc vào các Hiệp định
song phương hoặc đa phương về các vấn đề có liên quan mà quốc gia tham gia hoặc
ký kết.

Khoản 1 điều 17 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định với các cuộc biểu diễn mà
người biểu diễn là công dân Việt Nam dù được thực hiện tại Việt Nam hoặc nước
ngoài đều được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Ngoài ra, cuộc biểu diễn do người nước
ngoài thực hiện tại Việt Nam cũng được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam và một số
trường cụ thể khác theo quy định của pháp luật, cụ thể:
“ Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Nhóm 2

Page 10


Quyền của người biểu diễn
a) Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài;
b) Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam;
c) Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo quy
định tại Điều 30 của Luật này;”
Quy mô và tính chất cuộc biểu diễn không ảnh hưởng đến quyền của người biểu
diễn. Cuộc biểu diễn có thể chỉ đơn giản có một người biểu diễn như nhạc công độc
tấu một bản nhạc, cũng có thể có rất nhiều người biểu diễn cùng tham gia như một bộ
phim, một vở kịch hay một buổi biểu diễn ca nhạc lớn.
Đề cập tới việc xâm hại quyền của người biểu diễn, chúng ta hiểu rằng khách thể
quyền biểu diễn bị khai thác không hợp pháp. Trường hợp cuộc biểu diễn được định
hình trên bản ghi âm, ghi hình thì nó được bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi
hình. Nếu người biểu diễn đầu tư tài chính và các điều kiện vật chất cho việc định hình
bản ghi âm, ghi hình thì họ đồng thời là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Nếu cuộc
biểu diễn không được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà được phát sóng thì nó
được bảo hộ quyền của tổ chức phát sóng.
2. Quyền của người biểu diễn
2.1.


Cơ sở pháp lý.

Quyền của người biểu diễn được quy định tại điều 29 Luật Sở hữu trí tuệ:
“Người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thì có các quyền nhân thân và các quyền
tài giả đối với cuộc biểu diễn; trong trường hợp người biểu diễn không đồng thời là
chủ đầu tư thì người biểu diễn có các quyền nhân thân và chủ đầu tư có các quyền tài
sản đối với cuộc biểu diễn.”
2.2.

Nội dung quyền của người biểu diễn.

Khi thỏa mãn các điều kiện luật định thì người biểu diễn được hưởng các quyền đối
với cuộc biểu diễn của họ. Theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ, quyền của người biểu
diễn bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
2.2.1.

Nhóm 2

Quyền nhân thân

Page 11


Quyền của người biểu diễn
Tại khoản 2 điều 29, Luật Sở hữu trí tuệ quy định quyền nhân thân của người biểu
diễn:
“a) Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát
sóng cuộc biểu diễn;
b) Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt
xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín

của người biểu diễn”.
Nội dung cụ thể của các quyền:

 Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát
sóng cuộc biểu diễn.
Danh tiếng của một diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và các nghệ sĩ khác được
công chúng biết đến khi tên của họ được giới thiệu thông qua các cuộc biểu diễn. để cá
biệt hóa hình tượng biểu diễn mà mình dày công gây dựng, người nghệ sĩ cần được
nêu tên mình trong mọi cuộc biểu diễn.
Quyền nhân thân này phải được đảm bảo không chỉ cho toàn bộ, mà còn đối với
từng phần nhất định của cuộc biểu diễn hoặc bản ghi, chương trình phát sóng. Việc chỉ
một phần của sự trình diễn được đưa tới công chứng không thể là lý do cho sự bỏ qua
quyền được giới thiệu tên của người biểu diễn.
Cách thức giới thiệu như thế nào cũng cần được quan tâm. Tên người biểu diễn
phải được giới thiệu theo cách mà những người nghe, người xem cuộc biểu diễn, bản
ghi, chương trình phát sóng có thể xác định được người biểu diễn đó. Cách thức cụ thể
có thể tùy theo sự thỏa thuận của người biểu diễn với người đưa chương trình biểu
diễn đến với công chúng.
Đối với những người biểu diễn gồm hai hay nhiều cá nhân trong một nhóm có tên
gọi nhất định, tên gọi được giới thiệu có thể là tên nhóm. Nếu tên người biểu diễn
được thể hiện bằng biểu tượng, kí tự viết tắt hay bất kì dấu hiệu nhận biết nào khác thì
cách thể hiện đó phải được sử dụng trong giới thiệu tên người biểu diễn, trường hợp có
lý do hợp lý (như vấn đề kĩ thuật…. ) thì đó có thể thay thế bằng một dạng biểu hiện
tương tự.
Nhóm 2

Page 12


Quyền của người biểu diễn

Có một số ngoại lệ đối với quyền giới thiệu tên người biểu diễn. Ví dụ như trong
trường hợp phần biểu diễn của họ được thực hiện nhằm mục đích quảng cáo hàng hóa,
dịch vụ nào đó, hoặc một vài phần biển diễn của họ được thực hiện nhằm mục đích
đưa tin, hay những nội dung được sử dụng cho hoạt động lập pháp hay phục vụ quá
trình tố tụng,…

 Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa,
cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và
uy tín của người biểu diễn
Hình tượng biểu diễn là khái niệm trừu tượng và có nội hàm rộng, được tạo nên từ
nhiều yếu tố khác nhau như phong cách biểu diễn, âm giọng, thái độ, cử chỉ,.. Tố chất
và sự sáng tạo riêng của mỗi người biểu diễn tạo nên hình tượng biểu diễn gắn liền với
tên tuổi của họ. Mặt khác, hình tượng đó có ý nghĩa cả về kinh tế đối với người biểu
diễn, là yếu tố quan trọng thu hút khán giả thưởng thức chương trình biểu diễn. Do
vậy, người biểu diễn cần được bảo hộ về hình tượng biểu diễn, tránh việc người khác
lợi dụng hoặc xuyên tạc.
Quyền nhân thân này cũng phải được bảo hộ không chỉ với cuộc biểu diễn hoàn
chỉnh mà còn với bất kì phần đáng kể nào của cuộc biểu diễn. Ví dụ, việc chỉ phát
sóng một phần nhất định của cuộc biểu diễn không thể là lý do hợp lý cho bất kì hành
vi cắt xén, sửa chữa nào đối với phần biểu diễn đó gây phương hại đến danh tiếng
người biểu diễn.
Tuy nhiên, quyền này không ngăn cấm những chỉnh sửa kĩ thuật thông thường hoặc
những thao tác kĩ thuật cần thiết trong quá trình thực hiện bản ghi, chương trình phát
sóng
Căn cứ theo khoản 2 điều 45 LSHTT thì
“2. Tác giả không được chuyển nhượng các quyền nhân thân quy định tại Điều 19,
trừ quyền công bố tác phẩm; người biểu diễn không được chuyển nhượng các quyền
nhân thân quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này”.
Căn cứ theo khoản 2 điều 47 LSHTT thì :


Nhóm 2

Page 13


Quyền của người biểu diễn
“ 2. Tác giả không được chuyển quyền sử dụng các quyền nhân thân quy định tại
Điều 19, trừ quyền công bố tác phẩm; người biểu diễn không được chuyển quyền sử
dụng các quyền nhân thân quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này”.
Như vậy, các quyền nhân thân của người biểu diễn, tương tự như các quyền nhân
thân của tác giả (trừ quyền công bố tác phẩm), là những quyền không được chuyển
nhượng.
Quy định này về cơ bản giống như điều 6 của Công ước Berne về quyền nhân thân
của tác giả, nhưng mức độ bảo hộ thấp hơn một chút (đối với quyền được công nhận là
người biểu diễn, yếu tố khả thi được tạo ra và phạm vi của quyền tôn trọng cũng hẹp
hơn). Đây là những quyền đặc biệt riêng của người biểu diễn so với các chủ thể quyền
liên quan còn lại và thể hiện mối quan hệ mật thiết với quyền tác giả.
2.2.2.

Quyền tài sản

Bên cạnh các quyền nhân thân, các quyền tài sản của người biểu diễn có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Các quyền này được quy định trong Khoản 3 Điều 29 Luật sở hữu
trí tuệ và bao gồm có 4 quyền sau:

 Định hình trực tiếp cuộc biểu diễn của mình bằng bản ghi âm, ghi hình:
Quyền này được hiểu là quyền được ghi âm, ghi hình trực tiếp các cuộc biểu diễn.
Theo đó, chủ thể quyền có thể tự mình thực hiện việc định hình trực tiếp cuộc biểu
diễn, có thể thông qua người khác thực hiện công việc này theo mục đích và vì lợi ích
của mình, hoặc có quyền cho hay không cho phép người khác ghi âm, ghi hình cuộc

biểu diễn đó. Quyền này áp dụng cho toàn bộ cuộc biểu diễn cũng như từng phần đáng
kể của nó.
Cần lưu ý việc định hình ở đây phải là “trực tiếp”, có nghĩa phải là việc ghi thu,
lưu định lại âm thanh hoặc hình ảnh từ chính cuộc biểu diễn đang diễn ra lên một vật
mang chứa thông tin chứ không phải từ một bản ghi hay chương trình phát sóng nào
khác.
 Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của
mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp
cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng:
Nhóm 2

Page 14


Quyền của người biểu diễn
Căn cứ theo khoản 3 điều 31 LSHTT giải thích về quyền của người biểu diễn:
“3. Truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình
quy định tại điểm c khoản 3 Điều 29 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc phổ biến cuộc biểu
diễn chưa được định hình đến công chúng bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào ngoài
phát sóng”.
Quyền này cho phép chủ thể quyền kiểm soát mọi sự tiếp cận, phổ biến của cuộc
biểu diễn tới công chúng, miễn là cuộc biểu diễn thỏa mãn điều kiện: không phải nhằm
mục đích phát sóng và chưa được định hình.
 Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình
trên bản ghi âm, ghi hình:
Căn cứ theo quy định tại khoản 10 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ giải thích là:
“ Việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình
bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình
thức điện tử "
Như vậy, sao chép cuộc biểu diễn là việc tạo ra bản sao của bản ghi âm, ghi hình

cuộc biểu diễn.
Trong đó, theo Điều 31 Nghị định 100/2006/NĐ-CP, được coi là
“ 1. Sao chép trực tiếp cuộc biểu diễn đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình
theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 29 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc tạo ra các
bản sao khác từ chính bản ghi âm, ghi hình đó.
3. Sao chép gián tiếp cuộc biểu diễn đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình
theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 29 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc tạo ra các
bản sao khác không từ chính bản ghi âm, ghi hình đó như việc sao chép từ mạng
thông tin điện tử, chương trình phát sóng, dịch vụ mạng bưu chính viễn thông liên
quan và các hình thức tương tự khác”.
Như vậy, quyền này đòi hỏi cần phải có được sự cho phép của người biểu diễn đối
với việc tạo ra mọi bản sao của cuộc biểu diễn của họ, bất kể bản sao đó được tạo ra
một cách trực tiếp hay gián tiếp. Mặt khác, có thể thấy khái niệm “sao chép” cũng

Nhóm 2

Page 15


Quyền của người biểu diễn
được mở rộng hơn so với quan niệm truyền thống: không chỉ là sao chép dưới hình
thức vật chất hữu hình bằng kỹ thuật tương tự, mà cả “ dưới hình thức điện tử ”.
 Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình
thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ
thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được:
Quyền phân phối này được coi là bị xâm phạm khi một người đưa bản ghi cuộc
biểu diễn tiếp cận tới công chúng mà không được sự cho phép của người biểu diễn
hoặc người nắm giữ hợp pháp quyền này.
Việc hưởng thù lao trong trường hợp trên của người biểu diễn được quy định tại
khoản 4 điều 29 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam:

“Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng các quyền quy định tại khoản 3 Điều này
(các quyền tài sản) phải trả tiền thù lao cho người biểu diễn theo quy định của pháp
luật hoặc theo thỏa thuận trong trường hợp pháp luật không quy định ”
Trên đây là các quyền nhân thân và quyền tài sản mà pháp luật sở hữu trí tuệ Việt
Nam quy định là “ quyền của người biểu diễn ”. Song, không phải trong mọi trường
hợp, người biểu diễn đều được hưởng đầy đủ các quyền nói trên, mà việc được hưởng
quyền nào cần phải căn cứ vào tư cách chủ thể của họ đối với cuộc biểu diễn. Người
biểu diễn có thể chỉ đơn thuần mang tư cách người biểu diễn nhưng cũng có thể đồng
thời là chủ sở hữu đối với cuộc biểu diễn đó nếu tự mình đầu tư thực hiện cuộc biểu
diễn. Nếu người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thực hiện cuộc biểu diễn thì có
quyền nhân thân và tài sản, còn nếu chỉ đơn thuần là người biểu diễn thì người đó có
quyền nhân thân, ngoài ra họ còn được hưởng một khoản tiền thu lao khi người khác
sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích thương mai để thực
hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kì hình thức
nào, hoặc sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố trong hoạt động kinh doanh
thương mai. Việc hưởng tiền thù lao của người biểu diễn trong các trường hợp này tùy
thuộc vào thỏa thuận giữa người biểu diễn với nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình khi
thực hiện chương trình ghi âm, ghi hình.
2.3.
Nhóm 2

Hành vi xâm phạm của quyền liên quan.
Page 16


Quyền của người biểu diễn
Căn cứ theo điều 34 LSHTT quy định:
“1. Chiếm đoạt quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức
phát sóng.
2. Mạo danh người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.

3. Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
4. Sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào đối với cuộc biểu diễn gây
phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
5. Sao chép, trích ghép đối với cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
6. Dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không được
phép của chủ sở hữu quyền liên quan.
7. Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền liên quan
thực hiện để bảo vệ quyền liên quan của mình.
8. Phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng cuộc biểu diễn, bản
sao cuộc biểu diễn đã được định hình hoặc bản ghi âm, ghi hình khi biết hoặc có cơ
sở để biết thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử đã bị dỡ bỏ hoặc đã bị thay
đổi mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.
9. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê
thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó giải mã trái phép một tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hoá.
10. Cố ý thu hoặc tiếp tục phân phối một tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hoá khi tín hiệu đã được giải mã mà không được phép của người phân phối hợp
pháp”.
2.4.

Nhóm 2

Quy định về quyền của người biểu diễn trong điều ước quốc tế

Page 17



Quyền của người biểu diễn
Theo quy định tại điều 3a Công ước Rome 1961 (Công ước quốc tế bảo hộ người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng) định nghĩa “người biểu diễn” là
các diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người khác đóng vai diễn, hát, đọc
ngâm, trình bày hoặc thể hiện tác phẩm văn học và nghệ thuật. Cụ thể tại điều 7 Công
ước Rome 1961 quy định về:
“Bảo hộ tối thiểu dành cho người biểu diễn ngăn cấm những hành vi:
Phát sóng hoặc truyền phát tới công chúng buổi biểu diễn của người biểu diễn mà
không có thỏa thuận, trừ khi bản thân buổi biểu diễn đã là một chương trình phát sóng
hoặc đã được thực hiện từ một bản ghi âm
Định hình buổi biểu diễn chưa được định hình của người biểu diễn không có sự
thỏa thuận
Sao chép bản ghi buổi biểu diễn không có sự thoả thuận
Nếu thực hiện việc định hình chính bản ghi âm gốc không có sự thoả thuận;
Nếu sự sao chép này thực hiện với mục đích khác với các mục đích đã thoả thuận
với những người biểu diễn;
Nếu định hình bản gốc theo các quy định của Điều 15 (Sử dụng cá nhân; Sử dụng
các trích dẫn ngắn nhằm mục đích đưa tin thời sự; Ghi âm tạm thời do một tổ chức
phát sóng thực hiện bằng các phương tiện riêng phục vụ buổi phát sóng của chính
họ; Sử dụng chỉ nhằm mục đích nghiên cứu và giảng dạy) của Công ước nhưng sự
sao chép lại thực hiện với mục đích khác với các mục đích đã ghi trong các quy định
đó”.
3. Chuyển giao quyền của người biểu diễn
Các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn không phải luôn luôn thuộc
về người biểu diễn. Ngoài các quyền nhân thân là quyền không thể chuyển giao, chủ
sở hữu quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn có thể là tổ chức, cá nhân khác được
chuyển giao quyền hoặc tổ chức, cá nhân đã đầu tư tài chính, kinh phí và cơ sở vật
chất để thực hiện cuộc biểu diễn. Khi đó người biểu diễn chỉ còn lại các quyền nhân
thân, còn chủ sở hữu quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn được quyền thực hiện hoặc

cho phép người khác thực hiện các quyền tài sản theo luật định. Các quyền tài sản gắn
Nhóm 2

Page 18


Quyền của người biểu diễn
liền và là cơ sở pháp lý để khai thác các lợi ích kinh tế từ cuộc biểu diễn, do đó trong
hợp đồng chuyển giao quyền hay hợp đồng biểu diễn cần xác định rõ chủ sở hữu
quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn. Trên thực tế, tại Việt Nam trong những năm trước
đây, khi thực hiện cuộc biểu diễn, ghi âm cuộc biểu diễn các bên thường thiếu thỏa
thuận bằng văn bản đối với vấn đề này, dẫn đến phát sinh tranh chấp trong quá trình
khai thác và sử dụng cuộc biểu diễn, đặc biệt đối với việc sử dụng lại bản ghi âm cuộc
biểu diễn vào mục đích thương mại.
Trừ quyền công bố tác phẩm; người biểu diễn không được chuyển nhượng
các quyền nhân thân như: Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm,
ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn; Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không
cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
4. Giới hạn quyền của người biểu diễn
Bảo vệ quyền liên quan là bước đi cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của những người đã có công trong việc truyền tải các tác phẩm đến công chúng đồng
thời khuyến khích sự sáng tạo. Pháp luật đã quy định cho các chủ thể này những độc
quyền trong việc sử dụng, khai thác thành quả sáng tạo của mình. Tuy nhiên, để xã hội
có thể tiếp cận cũng như thưởng thức một cách công bằng thì cần có sự hài hòa giữa
các đặc quyền của chủ sở hữu quyền liên quan với quyền được thưởng thức của công
chúng.
Hầu hết pháp luật của các quốc gia đều có quy định về giới hạn quyền liên quan.
Đó là những hạn chế về quyền liên quan hay còn được hiểu như là các “ngoại lệ” của
quyền liên quan. Trong những trường hợp đặc biệt nhằm đáp ứng các nhu cầu chính

đáng phục vụ công tác thông tin, nghiên cứu khoa học, giảng dạy và chính sách xã hội;
pháp luật cho phép sử dụng quyền liên quan mà không phải xin phép và tùy thuộc mục
đích sử dụng mà phải trả tiền nhuận bút, thù lao hoặc không nhưng phải ghi hoặc nhắc
tên tác giả và nguồn gốc xuất xứ của tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng. Luật Sở hữu Trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã dẫn
ra các trường hợp cụ thể.
4.1.
Nhóm 2

Các nguyên tắc giới hạn quyền của người biểu diễn
Page 19


Quyền của người biểu diễn
Nguyên tắc thứ nhất là việc sử dụng không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình
thường cuộc biểu diễn, không gây phương hại đến quyền của người biểu diễn
Nguyên tắc thứ hai là trong quá trình sử dụng, các chủ thể phải tôn trọng quyền của
người biểu diễn như thông tin về người biểu diễn, thông tin về cuộc biểu diễn…
4.2.

Các trường hợp giới hạn quyền của người biểu diễn

Cũng như quyền tác giả, quyền liên quan cũng chịu những giới hạn nhất định.
Những giới hạn này hạn chế độc quyền của chủ sở hữu quyền liên quan ở mức độ hợp
lý vì mục đích bảo vệ lợi ích chung, đáp ứng yêu cầu của xã hội sử dụng trong một số
trường hợp. Đó là các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép,
không phải trả nhuận bút, thù lao và các trường hợp sử dụng quyền liên quan không
phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.

 Các trường hợp sử dụng cuộc biểu diễn không phải xin phép không phải trả

tiền thù lao
Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phải xin phép, không phải
trả tiền thù lao được quy định tại điều 32, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009):
“ Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu hoa học của cá nhân;
Tự sao chép một bản nhằm mục đích giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được công bố để giảng dạy;
Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung cấp thông tin;
Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng hi được hưởng quyền phát
sóng”.
Cụ thể các hành vi này còn đươc làm rõ tại điều 32 LSHTT:
“ Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không nhằm mục đích thương mại thì
không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao, bao gồm:
1. Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học của cá nhân quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 32 của Luật Sở hữu trí tuệ.
2. Tự sao chép một bản nhằm mục đích giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được công bố để giảng dạy quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 32 của Luật Sở hữu trí tuệ”.
Nhóm 2

Page 20


Quyền của người biểu diễn
Căn cứ theo điều 33 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009) quy định về việc trích
dẫn. Theo đó, việc trích dẫn cần phải xem xét trên các yếu tố cụ thể:
“ Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung cấp thông tin quy định tại điểm c khoản 1
Điều 32 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc sử dụng các trích đoạn nhằm mục đích thuần
tuý đưa tin, phải phù hợp với các điều kiện sau:
1. Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề
trong việc cung cấp thông tin;

2. Số lượng và thực chất của phần trích dẫn từ cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng không gây phương hại đến quyền của người biểu diễn,
quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng đối với
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng được sử dụng để trích
dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng được sử dụng để trích dẫn”.
Căn cứ theo điều 34, Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009) quy định về bản sao
tạm thời. Theo đó, bản sao tạm thời được hiểu như sau:
“ Bản sao tạm thời của tổ chức phát sóng được hưởng quyền phát sóng quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 32 của Luật Sở hữu trí tuệ là bản định hình có thời hạn, do tổ
chức phát sóng thực hiện bằng các phương tiện thiết bị của mình, nhằm phục vụ cho
buổi phát sóng ngay sau đó của chính tổ chức phát sóng. Trong trường hợp đặc biệt
thì bản sao đó được lưu trữ trong trung tâm lưu trữ chính thức”.
Như vậy, các quy định của pháp luật nhằm hạn chế việc độc quyền từ các tác giả,
người biểu diễn. bằng việc giới hạn quyền của người biểu diễn trong những trường
hơp trên nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi cho người biểu diễn. bằng việc chỉ sao chép
một bản,
 Các trường hợp sử dụng cuộc biểu diễn không phải xin phép nhưng phải trả
tiền thù lao.
Căn cứ theo điều 33, Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009) quy định:

Nhóm 2

Page 21


Quyền của người biểu diễn
“ a) Sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm
mục đích thương mại để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc
thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;

b) Sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố trong hoạt động kinh doanh,
thương mại”.
Các trường hợp ngoại lệ này bao gồm các tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc
gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng
(hay chỉ đơn thuần là sử dụng các bản ghi này trong hoạt động kinh doanh, thương
mại) có hoặc không có tài trợ, quảng cáo, thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không
phải xin phép nhưng phải trả tiền thù lao theo thỏa thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi
sử dụng.
Căn cứ theo khoản 1 điều 35 NĐ 100/2006 quy định cụ thể về việc sử dụng trực
tiếp hay gián tiếp bản ghi âm, ghi hình cũng phải thanh toán thù lao cho người biểu
diễn.
“ 1. Sử dụng trực tiếp bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích
thương mại để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền
dưới bất kỳ hình thức nào quy định tại điểm a khoản 1 Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ
là việc tổ chức phát sóng dùng chính bản ghi âm, ghi hình đó để phát sóng bằng
phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến, bao gồm cả việc truyền qua vệ tinh, môi trường
kỹ thuật số.
Sử dụng gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích thương
mại để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất
kỳ hình thức nào quy định tại điểm a khoản 1 Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc
tiếp sóng, phát lại chương trình đã phát sóng; chuyển chương trình trong môi trường
kỹ thuật số lên sóng”.
Căn cứ theo khoản 2 điều 35 NĐ 100/2006 quy định cụ thể về những trường hợp
được xem là sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích thương
mại để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất cứ hình thức nào:

Nhóm 2

Page 22



Quyền của người biểu diễn
“Sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố trong hoạt động kinh doanh,
thương mại quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc tổ
chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã được công bố
để sử dụng tại nhà hàng, khách sạn, cửa hàng, siêu thị; cơ sở kinh doanh dịch vụ
karaoke, dịch vụ bưu chính, viễn thông, môi trường kỹ thuật số; trong các hoạt động
du lịch, hàng không, giao thông công cộng và các hoạt động kinh doanh, thương mại
khác”.
Bên cạnh đó, người biểu diễn còn được hưởng thù lao từ những bản ghi âm, ghi
hình trên sự thỏa thuận giữa người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình:
“ Việc hưởng tiền thù lao của người biểu diễn trong trường hợp bản ghi âm, ghi
hình được sử dụng quy định tại Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ tuỳ thuộc vào thoả
thuận của người biểu diễn với nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình khi thực hiện chương
trình ghi âm, ghi hình.
Tỉ lệ phân chia tiền nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác do các chủ
thể quyền hoặc tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan thoả thuận.
Các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan có thể ủy thác cho một
tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan thực hiện việc thu và phân
phối tiền nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác. Tổ chức đại diện tập thể
quyền tác giả, quyền liên quan được ủy thác được hưởng một khoản phí nhất định
theo thoả thuận”.
Trong thực tế, nhiều chủ sở hữu quyền liên quan đã được hưởng nhuận bút và thù
lao từ việc sử dụng trên. Cụ thể Đài truyền hình Việt Nam và Đài phát thanh và truyền
hình của 15 tỉnh, thành phố đã thanh toán tiền cho chủ sở hữu khi sử dụng các tác
phẩm và bản ghi âm, ghi hình vì mục đích thực hiện các quảng cáo. Hãng hàng không
Việt Nam đã mua bản quyền các bản ghi âm, ghi hình để phát trên các tuyến hàng
không.
Tổ chức, cá nhân sử dụng những quyền trong các trường hợp nêu trên không được

làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng và không gây phương hại đến quyền của người biểu diễn, nhà
sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tồ chức phát sóng.
Nhóm 2

Page 23


Quyền của người biểu diễn
5. Thời hạn bảo hộ
5.1.
Cơ sở pháp lý.
Quyền của người biểu diễn không được bảo hộ vô thời hạn. Pháp luật quy định một
thời hạn nhất định. Thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn được trong quy định ở
pháp luật trong nước và ngay cả trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Đối với pháp luật trong nước thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn được quy
định tại Điều 34 Luật Sở hữu trí tuệ.
Đối với pháp luật quốc tế thời thạn bảo hộ quyền của người biểu diễn được quy
định tại Điều 14 Công ước Rome 1961, trong Hiệp định TRIPS và trong Hiệp ước của
WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT) (1996) cụ thể tại Điều 17.
5.2.
Nội dung quy định pháp lý tại Việt Nam.
Nội dung của quy định thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn được quy định
tai Điều 34 LSHTT cụ thể như sau:
“Quyền của người biểu diễn được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo
năm cuộc biểu diễn được định hình.
Thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày
31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ các quyền liên quan”.
Đặc điểm chung của các quyền sở hữu trí tuệ là việc bảo hộ giới hạn về mặt thời
gian, tức là khi hết thời hạn bảo hộ thì quyền này cũng chấm dứt. Đối với quyền liên

quan, thời hạn này là 50 năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình;
bản ghi âm, ghi hình được công bố hoặc định hình (nếu chưa được công bố); chương
trình phát sóng được thực hiện. Quy định giới hạn quyền như trên vừa vẫn đảm bảo lợi
ích chính đáng của chủ sở hữu quyền liên quan vừa tính đến lợi ích của người sử dụng,
công chúng hưởng thụ.
Xét thấy, quyền liên quan trong sự so sánh vớ quyền tác giả. Đối với quyền tác giả
các quyền tài sản và quyền nhân thân có thể chuyển giao được quy định tại khoản 3
điều 19 LSHTT ( quyền công bố tác phẩm) được bảo hộ với thời hạn thông thường là
suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết, đối với các quyền nhân
thân gắn liên với tác giả tại khoản 1,2 và 4 điều 19 LSHTT được bảo hộ vô thời hạn.
Khoản thời gian bảo hộ quyền của tác giả là khá dài và đối với quyền nhân thân thì
thời hạn là không xác định. Nhưng đối với quyền liên quan thì sự bảo hộ trên phạm vi
Nhóm 2

Page 24


Quyền của người biểu diễn
quốc tế cũng như pháp luật sở hữu trí tuệ hầu hết các quốc gia đề giới hạn thời gian
bảo hộ ở mức nhất định, thường là 50 năm kể từ khi các đối tượng (cuộc biểu diễn)
được định hình. Khoảng thời gian này là ngắn hơn nhiều so với thời gian bảo hộ của
quyền tác giả.
Thời gian bảo hộ như trên xác định ngay cả đối với các quyền nhân thân của người
biểu diễn, thời hạn này khác với thời hạn bảo hộ của quyền tác giả. Nếu như quyền
nhân thân được quy định tại khoản 1, 2 và 4 điều 19 LSHTT là vô thời hạn thì quyền
nhân thân của người biểu diễn chỉ là 50 năm tính từ năm tiếp theo năm của cuộc biểu
diễn được định hình. Điều này không có nghĩa là tồn tại một sự bất bình dẳng nào đó
giữa quyền liên quan với quyền tác giả mà được giải thích bằng việc , quyền nhân thân
của người biểu diễn chỉ có thể được thực hiện và bảo đảm khi bản định hình cuộc biểu
diễn còn tốn tại, trong khi đó, do đặc tính kỹ thuật, các bản định hình cuộc biểu diễn

chỉ có thể được bảo quan trong thời hạn nhất định, điều đó khiến việc quy định bảo hộ
các quyền nhân thân trong quyền liên quan một các vô thời hạn được xem như trở nên
không cần thiết và không khả thi.
5.3.
Nội dung quy định pháp lý trong điều ước quốc tế.
Thời hạn quyền của người biểu diễn được quy định khá nhiều trong các điều ước
quốc tế. Tuy nhiên các điều ước quốc tế này không có sự giống nhau trong quy định
thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn. Đồng thời các điều ước quốc tế này không
quy định thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn cụ thể mà chỉ quy định thời hạn
bảo hộ tối thiểu, việc thời hạn bảo hộ kéo dài bao lâu sẽ là do các quốc gia thành viên
quy định so với mức bảo hộ tối thiểu đã được thỏa thuận.
Theo Công ước Rome 1961quy định thời han bảo hộ được hưởng theo Công ước
này phải kéo dài ít nhất cho đến khi hết thời hạn là 20 năm kể từ cuối năm:
“ Thực hiện định hình bản ghi âm đối với các bản ghi âm và đối với các tiết mục
biểu diễn trong bản ghi âm đó.
Tổ chức biểu diễn đối với các buổi biểu diễn không định hình trong các bản ghi
âm”.
Theo Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT) 1996quy định
tạiĐiều 17về thời hạn bảo hộ như sau:
Nhóm 2

Page 25


×