Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Thể loại truyện Nôm trong chương trình ngữ văn phổ thông (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGÔ THU HƯƠNG

THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGÔ THU HƯƠNG

THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN PHỔ THÔNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Dương Thu Hằng

THÁI NGUYÊN - 2019



i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn: “Thể loại truyện Nôm trong chương
trình Ngữ văn phổ thông” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả luận văn

Ngô Thu Hương


ii

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành nhất của mình, em xin bày tỏ lòng kính trọng
và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Dương Thu Hằng, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu, khoa
Báo chí - Truyền thông và văn học, trường Đại học Khoa học - Đại học Thái
Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình học tập và
nghiên cứu luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu trường THPT Đại Từ và các
đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè và những người thân đã động viên và
nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019

Tác giả luận văn

Ngô Thu Hương


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................... v
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 7
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 8
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
NỘI DUNG ...................................................................................................... 10
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................................................... 10

1.1. Một số vấn đề chung về thể loại truyện Nôm .......................................... 10
1.1.1. Khái niệm truyện Nôm .......................................................................... 10
1.1.2. Phân loại truyện Nôm............................................................................ 11
1.1.3. Đặc điểm cơ bản của truyện Nôm ......................................................... 13
1.1.4. Vị trí, vai trò của thể loại truyện Nôm trong nền văn học dân tộc ....... 18

1.2. Truyện Kiều của Nguyễn Du và một số trích đoạn Truyện Kiều trong
chương trình phổ thông ........................................................................... 19
1.2.1. Những đặc điểm cơ bản về tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du ..... 19
1.2.2. Các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn phổ thông
hiện hành ............................................................................................... 25
1.3. Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu và một số trích đoạn
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu trong chương trình........ 26
1.3.1. Những đặc điểm cơ bản về Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu . 26
1.3.2. Các trích đoạn Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu trong
chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành ........................................... 30


iv
Chương 2. THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH SÁCH
GIÁO KHOA NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN HÀNH .................................. 33

2. 1. Những tri thức cơ bản về thể loại truyện Nôm được giảng dạy trong
chương trình SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành .................................. 33
2.1.1. Tri thức về Truyện Kiều ........................................................................ 33
2.1.2. Tri thức về Truyện Lục Vân Tiên .......................................................... 36
2.2. Khảo sát thực trạng dạy - học thể loại truyện Nôm trong chương trình
Ngữ văn tại nhà trường phổ thông hiện nay ........................................... 39
2.2.1. Mục đích khảo sát ................................................................................. 39
2.2.2. Đối tượng và địa bàn khảo sát............................................................... 40
2.2.3. Nội dung và cách thức khảo sát ............................................................ 40
2.3. Kết quả điều tra thực trạng ....................................................................... 41
2.3.1. Kết quả trắc nghiệm khách quan và kết quả khảo sát tự luận - một số
ý kiến luận giải, đề xuất tiêu biểu ......................................................... 41
2.3.2. Một số nhận xét ..................................................................................... 41
Chương 3. PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH PHẦN THỂ LOẠI TRUYỆN

NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH SGK NGỮ VĂN PHỔ THÔNG MỚI ...... 52

3.1. Điều chỉnh hệ thống tri thức về truyện Nôm trong chương trình SGK
ngữ văn phổ thông................................................................................... 53
3.1.1. Tồn tại ................................................................................................... 53
3.1.2. Đề xuất .................................................................................................. 55
3.2. Dạy học thể loại truyện Nôm trong chương trình ngữ văn phổ thông
theo chủ đề .............................................................................................. 59
3.2.1. Chủ đề đạo lý ........................................................................................ 60
3.2.2. Chủ đề tình yêu ..................................................................................... 72
KẾT LUẬN...................................................................................................... 83
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 88
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 104


v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nội dung được viết tắt

GV

Giáo viên

HS


Học sinh

NXB
PGS TS

Nhà xuất bản
Phó giáo sư tiến sĩ

SGK

Sách giáo khoa

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam được hình thành, phát triển trong một thời
gian dài (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX) và đã để lại những thành tựu rực rỡ,
tự hào cho nền văn học nước nhà. Từ chỗ tiếp thu và ảnh hưởng sâu sắc văn
hóa, văn học Trung Hoa, ông cha ta đã dần tạo nên diện mạo riêng cho nền
văn học dân tộc: những sáng tác văn học bằng chữ Nôm xuất hiện từ khoảng

thế kỉ XIII, đến thế kỉ XV- XVI và đã có những tác giả văn học chữ Nôm nổi
tiếng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm; những thể loại văn học của dân
tộc xuất hiện như Ngâm khúc, Truyện Nôm, Hát nói. Trong những thể loại
văn học được viết bằng ngôn ngữ dân tộc của nền văn học trung đại Việt
Nam, truyện Nôm là một thể loại đạt được nhiều thành tựu rực rỡ nhất, để lại
dấu ấn sâu sắc nhất, được đông đảo quần chúng nhân dân yêu thích và là đỉnh
cao sự phát triển văn học trung đại Việt Nam suốt 10 thế kỷ. Cho đến hôm
nay, những tác phẩm truyện Nôm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu… vẫn luôn khẳng định sức sống lâu
bền và là niềm tự hào của người Việt Nam.
Trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông, việc lựa chọn những thể loại
văn học, các tác giả, tác phẩm giảng dạy cho học sinh (HS) có rất nhiều tiêu
chí đưa ra đòi hỏi các nhà biên soạn sách phải trăn trở hướng tới để đáp ứng
được mục tiêu giáo dục đạo đức, nhân cách, trí tuệ… cho các em một cách
phù hợp nhất với từng lớp học, cấp học. Và trong số những thể loại được chọn
đưa vào chương trình phổ thông môn Ngữ văn không khi nào thiếu vắng
truyện Nôm. Những đoạn trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đã được đưa vào chương trình môn
Ngữ văn ở cả bậc trung học cơ sở (THCS) và bậc trung học phổ thông
(THPT). Đó là minh chứng cho thấy, thể loại truyện Nôm có một vị trí rất
quan trọng trong chương trình giáo dục ở phổ thông.


2

Theo Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, một yêu cầu
mới đặt ra là phải đổi mới căn bản, toàn diện chương trình giáo dục theo định
hướng phát triển năng lực người học. Trong môn Ngữ văn, điều cần được
quan tâm và nhìn nhận đúng đắn hơn là không chỉ chú trọng dạy cái gì cho
HS mà cần phải chú ý tới việc tổ chức các hoạt động dạy học hợp lý, hiệu quả

để phát huy tốt nhất năng lực của người học. Đối với các tác phẩm văn học
trung đại, khoảng cách về thời gian và cả về văn hóa với HS phổ thông là khá
xa, nếu chỉ chú trọng dạy cái gì từ văn bản HS sẽ luôn cảm thấy khó hiểu,
không hứng thú với bài học và hiệu quả dạy học sẽ khó đạt như mong muốn.
Phải làm sao cho văn học gần với đời sống hơn, định hướng cho các em thấy
được mối liên hệ giữa văn học với đời sống để môn ngữ văn trở nên thực sự
cần thiết và có hiệu quả với tất cả HS phổ thông là điều quan tâm suy nghĩ
của rất nhiều người. Là giáo viên (GV) dạy môn Ngữ văn ở phổ thông, trước
những yêu cầu mới của giáo dục hiện nay, chúng tôi luôn trăn trở suy nghĩ:
dạy những gì và dạy như thế nào để tác phẩm văn học trung đại nói chung,
các đoạn trích trong những truyện thơ Nôm nổi tiếng của dân tộc nói riêng
(Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên) được HS đón nhận một cách hào hứng
trong giờ học, để có thể phát huy một cách tốt nhất năng lực của các em và
đồng thời định hướng cho HS có được những suy ngẫm, trải nghiệm riêng sau
tiết học về cách sống, cách ứng xử với bản thân, với mọi người và môi trường
xung quanh một cách đúng đắn, hợp lý nhất. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn đề
xuất nghiên cứu đề tài: Thể loại truyện Nôm trong chương trình ngữ văn
phổ thông với mong muốn góp thêm góc nhìn mới về thể loại truyện Nôm
trong hành trình tiếp nhận và để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học môn
Ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Với ý thức dân tộc sâu sắc, bằng tài năng sáng tạo tuyệt vời, ông cha ta
đã sáng tạo ra chữ Nôm và cùng với đó là thể loại văn học viết bằng chữ


3

Nôm. Cho đến nay có thể tự hào khẳng định truyện thơ Nôm có sức hấp dẫn,
sức sống bền lâu trong lòng độc giả và là đỉnh cao của sự phát triển văn học
trung đại Việt Nam. Để phổ biến rộng rãi trong nhân dân, cuối thế kỉ XIX,

một số truyện Nôm đã được phiên âm ra chữ quốc ngữ như Truyện Kiều,
Phan Trần, Truyện Lục Vân Tiên. Khi nghề in ấn phát triển vào đầu thế kỉ
XX, truyện Nôm được in, xuất bản ở một số thành phố lớn như Sài Gòn, Hải
Phòng, Hà Nội. Và cho đến nay, truyện Nôm vẫn luôn thu hút được sự quan
tâm đặc biệt của công chúng. Với giá trị sâu sắc về nhiều mặt, truyện Nôm
luôn được giới nghiên cứu quan tâm, viết nên nhiều công trình khám phá về
thể loại văn học đặc biệt này. Được biết đến nhiều nhất là những công trình
nghiên cứu như: Kiều Thu Hoạch trong luận án PTS KH Ngữ văn “Truyện
Nôm bình dân của người Việt, lịch sử hình thành và bản chất thể loại”, Đặng
Thanh Lê với cuốn “Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm”. Với sự đam mê
nghiên cứu của mình về thể loại truyện này, Kiều Thu Hoạch đã tiếp tục xuất
bản cuốn “Thi pháp truyện Nôm”. Ngoài ra còn có rất nhiều các bài viết đăng
trên các báo, tạp chí văn học thể hiện sự quan tâm tìm tòi, nghiên cứu rất sâu
sắc về thể loại truyện Nôm như: “Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm”
của Đặng Thanh Lê, “Thể loại truyện Nôm và sự phát triển của thể loại văn
học trung đại Việt Nam” của Đoàn Thị Giang.
Trong những công trình nghiên cứu về truyện Nôm kể trên, các tác giả
đã đi sâu tìm hiểu về những vấn đề như nguồn gốc, nội dung, nghệ thuật, vị
trí…của thể loại này. Đặc biệt trong cuốn “Truyện Nôm nguồn gốc bản chất
và thể loại”, tác giả Kiều Thu Hoạch đã tập trung nghiên cứu chủ yếu vào vấn
đề thể loại, đi sâu tìm hiểu nguồn gốc, quá trình hình thành phát triển thể loại,
qua đó chỉ ra giá trị sâu sắc của truyện Nôm: “Xu hướng chung của truyện
Nôm là đề cao trung, hiếu, tiết nghĩa, nhưng trong đa số truyện Nôm, nhất là
truyện Nôm nguồn gốc ở truyện dân gian thì đó là thứ trung, hiếu, tiết, nghĩa
theo quan điểm dân gian” [7, tr22].


4

Những công trình nghiên cứu bề thế, có giá trị kể trên là những tài liệu

quý báu, tạo cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu những tác phẩm truyện
Nôm của nền văn học trung đại Việt Nam.
Trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông, truyện thơ Nôm luôn có một
vị trí xứng đáng, được chọn dạy trong nhiều tiết học ở lớp 9, 10 và bài đọc
thêm ở lớp 11. Với giá trị đặc biệt về nội dung và nghệ thuật, truyện Nôm
thực sự có vai trò quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ từ nếp cảm, nếp
nghĩ đến đạo đức, nhân cách, lối sống, cách hành xử… trong cuộc sống của
các em. Đến với truyện Nôm, HS còn có thể biết được những hình thức nghệ
thuật đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Hai tác giả tiêu biểu của thể loại truyện
Nôm bác học được chọn dạy trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông là
Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu - những tác gia văn học lớn của dân tộc.
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu và viết nên những cuốn
sách, những công trình phục vụ cho việc tìm hiểu những tác phẩm truyện
Nôm trong chương trình ngữ văn nhưng chủ yếu là tìm hiểu riêng từng tác
phẩm, từng đoạn trích, hay một khía cạnh của truyện Nôm trong chương trình
như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ… Vấn đề thể loại truyện Nôm trong
chương trình phổ thông chưa được nhìn nhận một cách hệ thống và toàn diện.
Trong cuốn “Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc
nhìn thể loại”, Lã Nhâm Thìn đã đem đến cho người đọc cách nhìn thiết thực
đối với việc nghiên cứu, giảng dạy văn học từ góc nhìn thể loại. Chương V
của cuốn sách đã đề cập đến đặc điểm và phương pháp phân tích truyện thơ,
những định hướng khi phân tích một số đoạn trích trong truyện thơ: “Truyện
được kể bằng thơ nên đặc điểm nổi bật nhất của truyện Nôm là sự kết hợp
giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình” [25, tr238]. Hay “Truyện Nôm bác học
một mặt khẳng định lễ giáo phong kiến, mặt khác lại đề cao tình yêu tự do,
khát vọng giải phóng tình cảm. Có những tác phẩm đề cập tới những vấn đề
đạo đức nhân sinh và xã hội sâu sắc như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện


5


Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Truyện Nôm bác học thường rất chau
chuốt về nghệ thuật” [25, tr238].
Với kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, bên cạnh những đặc điểm
chung của truyện thơ Nôm còn có những sáng tạo đặc biệt của tác giả. Đặng
Thanh Lê trong cuốn sách “Giảng văn Truyện Kiều” đã thể hiện những
nghiên cứu sâu sắc về việc tìm hiểu và giảng dạy Truyện Kiều. Tác giả đã
trình bày quan điểm về phân tích Truyện Kiều theo hướng tiếp cận thi pháp
học và ngôn ngữ học. “Việc phân tích những đặc điểm trong thi pháp Truyện
Kiều cần được đặt trong mối quan hệ giữa ba “cấp độ” thi pháp: thi pháp tác
phẩm tự sự, thi pháp cổ điển và thi pháp Truyện Kiều. Nhìn nhận như vậy,
chúng ta có thể khám phá được những nét chung và nét riêng truyền thống
cộng đồng và cá tính sáng tạo, đó là quy luật phát triển của văn học cũng như
một cơ sở tạo nên thiên tài Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều” [11, tr12].
Khi phân tích ngôn ngữ Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê cũng lưu ý hai điều, đó
là: “phải chú trọng đến hiệu quả thông tin tối ưu hơn là tối đa” [11, tr12].
“Những đoạn thơ đã được chọn lọc trích giảng là những đoạn thơ ưu tú…
những từ ngữ, tứ thơ hay nhất thuộc hệ thống từ ngữ dân tộc và những điển
cố, thi liệu, từ ngữ Hán đã được sử dụng hết sức sáng tạo” [11, tr13].
Tác giả cuốn sách “Bình giải 10 đoạn trích trong Truyện Kiều”, Trương
Xuân Tiếu đã đem đến những định hướng hữu ích khi tìm hiểu một số đoạn
trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Với mỗi đoạn trích cần tìm hiểu, tác
giả đều giới thiệu về đoạn trích tương ứng trong Kim Vân Kiều truyện, giải
thích những thành ngữ tiếng Việt, những điển cố văn học Trung Quốc được
Nguyễn Du sử dụng trong đoạn trích ấy. Từ đó tạo cơ sở để tìm hiểu vị trí, bố
cục và phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.
Trong chương trình ngữ văn phổ thông hiện hành, Truyện Lục Vân Tiên
của Nguyễn Đình Chiểu được dạy học ở chương trình Ngữ văn lớp 9 và
chương trình Ngữ văn nâng cao lớp 11. Với Truyện Lục Vân Tiên, người dân
miền Nam ai cũng mến yêu, say mê thưởng thức. Tác phẩm này được các nhà



6

nghiên cứu dày công tìm hiểu thể hiện qua rất nhiều bài viết trong cuốn sách.
Giáo sư Nguyễn Đình Chú đã nhận xét: “Về thể loại truyện thơ, Lục Vân Tiên
của Đồ Chiểu đáng xếp vào hàng thứ hai sau Truyện Kiều của Nguyễn Du, sự
sáng tạo nghệ thuật ở sức sống, ở khả năng phô-cờ-lo-ri-dê (dân gian hóa)
của nó” [24, tr581]. Trong bài viết “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng
trong bầu trời văn nghệ dân tộc”, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng
định: “Cho nên các nhân vật của Lục Vân Tiên: Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga,
Tiểu đồng… là những người đáng quý, đáng yêu, trọng nghĩa, khinh tài, trước
sau một lòng, mặc dầu khổ cực, gian nguy, quyết phấn đấu vì nghĩa lớn. Họ
là những nhân vật của một thuở đã qua, điều đó không cần phải nói. Nhưng
họ là những con người có ruột gan, xương thịt. Họ sống trong một xã hội
cũng như biết bao xã hội từ xưa đến nay, có người tốt, kẻ xấu, người ngay, kẻ
gian, có nhiều đau khổ, bất công - họ đã đấu tranh không khoan nhượng
chống mọi gian dối bất công và họ đã thắng. Họ là những tấm gương dũng
cảm. Vì những lẽ đó họ gần gũi chúng ta và câu chuyện của họ làm chúng ta
xúc động và thích thú” [ 20, tr27].
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu thể loại truyện Nôm nói chung và những
truyện Nôm nổi tiếng như đã kể trên được đưa vào chương trình Ngữ văn phổ
thông hiện hành, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đã có những kết quả
tìm hiểu bề thế, có ý nghĩa và ảnh hưởng sâu sắc. Tiếp thu kết quả nghiên cứu
của những bậc tiền bối, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài Thể loại truyện
Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ thông nhằm có cái nhìn hệ thống hơn
về những truyện Nôm được đưa vào chương trình giảng dạy, và đó cũng là
cách để đưa văn học gần gũi với đời sống hơn góp phần bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa dân tộc qua những tác phẩm có giá trị đặc biệt trong nền văn
học trung đại Việt Nam.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thể loại truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ thông, đặc biệt là


7

những đoạn trích trong chương trình sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn hiện hành.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Góp phần làm rõ thêm giá trị của thể loại truyện thơ Nôm, đặc biệt là
các đoạn trích trong chương trình SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành.
- Góp phần phát triển chương trình SGK Ngữ văn phổ thông theo định
hướng của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (ban hành kèm
theo thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo) đồng thời cung cấp thêm tri thức nhằm nâng cao chất
lượng dạy học môn Ngữ văn ở phổ thông, làm cho tác phẩm văn học trung đại
trở nên gần gũi và được các em HS yêu mến, trân trọng và định hướng tốt hơn
cho sự phát triển nhân cách người học hiện nay.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến thể loại truyện Nôm, đặc biệt là
truyện Nôm của hai tác giả được dạy học trong chương trình phổ thông:
Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu.
- Thống kê các đoạn trích thuộc thể loại truyện Nôm có trong chương
trình phổ thông để từ đó tìm hiểu sâu sắc giá trị nội dung, nghệ thuật và đề
xuất hướng phát triển chương trình phù hợp nhằm phát huy năng lực người
học, đưa văn học gần với đời sống hơn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi vận dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu sau để thực
hiện luận văn:

- Phương pháp khảo sát, thống kê: Phương pháp này được sử dụng với
mục đích thống kê các đoạn trích thuộc tác phẩm truyện thơ Nôm được dạy
và học trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông.


8

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng phương pháp này nhằm tìm
hiểu những tài liệu về truyện Nôm, về việc dạy- học truyện Nôm trong
chương trình phổ thông với những thuận lợi, khó khăn, cái được, chưa được
để từ đó phân tích để thấy được những những nét đặc trưng riêng của thể loại,
nhằm đưa ra những hướng phù hợp về cách tiếp cận những đoạn trích truyện
Nôm trong chương trình, góp phần đưa văn học gần với đời sống hơn.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Để thấy được sự hấp dẫn của thể
loại truyện Nôm trong chương trình, trong đề tài này chúng tôi có vận dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành, kết hợp khai thác tri thức văn học với
các tri thức thuộc các ngành khác nhau như văn hóa, lịch sử, xã hội…
5. Phạm vi nghiên cứu
- Thể loại truyện thơ Nôm;
- Các trích đoạn thuộc thể loại truyện thơ Nôm được dạy trong chương
trình SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành;
- Các công trình nghiên cứu có liên quan.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, phần Nội dung đề
tài được triển khai gồm 3 chương chính:
Chương 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài
Chương 2: Thể loại truyện Nôm trong chương trình SGK Ngữ văn phổ
thông hiện hành.
Chương 3: Phát triển chương trình phần thể loại truyện Nôm trong SGK
Ngữ văn phổ thông mới.

7. Đóng góp của luận văn
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về thể loại truyện Nôm trong
chương trình Ngữ văn phổ thông một cách hệ thống và toàn diện. Trên cơ sở
phân tích đặc điểm của thể loại truyện Nôm trong chương trình SGK Ngữ văn


9

hiện hành và khảo sát thực trạng dạy học thể loại truyện Nôm ở nhà trường phổ
thông, đề tài đề xuất hướng phát triển chương trình phần thể loại truyện Nôm
trong chương trình SGK Ngữ văn phổ thông mới. Qua đó, góp phần làm rõ mối
quan hệ của các tác phẩm văn học trung đại trong giáo dục nhân cách HS nói
riêng và trong đời sống văn hóa xã hội hiện nay nói chung. Kết quả nghiên cứu
của đề tài sẽ góp thêm một tiếng nói nhằm bảo tồn, sống lại giá trị của thể loại
truyện Nôm, giúp các em HS phổ thông thêm hứng thú tiếp nhận các tác phẩm
thuộc thể loại truyện Nôm trong thời kỳ văn học trung đại Việt Nam.
- Góp thêm một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập, nghiên cứu
về truyện Nôm, đặc biệt là truyện Nôm của hai tác giả tiêu biểu trong nền văn
học Việt Nam là Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu.


10

NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề chung về thể loại truyện Nôm
1.1.1. Khái niệm truyện Nôm
Truyện Nôm là một thể loại đặc sắc của nền văn học trung đại Việt Nam

thể hiện đậm nét ý thức và tài năng sáng tạo của ông cha ta. Cho đến nay đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về truyện Nôm. Các nhà nghiên
cứu đã đưa ra những khái niệm khác nhau về thể loại truyện Nôm trên cơ sở
căn cứ vào thể thơ, ngôn ngữ và phương pháp sáng tác. Cuốn Từ điển thuật
ngữ văn học, mục Truyện Nôm có giới thiệu ngắn gọn như sau: “Truyện Nôm
là thể loại tự sự bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở
rộ vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, do viết bằng tiếng Việt, ghi bằng chữ
Nôm nên được gọi là truyện Nôm” [5, tr.372].
Tìm hiểu các truyện Nôm của nước ta hiện còn, xét về thể thơ, chúng ta
thấy có tác phẩm viết bằng thể thơ lục bát, có tác phẩm viết bằng thể thơ Đường
luật. Song tiêu biểu hơn cả là loại truyện Nôm viết bằng thể thơ lục bát.
Truyện Nôm được xem xét là thể loại tự sự bằng thơ dài nhưng nó có
những đặc trưng riêng biệt để phân biệt với những thể loại văn học khác.
Trong mục Truyện thơ Nôm và Truyện Kiều, cuốn Thi pháp Truyện Kiều,
Trần Đình Sử đã chỉ rõ sự khác biệt giữa truyện thơ Nôm với sử thi, cổ tích,
tiểu thuyết hiện đại. Giáo sư (GS) Trần Đình Sử cho rằng: “Cho đến trước
Truyện Kiều của Nguyễn Du, thể loại truyện Nôm đã hình thành từ nhu cầu
diễn ca, diễn Nôm để sáng tác thành một thể loại tự sự dân tộc. Truyện Nôm
là một thể loại có nội dung thế sự, đời tư, không phải thể loại sử thi như diễn
ca lịch sử. Khác với cổ tích, truyện Nôm là hình thức tự sự hướng tới khắc


11

họa hình ảnh của chủ thể con người với đời sống nội tâm, ý nghĩ, lời nói, tư
tưởng. Nhưng khác với tiểu thuyết hiện đại, truyện Nôm là thể loại “truyện
vừa” trung đại, chỉ kể các sự tích và nhân vật trong quan hệ nhân quả sít sao,
chặt chẽ, có hậu. Truyện Nôm nói chung chưa biết đến các chi tiết “thừa”, nó
chưa cho ta biết về vô thức và trạng thái thế giới bao la xung quanh con
người và sự việc”[21, tr.102].

Qua sự tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc của mình, các nhà nghiên cứu đã
đưa ra những khái niệm về thể loại truyện Nôm. Mỗi nhà nghiên cứu sẽ có
cách diễn đạt riêng, song tựu chung lại chúng tôi khái quát về thể loại này như
sau: Truyện Nôm là loại hình tự sự bằng thơ, chủ yếu sử dụng thể thơ lục bát,
dùng chữ Nôm làm văn tự. Mỗi tác phẩm truyện Nôm đều có cốt truyện hoàn
chỉnh, được tạo nên bởi các sự kiện, tình tiết, biến cố, xoay quanh cuộc đời,
số phận của nhân vật chính. Việc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống và
ngôn ngữ dân tộc là chữ Nôm, truyện Nôm đã khẳng định dấu ấn riêng của
nền văn học nước nhà, bước đầu thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của văn học
Trung Quốc.
1.1.2. Phân loại truyện Nôm
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, truyện Nôm là thể loại có số lượng
tác phẩm khá đồ sộ. Được hình thành từ khoảng thế kỉ XVI, XVII, phát triển nở
rộ vào khoảng cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, chịu sự ảnh hưởng của những
hoàn cảnh xã hội khác nhau trong một khoảng thời gian rất dài, việc phân loại
truyện Nôm không đơn giản. Bằng căn cứ có cơ sở khoa học, các nhà nghiên
cứu đã đưa ra những cách phân loại truyện Nôm khác nhau như sau:
Dựa vào nguồn gốc và thể tài, có 3 loại truyện Nôm: Thứ nhất, loại lấy
đề tài từ các truyện cổ dân gian như truyện Tấm Cám, truyện Trương Chi,
Thạch Sanh; Thứ hai, loại lấy đề tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc như
truyện Hoa Tiên; Thứ ba, loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán
hoặc những sự tích có thật ở Việt Nam như Tống Trân Cúc Hoa.


12

Dựa vào mối quan hệ với tác giả, có thể chia truyện Nôm thành hai loại
là truyện Nôm hữu danh và truyện Nôm khuyết danh.
Dựa vào nội dung và hình thức sáng tác, truyện Nôm được chia thành
hai loại là truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học.

Dựa vào nội dung và thể tài, có thể chia truyện Nôm thành các loại: loại
có tính chất lễ nghi, tôn giáo, loại truyện lãng mạn, loại truyện thế sự, loại
truyện lịch sử, loại truyện luân lí đạo đức.
Mỗi cách phân loại truyện Nôm như đã thống kê trên đều có những ưu
điểm và tồn tại nhất định, chỉ mang tính tương đối, không có cách phân loại
nào là tuyệt đối hợp lý. Song có thể thấy, phân chia truyện Nôm thành hai loại
là truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học là phương án được nhiều nhà
nghiên cứu đồng thuận. Bởi cách phận loại này đã bám khá sát vào đặc điểm
nội dung và hình thức nghệ thuật của các tác phẩm truyện Nôm.
Truyện Nôm bình dân hầu hết không có tên tác giả. Song, người ta có
thể phỏng đoán tác giả của nó là những nho sĩ bình dân bởi căn cứ vào trình
độ học vấn, trình độ tu dưỡng nghệ thuật, căn cứ vào cách nhìn nhận các vấn
đề nhân sinh và xã hội được thể hiện trong tác phẩm. Cốt truyện trong các
truyện Nôm bình dân thường dựa theo những câu chuyện cổ dân gian Việt
Nam. Truyện Nôm bình dân sáng tác để kể là chính, được lưu truyền trong
dân gian trước khi được in ra thành văn bản. Chính vì vậy, trong truyện Nôm
bình dân, cách sử dụng ngôn ngữ, cách diễn đạt rất bình dị, dễ hiểu, gần với
lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động, thể hiện tâm tư, tình cảm, quan niệm,
và cả những ước mơ, khát vọng của nhân dân. Truyện Nôm bình dân rất gần
với truyện dân gian nhưng không phải là truyện dân gian. Về một mặt nào đó,
có thể nói, truyện Nôm bình dân là chiếc cầu nối liền giữa văn học dân gian
với truyện Nôm bác học. Những truyện Nôm bình dân được phổ biến rộng rãi


13

trong dân gian là: Thạch Sanh, Tống Trân - Cúc Hoa, Lý Công, Tấm Cám,
Thoại Khanh - Châu Tuấn…
Truyện Nôm bác học phần lớn là có tên tác giả, chỉ có một số ít tác phẩm
là khuyết danh. Tác giả của truyện Nôm bác học là những người thuộc giai

cấp phong kiến quý tộc, trình độ học vấn uyên bác, có quá trình rèn luyện và
trình tu dưỡng nghệ thuật. Khác với truyện Nôm bình dân, cốt truyện trong
những truyện Nôm bác học chủ yếu mượn từ văn học cổ Trung Quốc, chỉ một
số rất ít là được hư cấu. Truyện Nôm bác học được sáng tác theo phương thức
của văn học thành văn, chủ yếu là để đọc nên các tác giả khá cầu kì, tinh tế
trong cách diễn đạt, sử dụng nhiều điển tích, điển cố, ngôn ngữ trau chuốt,
giàu hình ảnh, đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Các tác phẩm truyện Nôm bác
học tiêu biểu có thể kể đến là Hoa tiên kí của Nguyễn Huy Tự, Sơ kính tân
trang của Phạm Thái, kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân
Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Qua sự phân loại như trên, ta có thể khẳng định, thể loại truyện Nôm đã
thể hiện được những đặc trưng riêng và để lại dấu ấn đặc biệt trong nền văn
học trung đại Việt Nam. Những tác phẩm truyện Nôm thời trung đại đã góp
phần quan trọng tạo nên sức sống, giá trị, bản sắc của văn học dân tộc Việt
Nam trong mọi thời kì.
1.1.3. Đặc điểm cơ bản của truyện Nôm
1.1.3.1. Đặc điểm về nội dung
Tìm hiểu đặc điểm cơ bản về nội dung của truyện Nôm, chúng tôi xem
xét chủ yếu ở hai phương diện là đề tài và chủ đề tác phẩm.
Về đề tài trong các tác phẩm truyện Nôm, có thể thấy sự ảnh hưởng sâu
sắc nguồn đề tài từ các sáng tác dân gian và sự tiếp thu ảnh hưởng của văn học
nước ngoài mà chủ yếu là của văn học Trung Quốc. Vì vậy, nguồn gốc đề tài
cốt truyện của truyện Nôm thường được chia thành ba nhóm cơ bản như sau:


14

Thứ nhất, truyện Nôm lấy nguồn đề tài từ các truyện cổ dân gian như:
Thạch Sanh, Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn…
Thứ hai, truyện Nôm lấy nguồn đề tài từ các tác phẩm của văn học Trung

Quốc như trường hợp tác phẩm Truyện Kiều, Phan Trần, Nhị Độ Mai…
Nhưng ở những tác phẩm truyện Nôm này luôn thể hiện được cá tính và tài
năng sáng tạo tuyệt vời của tác giả khiến cho tác phẩm mang vẻ đẹp của tâm
hồn con người Việt Nam, phản ánh hiện thực xã hội đương thời và phù hợp
với quan niệm thẩm mĩ của nhân dân ta.
Thứ ba, các tác phẩm truyện Nôm có nguồn đề tài từ hiện thực đời sống,
xã hội. Đến với tác phẩm Ông Ninh cổ truyện và Chúa Thao cổ truyện, người
đọc sẽ dễ dàng nhận ra hiện thực về cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn và cuộc
chiến tranh Trịnh - Mạc được đề cập đến ở đó. Ba truyện Nôm của Nguyễn
Đình Chiểu cũng thuộc nhóm nguồn đề tài này. Số lượng các truyện Nôm có
nguồn đề tài này không nhiều nhưng các tác phẩm đó đã đặt ra những vấn đề
quan trọng, góp phần tạo nên diện mạo của thể loại truyện Nôm Việt Nam
thời trung đại.
Từ những nguồn đề tài nêu trên, truyện thơ Nôm chủ yếu tập trung
phản ánh hai chủ đề chính: Chủ đề giải phóng tình yêu đôi lứa và chủ đề đấu
tranh cho công lí xã hội.
Về chủ đề giải phóng tình yêu đôi lứa, có thể khẳng định đây là chủ đề
nổi bật trong các truyện thơ Nôm bác học nổi tiếng như Sơ kính tân trang,
Truyện Kiều. Trong các truyện này, các cặp đôi yêu nhau thường là những bậc
tài tử- giai nhân. Họ đến với nhau bằng tình cảm tự nhiên, chân thành và đắm
say của tuổi trẻ. Trong hoàn cảnh lễ giáo phong kiến khắt khe và nhiều thế lực
cản trở khác, tình yêu của những cặp đôi đó gặp rất nhiều trắc trở, éo le và thử


15

thách khắc nghiệt. Song đến cuối tác phẩm, họ vẫn đón nhận được những kết
thúc đẹp, được nên duyên vợ chồng hoặc hưởng hạnh phúc tương đối trọn
vẹn. Có được điều đó là nhờ sự giúp đỡ ít nhiều của các lực lượng thần kì
hoặc tiến bộ.

Về chủ đề đấu tranh cho công lí xã hội, đây là chủ đề nổi bật trong các
truyện thơ Nôm bình dân như Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa,
Thoại Khanh- Châu Tuấn… Chủ đề này cũng được phản ánh trong một số
truyện Nôm bác học như Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên. Các truyện này
thường kết thúc có hậu nhờ sự giúp sức của các lực lượng thần kì, nghĩa hiệp,
nhằm thỏa mãn mơ ước của người xưa về một xã hội công bằng, tốt đẹp. Như
vậy, bên cạnh chủ đề chính là đấu tranh cho công lí xã hội, truyện Nôm còn
phản ánh những vấn đề rộng lớn như tố cáo các thế lực phong kiến tàn nhẫn
chà đạp lên quyền sống của những người dân lương thiện; lên tiếng bênh vực
con người, đặc biệt là những người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công
trong xã hội nặng nề về tư tưởng trọng nam khinh nữ; ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam như chịu thương chịu khó, nhân hậu,
thủy chung…
Khi hoàn cảnh xã hội Việt Nam đã có sự thay đổi do sự xâm lăng của
thực dân Pháp, đó cũng là khi truyện Nôm đã phát triển và thể hiện rõ đặc
điểm thể loại. Với những ưu thế về thể loại, ngôn ngữ, tác phẩm truyện Nôm
đã tích cực phát huy thế mạnh của mình để phản ánh những vấn đề lớn lao
của đất nước, dân tộc. Những người trí thức phong kiến tiến bộ đã gắn tình
cảm, tình yêu của mình với cuộc sống lầm than, cơ cực của người dân đất
nước mất chủ quyền để phản ánh sâu sắc chủ đề yêu nước, thương dân trong
tác phẩm truyện Nôm của mình.
Như vậy, xét về nội dung, truyện Nôm với nguồn đề tài phong phú đã
phản ánh những chủ đề mang ý nghĩa xã hội rộng lớn, sâu sắc. Dù với bất kì
đề tài nào, truyện Nôm luôn lên tiếng bảo vệ, bênh vực những người dân lao


16

động, nói lên tâm tư, nguyện vọng và ước mơ chính đáng của họ về một xã
hội công bằng, về những kết thúc đẹp của cuộc đời con người sau biết bao tai

ương, sóng gió. Cho đến nay, đọc truyện Nôm chúng ta vẫn luôn cảm thấy
xúc động và thấm thía bởi những triết lí nhân sinh sâu sắc mà các tác giả đã
gửi gắm trong tác phẩm.
1.1.3.2. Đặc điểm về nghệ thuật
Tìm hiểu về nghệ thuật truyện Nôm, có nhiều vấn đề được đặt ra, song
với khuôn khổ của luận văn, chúng tôi xem xét đến 3 vấn đề cơ bản là kết cấu,
nhân vật và ngôn ngữ.
Về kết cấu, truyện Nôm thường có kết cấu theo mô hình chung là: Gặp
gỡ (hội ngộ) - Tai biến (lưu lạc) - Đoàn tụ (Đoàn viên). Trong 3 phần trên, tùy
vào chủ đề của tác phẩm mà phần nào sẽ chiếm dung lượng nhiều nhất.
Thông thường, đối với truyện Nôm phản ánh chủ đề giải phóng tình yêu, phần
“gặp gỡ” thường được nhấn mạnh. Tác giả dành nhiều trang viết để đi sâu
miêu tả và ca ngợi tình yêu tự do, say đắm của đôi bạn trẻ tài tử - giai nhân.
Còn với những truyện Nôm phản ánh chủ đề dấu tranh cho công lí xã hội thì
phần thứ hai là “tai biến” được chú trọng và phản ánh khá sâu sắc. Ở đó, nhân
vật chính gặp rất nhiều khó khăn, trắc trở, thậm chí thử thách khốc liệt tưởng
như khó có thể chịu đựng và vượt qua được. Bằng ý chí, nghị lực của bản
thân và sự giúp sức của các lực lượng thần kì, tiến bộ, họ đã vượt qua tai
ương, sóng gió đó để đến với kết thúc tốt đẹp. Dù đề cập đến chủ đề nào, kết
cấu tác phẩm triển khai theo hướng nào thì các truyện Nôm đều hướng tới
một kiểu kết thúc là: kết thúc có hậu. Song cũng có những tác phẩm, kết thúc
có hậu chỉ là bề ngoài, phản ánh khát vọng cao đẹp của người dân, còn thực
chất bên trong đầy bi kịch và đẫm nước mắt (ví như kết thúc Truyện Kiều),
thể hiện sự bế tắc, bất lực của tác giả trước thời cuộc đen tối.
Về nhân vật, do dung lượng tác phẩm khá dài và phản ánh những vấn đề
xã hội rộng lớn nên truyện Nôm đã xây dựng được số lượng nhân vật khá


17


nhiều. Nhân vật trong truyện Nôm thường bao gồm hai tuyến là nhân vật
chính diện (những người tốt bụng, hiền lành) và nhân vật phản diện (những kẻ
có tâm địa xấu, độc ác). Có trường hợp đặc biệt, ở những truyện Nôm bác học
của những nhà văn kiệt xuất như Truyện Kiều của Nguyễn Du, bên cạnh
những nhân vật chính diện, phản diện, tác giả đã rất thành công trong việc xây
dựng nhân vật lưỡng diện. Nhân vật lưỡng diện là những nhân vật mà ở con
người đó vừa có những biểu hiện tốt, có khi trong những hoàn cảnh đặc biệt
họ lại có những biểu hiện chưa tốt và ngược lại, những người chủ yếu có
những biểu hiện xấu, ác, nhưng có những khi họ lại có những biểu hiện nhân
từ. Ở những truyện Nôm không đặt ra vấn đề đấu tranh giai cấp hay đấu tranh
tư tưởng như truyện Hoa Tiên, Mai đình mộng kí sẽ không có nhân vật phản
diện. Trong truyện Nôm còn có một loại hình nhân vật đặc biệt nữa là loại
nhân vật chức năng, nhân vật này giữ vai trò phụ trợ cho nhân vật chính, thúc
đẩy sự phát triển của cốt truyện. Đó là những nhân vật như nàng hầu, người
dẫn đường, thầy bói,…Đôi khi, họ cũng đương đầu với thế lực cường quyền
để ảo vệ cho chủ, bảo vệ cho công lí. Nhân vật trong truyện Nôm thường
được xây dựng theo môtip: chàng trai xuất thân nghèo, vất vả học hành sau
thành đạt và rất chung tình; cô gái con nhà giàu có, ngoan hiền, nết na, đảm
đang, hiếu thảo… Đặc biệt có một số ít nhân vật trong truyện Nôm được xây
dựng đa chiều, sinh động, có tính cách riêng, đời sống nội tâm phong phú,
điển hình là nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong
truyện Nôm, ngoại hình nhân vật được tác giả chú ý miêu tả, song nhìn chung
vẫn mang tính ước lệ. Ở một số nhân vật trong truyện Nôm nổi tiếng của
những cây bút tài hoa, ngoại hình nhân vật cũng đã thể hiện được nét riêng,
góp phần biểu hiện tính cách, số phận. Các nhân vật được khắc họa chủ yếu
thông qua ngôn ngữ đối thoại. Trong một số truyện Nôm bác học, nhân vật
còn được khắc họa tài hoa qua những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hoặc miêu tả
trực tiếp tâm trạng, tâm lí nhân vật, qua ngôn ngữ độc thoại.



18

Về ngôn ngữ, truyện Nôm được sáng tác bằng văn tự là chữ Nôm. Đến
với các văn bản truyện Nôm, người đọc được tiếp xúc với một hệ thông ngôn
ngữ vô cùng sinh động, phong phú. Ngôn ngữ được sử dụng trong truyện
Nôm gồm cả ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Ngôn ngữ bác học là
ngôn ngữ được chau chuốt, gọt rũa theo lối ước lệ tượng trưng, sử dụng điển
tích, điển cố, thi liệu, văn liệu của Trung Quốc, … Ngôn ngữ bình dân là lời ăn
tiếng nói giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, có phần nôm na rườm rà, gần với lối nói của
quần chúng nhân dân. Những thành ngữ, khẩu ngữ, phương ngữ và cả những từ
ngữ địa phương đều thuộc ngôn ngữ bình dân. Trong truyện Nôm, ngôn ngữ
bình dân và ngôn ngữ bác học đều phát huy thế mạnh một cách hiệu quả tạo nên
sức hấp dẫn của tác phẩm. Nếu ngôn ngữ bình dân mang tính cụ thể, chi tiết,
thuận lợi cho mọi tầng lớp nhân dân có thể tiếp thu thì ngôn ngữ bác học lại
mang vẻ đẹp tao nhã, trang trọng, thể hiện học vấn uyên thâm của tác giả. Tùy
từng loại truyện Nôm mà việc sử dụng ngôn ngữ bình dân hay ngôn ngữ bác học
chiếm tỉ lệ nhiều hơn. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một minh chứng cho sự
kết hợp tài hoa trong việc sử dụng cả hai loại ngôn ngữ trên.
1.1.4. Vị trí, vai trò của thể loại truyện Nôm trong nền văn học dân tộc
Nền văn học trung đại Việt Nam đã trải qua nhiều thế kỉ tồn tại, phát
triển với nhiều thành tựu rực rỡ. Bên cạnh việc tiếp thu những ảnh hưởng của
văn hóa, văn học Trung Hoa, văn học nước nhà cũng đã thể hiện được những
nét bản sắc riêng mang tính dân tộc đậm nét. Từ chỗ sử dụng chữ Hán và
những thể loại văn học vay mượn của Trung Quốc, ông cha ta đã sáng tạo ra
chữ viết riêng của dân tộc mình là chữ Nôm. Cùng với sự xuất hiện của chữ
Nôm là có sự ra đời của các tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm như phú
Nôm, Đường luật Nôm, đối Nôm…Và điều kì diệu đặc biệt hơn cả là đã có
những thể loại viết bằng chữ Nôm của riêng nền văn học dân tộc ta như
truyện Nôm, ngâm khúc, hát nói. Trong đó, truyện Nôm với những nét đặc
sắc riêng về nội dung và nghệ thuật như đã trình bày trên là một thể loại văn



×