Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Nội dung tiểu luận Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.65 KB, 9 trang )

Tên đề tài: Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân s ự c ủa
Tòa án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam.
Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự c ủa
tòa án nước ngoài
Khái niệm về công nhận và cho thi hành bản án c ủa n ước ngoài đã
hình thành từ lâu trong tư pháp quốc tế, có thể hiểu đó là m ột th ủ t ục t ố
tụng đặc biệt do cơ quan có thẩm quyền của nước có bên phải thi hành án
tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của bản án dân s ự c ủa
Toà án nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của nước mình. Sau khi bản án,
phán quyết nước ngoài đó đã được xem xét và công nhận tính hiệu l ực, nó
sẽ được đảm bảo cưỡng chế thi hành trên lãnh thổ của n ước đã công nh ận.
Thủ tục đặc biệt này nhằm đảm bảo giải quyết các xung đột về quy ền tài
phán và đảm bảo tôn trọng quyền tài phán của mỗi quốc gia.
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quy ết định về dân sự của Toà
án nước ngoài tại Việt Nam có ý nghĩa quan trọng:
- Đảm bảo khả năng thi hành các bản án, quyết định đã đ ược c ơ quan
tài phán nước ngoài tuyên. Từ đó, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các
đương sự bao gồm công dân hoặc pháp nhân Việt Nam; cũng nh ư tránh
tình trạng về cùng một vụ việc nhưng lại bị xét xử nhiều lần.
- Hình thành mối quan hệ có qua có lại, góp phần thúc đẩy quan h ệ
hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước.
- Góp phần tăng cường tính ổn định và dự đoán được của môi tr ường
pháp lý tại Việt Nam.
Cùng với xu thế hội nhập, giao lưu kinh tế văn hoá xã hội giữa các
quốc gia, số lượng các bản án, quyết định được tuyên ở một nước nh ưng
cần được thi hành ở một nước khác ngày càng tăng, dẫn đ ến nhu c ầu h ợp
tác giữa các nước để thoả thuận công nhận và cho thi hành c ủa nhau các
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, phán quy ết c ủa tr ọng tài
nước ngoài.


1.2. Pháp luật về công nhận cho thi hành b ản án, quy ết đ ịnh dân
sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam
Việc điều chỉnh vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nước ngoài được quy định trong Ph ần th ứ bảy c ủa B ộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015.
1.2.1. Nguyên tắc công nhận và cho thi hành bản án, quy ết định dân
sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam


Nguyên tắc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân s ự của
Tòa án nước ngoài tại Việt Nam được quy định tại Khoản 1 Điều 423 B ộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, cụ thể như sau:
- Nguyên tắc công nhận và cho thi hành phải dựa trên cơ sở điều ước
quốc tế: Theo Điểm a Khoản 1 Điều 423 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015,
“bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, th ương
mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình s ự, hành
chính của Tòa án nước ngoài được quy định tại điều ước quốc tế mà n ước
đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Theo nguyên t ắc
này, Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành nh ững bản án, quy ết đ ịnh
dân sự được tuyên bởi Tòa án của những quốc gia mà giữa Việt Nam và
quốc gia đó đã ký kết hoặc cùng tham gia điều ước quốc tế về công nh ận
và cho thi hành.
- Nguyên tắc công nhận và cho thi hành dựa trên cơ s ở có đi có l ại:
Theo Điểm b Khoản 1 Điều 423 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, “bản án,
quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, th ương m ại, lao
động; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính
của Tòa án nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã h ội ch ủ nghĩa Vi ệt Nam
chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về công nh ận và
cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài trên c ơ s ở nguyên
tắc có đi có lại”. Có đi có lại là một nguyên tắc quan tr ọng th ường xuyên

xuất hiện trong tư pháp quốc tế. Việt Nam cũng xem đây là m ột trong
những nguyên tắc để xem xét việc công nhận và cho thi hành bản án, quy ết
định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam.
1.2.2. Trình tự, thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam
Trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quy ết đ ịnh dân
sự của Tòa án nước ngoài là các bước để cơ quan có th ẩm quy ền xem xét
giải quyết công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân s ự c ủa Tòa án
nước ngoài theo yêu cầu của các bên đương sự. Pháp luật Việt Nam quy
định về trình tự, thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài từ Điều 432 đến Điều 450 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhìn chung bao gồm:
- Nộp đơn yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền:
- Nhận đơn và xem xét thụ lý giải quyết:
- Ra phán quyết.
1.2.3. Những trường hợp
bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
Điều 439 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định cụ th ể nh ững
trường hợp bản án, quyết định dân sự của Tòa án n ước ngoài không đ ược
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, bao gồm:


- Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không đáp ứng
được một trong các điều kiện để được công nhận quy đ ịnh tại điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định
của pháp luật của nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định đó.
- Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã
vắng mặt tại phiên tòa của Tòa án nước ngoài do không được tri ệu tập

hợp lệ hoặc văn bản của Tòa án nước ngoài không được tống đ ạt cho h ọ
trong một thời hạn hợp lý theo quy định của pháp luật của nước có Tòa án
nước ngoài đó để họ thực hiện quyền tự bảo vệ.
- Tòa án nước đã ra bản án, quyết định không có thẩm quyền giải
quyết vụ việc dân sự đó theo quy định tại Điều 440 của Bộ luật này.
- Vụ việc dân sự này đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu l ực
pháp luật của Tòa án Việt Nam hoặc trước khi cơ quan xét x ử của n ước
ngoài thụ lý vụ việc, Tòa án Việt Nam đã thụ lý và đang giải quy ết vụ việc
hoặc đã có bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước thứ ba đã được Tòa
án Việt Nam công nhận và cho thi hành.
- Đã hết thời hiệu thi hành án theo pháp luật của n ước có Tòa án đã
ra bản án, quyết định dân sự đó hoặc theo pháp luật thi hành án dân s ự c ủa
Việt Nam.
- Việc thi hành bản án, quyết định đã bị hủy bỏ hoặc đình chỉ thi
hành tại nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định đó.
- Việc công nhận và cho thi hành bản án, quy ết định dân s ự của Tòa
án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc c ơ bản c ủa pháp lu ật
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tất cả những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài nếu
bị xét thấy thuộc một trong những trường hợp nêu trên thì sẽ không đ ược
công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ Việt Nam.
1.3. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quy ết đ ịnh dân s ự
của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam
Như đã nêu ở trên, việc công nhận và cho thi hành bản án, quy ết đ ịnh
dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc c ơ bản
của pháp luật Việt Nam là một trong những điều kiện để không công nh ận
và cho thi hành bản án của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam đ ược quy đ ịnh
tại Điều 439 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngoài ra, căn c ứ này cũng
được áp dụng là một điều kiện để không công nh ận và cho thi hành phán

quyết của Trọng tài nước ngoài theo Điểm b Khoản 2 Điều 459 Bộ luật T ố
tụng dân sự năm 2015. Để làm rõ nội hàm của quy định này, c ần phân tích
khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.


1.3.1. Trật tự công
Thuật ngữ “Trật tự công” (Public policy) là một thuật ngữ pháp lý có
nội hàm hết sức trừu tượng, phức tạp. Nh ưng thuật ngữ này l ại đ ược s ử
dụng khá phổ biến trong hệ thống pháp luật của các quốc gia. Theo nghĩa
chung nhất, trật tự công được hiểu là “…tình trạng xã h ội của một quốc gia
trong một thời điểm xác định mà hoà bình, ổn định và an toàn công c ộng
không bị xáo trộn”[1].Thực tế cho thấy, lợi ích của các qu ốc gia và đ ường
lối, chiến lược phát triển không giống nhau trong việc bảo v ệ nh ững giá tr ị
nền tảng của mình nên khái niệm “trật tự công” mang đ ậm màu s ắc dân
tộc của quốc gia đó. Tuy nhiên, vấn đề trật tự công của qu ốc gia luôn có
tính chất ổn định, bền vững nhưng mặt khác, nó cũng không ph ải là bất
biến. Nói cách khác, khái niệm này có thể thay đổi theo th ời gian, trong
từng giai đoạn cho thích hợp.
Dưới góc độ pháp lý, nội dung khái niệm cũng thay đổi trong t ừng
lĩnh vực khác nhau.Trong lĩnh vực luật tư, khái niệm tr ật t ự công đ ược s ử
dụng phổ biến theo nghĩa là các chuẩn mực mang tính mệnh lệnh mà các
chủ thể không thể vi phạm bằng hành vi hoặc thoả thuận khác. Đó là
những giá trị, chuẩn mực rất trừu tượng và không th ể được quy định m ột
cách rõ ràng, những giá trị này luôn được bảo vệ nhằm đáp ứng t ổng th ể
các yêu cầu cơ bản về chính trị, xã hội, kinh tế của qu ốc gia, nó có ch ức
năng nhằm duy trì sự ổn định xã hội, đạo đức và thuần phong mỹ t ục, ho ặc
nhằm bảo vệ những lợi ích cơ bản của công dân, nh ững giá tr ị mà xã h ội
theo đuổi. Tùy từng hệ thống luật, trong mỗi hoàn c ảnh khác nhau, thu ật
ngữ “trật tự công” cũng được sử dụng dưới các tên gọi khác nhau nh ư “l ợi
ích công”, “chính sách công”, “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật”, “đ ạo

đức xã hội”,…
Trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, khái niệm “Bảo lưu trật t ự công” có ý
nghĩa hoàn toàn khác. Vấn đề bảo lưu trật tự công được s ử dụng “khi c ơ
quan có thẩm quyền sử dụng các quy phạm xung đột của quốc gia dẫn
chiếu đến pháp luật nước ngoài, nhưng không áp dụng hệ th ống pháp lu ật
nước ngoài đó (mà trên thực tế đáng lẽ sẽ được áp dụng), hoặc không th ừa
nhận hiệu lực phán quyết của toà án nước ngoài, do phán quyết đó làm
phát sinh một tình thế trái với các nguyên tắc pháp lý cơ bản của pháp luật
của mình hoặc nếu xét thấy việc áp dụng pháp luật nước ngoài là vi ph ạm
các quy định có tính chất thiết lập nền tảng chính tr ị, pháp lý, kinh t ế, xã
hội của quốc gia mình, nhằm bảo vệ trật tự công quốc gia”[3].
Ngoài ra, vấn đề “trật tự công” cũng được đề cập khi xem xét các
điều kiện hiệu lực của hợp đồng. Đặc biệt trong các hợp đồng quốc tế, đối
tượng hợp đồng, việc giao kết, hay th ực hiện một h ợp đồng cũng ph ải
đảm bảo không vi phạm trật tự công của quốc gia thì mới được công nhận
hiệu lực.


Tóm lại, “trật tự công” được hiểu là tổng thể các nguyên tắc thành
văn hoặc bất thành văn trong một trật tự pháp lý, được coi là các nguyên
tắc mang tính nền tảng mà các chủ thể không thể vi ph ạm hoặc có th ỏa
thuận khác, các quy phạm này có tính ch ất loại tr ừ cả pháp lu ật n ước
ngoài cũng như các văn bản có tính chất pháp lý c ủa c ơ quan công quy ền
nước khác.
1.3.2. Quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến v ấn đề b ảo l ưu
trật tự công.
Trong hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam, khái niệm “trật tự
công” rất ít được sử dụng, mà thay vào đó thuật ngữ “các nguyên tắc c ơ
bản của pháp luật Việt Nam”, được sử dụng rất phổ biến. Chẳng hạn, Điều
666 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định về việc áp dụng tập quán qu ốc tế

như sau: “Các bên được lựa chọn tập quán quốc tế trong trường h ợp quy
định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật này. Nếu hậu quả của việc áp d ụng
tập quán quốc tế đó trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp lu ật Vi ệt Nam
thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.” hay tại Điểm a Kho ản 1 Đi ều 670
quy định pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không đ ược áp d ụng
trong trường hợp hậu quả của việc áp dụng pháp luật n ước ngoài trái v ới
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Trong các trường hợp mà cơ quan có thẩm quy ền Việt Nam có th ể
phải áp dụng pháp luật nước ngoài, bên cạnh việc theo s ự d ẫn chi ếu c ủa
các quy phạm xung đột thì cơ quan tài phán có th ể cũng sẽ áp d ụng pháp
luật nước ngoài trong trường hợp được các bên trong h ợp đồng l ựa ch ọn.
Nhưng trong hầu hết các văn bản luật chuyên ngành đều có các quy đ ịnh
cho phép các bên trong hợp đồng được thỏa thuận l ựa ch ọn lu ật n ước
ngoài là luật áp dụng trong hợp đồng của họ, nhưng với điều ki ện pháp
luật mà các bên thỏa thuận phải đảm bảo không trái với các nguyên t ắc c ơ
bản của pháp luật Việt Nam. Ví dụ, tại khoản 2 Điều 5 Luật Th ương m ại
2005, quy định: “Các bên trong giao dịch thuơng mại có y ếu tố n ước ngoài
đượcc thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thu ơng m ại
quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thuơng mại quốc tế đó không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Như vậy, hai khái niệm “trật tự công” và “các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam” được các nhà lập pháp xem nh ư đ ồng nghĩa. Vi ệc s ử
dụng thuật ngữ “trật tự công” hay “các nguyên tắc c ơ bản c ủa pháp lu ật
Việt Nam” cho đến nay cũng vẫn được hiểu chung chung, trừu tượng. Cho
đến thời điểm hiện tại, hệ thống pháp luật nước ta vẫn ch ưa có một văn
bản pháp luật, một tài liệu pháp lý hay một thực tiễn xét xử nào đ ưa ra
định nghĩa về “những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. M ột s ố
đạo luật lớn như Bộ Luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Thương m ại,… có
đưa ra một số nguyên tắc chung, nhưng chỉ có tính chất đặc thù dành đ ể áp
dụng cho riêng Bộ luật hay đạo luật đó mà thôi. Rõ ràng là không th ể tìm



được “những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” bằng cách c ộng
dồn những nguyên tắc đặc thù đã được quy định trong từng đạo lu ật riêng
lẻ như hiện nay.
Tư pháp quốc tế của hầu hết các nước đều quy định ngoại lệ bảo
lưu trật tự công trong việc áp dụng pháp luật n ứơc ngoài. Bởi vì quy đ ịnh
này cho phép quốc gia bảo vệ được chủ quyền cũng nh ư lợi ích c ủa mình
trong các quan hệ dân sự quốc tế. Các học thuyết về bảo lưu tr ật tự công
được phát triển tại các nước phương Tây từ rất sớm mà tiêu biểu là Bartin
(học giả Pháp) và sau đó là trường phái của Mancini. Theo đó, các h ọc
thuyết sử dụng việc bảo lưu trật tự công như một công cụ tự vệ trong
những trường hợp cần thiết nhằm loại bỏ việc áp dụng pháp luật n ước
ngoài được coi là không phù hợp hoặc có n ội dung không ch ấp nh ận đ ược
trong nội luật.
Để vận dụng được nguyên tắc bảo lưu trật tự công thì vấn đề lớn
nhất đặt ra cho các cơ quan có thẩm quyền là xác định khi nào thì pháp
luật nước ngoài bị coi là trái trật tự công quốc gia? Pháp luật n ước ngoài sẽ
được áp dụng giới hạn trong phạm vi nào? Thực tế cho th ấy, trên th ế gi ới
có bao nhiêu quốc gia thì có bấy nhiêu hệ th ống pháp lu ật khác nhau. Do
đó, không thể xem bất cứ sự khác biệt nào của pháp luật n ước ngoài đ ối
với pháp luật Việt Nam là có thể bị loại bỏ, từ chối áp dụng để bảo vệ trật
tự công quốc gia, mà cần xác định chỉ khi nào thì pháp luật n ước ngoài, t ập
quán quốc tế trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì
mới bị loại bỏ, không áp dụng.
Khoản 8 Điều 439 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2018 quy định: “Vi ệc
công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân s ự của Tòa án n ước
ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”
là một hình thức của bảo lưu trật tự công trong việc công nhận và thi hành
bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Tuy nhiên, do việc xác

định, nhận thức thế nào là “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”
còn nhiều bất cập nên thực tiễn vận dụng nguyên tắc này trong hệ th ống
cơ quan tài phán Việt Nam còn hạn chế.
Chương II. THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CÔNG NHẬN
VÀ CHO THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ C ỦA TÒA ÁN N ƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRÁI VỚI CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN C ỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM
Một trong những căn cứ mà các Tòa án Việt Nam áp dụng đ ể không
cho công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án n ước ngoài
tại Việt Nam là "Việc công nhận và cho thi hành các bản án, quy ết đ ịnh dân
sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam". Tuy nhiên, do nhận th ức ch ưa rõ
ràng và việc dẫn chiếu về "các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam"
đôi khi có phần tùy tiện nên đã có khá nhiều bản án, quy ết định dân s ự c ủa
Tòa án nước ngoài 9ã không được công nhận và cho thi hành tại Vi ệt Nam.


Nhóm xin nêu ra hai ví dụ tiêu biểu là vụ Tyco Services v. Leighton
Contractors [2003] và vụ Envergo-Novus, Moscow v. Vinatex [1998].
Vụ Tyco Services v. Leighton Contractors [2003]
Tyco Services Singapore Pte Ltd, một công ty có tr ụ s ở t ại Singapore,
đã nộp đơn lên tòa án ở thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu công nh ận và cho
thi hành phán quyết Trọng tài tại bang Queensland, Úc v ới giá tr ị
US$1,865,342.37 và AUS$ 789.961 đối với m ột Công ty Vi ệt Nam là
Leighton Contractors Ltd. Tranh chấp giữa Tyco và Leighton liên quan đ ến
một hợp đồng trong đó hai bên đã đồng ý rằng Leighton sẽ tham gia đ ấu
thầu xây dựng khách sạn tại Đà Nẵng, Việt Nam và nếu Leighton th ắng
thầu, Tyco sẽ trở thành thầu phụ của Leighton. Hai bên đều đã th ỏa thuận
rằng các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải quy ết bằng
trọng tài tại bang Queenland, Úc theo luật của Queensland.
Ở giai đoạn công nhận, Leighton cho rằng hợp đ ồng trên vô hi ệu

theo luật pháp Việt Nam. Theo quy định của Việt Nam, m ột nhà th ầu ph ụ
là pháp nhân nước ngoài, tiến hành kinh doanh xây dựng tại Việt Nam thì
phải có giấy phép do cơ quan có thẩm quy ền tại Việt Nam cấp. H ợp đ ồng
không hợp lệ vì Tyco không có giấy phép và việc công nh ận phán quy ết
đồng nghĩa với việc công nhận một hợp đồng không h ợp lệ, đi ều này trái
với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Trong bản án s ơ
thẩm, tòa án đã tuyên bố rằng việc xem xét tính h ợp lệ của h ợp đ ồng sẽ
dẫn đến việc xem xét lại vụ án. Do đó, tòa án đã bác bỏ bào ch ữa c ủa
Leighton và phán quyết chấp nhận yêu cầu nguyên đơn.
Ở cấp tòa phúc thẩm, phần bào chữa của Leighton được nêu ra một
lần nữa. Tòa phúc thẩm cho rằng Tyco là một công ty n ước ngoài, ti ến
hành kinh doanh xây dựng tại Việt Nam nhưng họ không có gi ấy phép và
không cam kết nộp thuế từ hoạt động kinh doanh đó, do v ậy Tyco không
tôn trọng chủ quyền và pháp luật của Việt Nam và hợp đồng gi ữ Leighton
và Tyco không hợp lệ. Tòa án đã không công nh ận và không cho thi hành
phán quyết của Trọng tài Queensland vì cho rằng phán quy ết này trái v ới
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Vụ Envergo-Novus, Moscow v. Vinatex [1998]
Energo-Novus, một công ty của Nga có trụ sở tại Moscow Nga, đã n ộp
đơn xin công nhận và cho thi hành phán quyết bởi Tòa án Trọng tài Th ương
mại Quốc tế Nga về một khoảng tiền từ Vinatex, một công ty Việt Nam.
Vấn đề gây tranh cãi là liệu Vinatex đã hoàn tất thanh toán cho Energo hay
không. Tòa án Trọng tài Nga đã quyết định rằng Vinatex phải n ộp bằng
chứng ban đầu về các khoản thanh toán. Tuy nhiên, Vinatex ch ỉ nộp bản
sao có công chứng của một công chứng viên Việt Nam. Tòa án Trọng tài Nga
đã không chấp nhận các bản sao này. Cả tòa sơ thẩm và tòa phúc th ẩm đều
tuyên bố rằng, Tòa án Trọng tài Nga không chấp nhận các bản sao có công
chứng của công chứng viên Việt Nam, cái mà luật pháp Việt Nam ch ấp



nhận xem làm bằng chứng, trừ khi chúng được tuyên bố không h ợp l ệ b ởi
tòa án. Do đó, Tòa án Việt Nam cho rằng Tòa án Trọng tài Nga đã vi ph ạm
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Mặc dù phán quy ết này
cũng bị từ chối vì những lý do khác, nhưng có thể nói rằng m ột lần n ữa các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp Việt Nam được viện dẫn khi luật được áp
dụng không phù hợp với luật pháp Việt Nam.
Có thể thấy rằng, khi xem xét công nhận và cho thi hành b ản án,
quyết định dân sự của Tòa án hoặc phán quyết của trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam, các tòa án thường có xu hướng kiểm tra các tình tiết trong v ụ
việc và viện dẫn nguyên tắc bảo lưu trật tự công khi luật được áp d ụng
bởi Tòa án hay trọng tài nước ngoài không tương thích v ới pháp lu ật có liên
quan của Việt Nam. Trong vụ Energo-Novus, Moscow và Vinatex, tòa án đã
kiểm tra tính hợp lệ của bằng chứng mặc dù luật tố tụng của tr ọng tài
nước ngoài đã có thể áp dụng. Còn trong vụ Tyco Service và Leighton
Contractors, tòa án đã kiểm tra tính hợp lệ của hợp đồng theo lu ật h ợp
đồng của Việt Nam, mặc dù trong trường hợp đó, luật áp dụng đ ược th ỏa
thuận chọn là luật của bang Queenland, Úc. Quan điểm này không phù h ợp
với nguyên tắc chung của việc công nhận và thi hành phán quy ết n ước
ngoài cũng như quy định tại Khoản 4 Điều 438 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015. Điều này dẫn đến nguy cơ phán quyết nước ngoài sẽ dễ dàng bị t ừ
chối công nhận và thi hành tại Việt Nam.
Trong vụ Tyco Service và Leighton Contractors, căn cứ cho việc d ẫn
chứng của Tòa án là Tyco vào hoạt động kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam mà
chưa được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp giấy phép và không
nộp thuế từ hoạt động kinh doanh đó. Hành vi này đ ược xem là không tôn
trọng chủ quyền và pháp luật của Việt Nam. Điều đó nghe có vẻ h ợp lý.
Hợp đồng giữa hai bên là hợp đồng hợp tác kinh doanh, là m ột hình th ức
đầu tư nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và cần ph ải
được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp phép. Việc hợp đ ồng
không được cấp phép là lỗi của bên nước ngoài, tuy nhiên dù c ố tình hay

không, nhưng đó cũng là lỗi của bên Việt Nam vì bên Vi ệt Nam ch ắc ch ắn
biết, thậm chí còn biết rành hơn so với nước ngoài rằng h ợp đ ồng c ần
phải được cấp phép. Nói cách khác, đây là một lo ại h ợp đ ồng tr ốn tránh
pháp luật. Nếu từ chối phán quyết của trọng tài n ước ngoài ch ỉ d ựa trên
việc thiếu giấy phép, thì bên Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ vi ệc bảo v ệ
trật tự công, mặc dù cả hai đều có lỗi như nhau. Do đó, điều này sẽ khiến
các bên Việt Nam thực hiện các dạng hợp đồng trốn tránh pháp luật nhi ều
nhất có thể để hưởng lợi từ trường hợp như vậy. Đối với các bên n ước
ngoài, về nguyên tắc họ được cho rằng là biết luật pháp Việt Nam bất c ứ
khi nào họ tiến hành kinh doanh tại Việt Nam, hoặc với một bên là Việt
Nam. Tuy nhiên, điều này không thể xảy ra trong mọi trường hợp, đặc biệt là
đối với những giao dịch thương mại nhỏ với những doanh nghiệp nhỏ. Trong
khi đó, Việt Nam đang khuyến khích đầu tư nước ngoài và thúc đẩy thương


mại tại Việt Nam nên việc từ chối công nhận và thi hành phán quyết trọng tài
nước ngoài hoặc phán quyết nước ngoài trong trường hợp tương tự sẽ làm
nản lòng các nhà đầu tư hoặc thương nhân nước ngoài.
Chương III. ĐỀ XUẤT – KIẾN NGHỊ
Trong bối cảnh Việt Nam đang tăng cường các hoạt động h ội nh ập
kinh tế quốc tế, ngày càng có nhiều bản án, quy ết đ ịnh c ủa Tòa án n ước
ngoài được tuyên có nhu cầu được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp lu ật v ề công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự c ủa Tòa án
nước ngoài nói riêng, là một trong những nhiệm vụ được Đảng C ộng s ản
Việt Nam và Nhà nước Việt Nam quan tâm chỉ đạo trong đường lối chính
sách phát triển. Việc gia nhập các điều ước quốc tế và ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật nhằm nội luật hóa các điều ước quốc tế đã th ể
hiện nhận thức của Nhà nước rằng, việc từ chối công nhận bản án, quy ết
định dân sự của Tòa án nước ngoài sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường kinh

doanh tại Việt Nam cũng như ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghi ệp
Việt Nam khi có yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quy ết đ ịnh dân
sự của Tòa án Việt Nam tại nước ngoài.
Vì vậy, theo quan điểm của nhóm, trừ khi có những hậu quả gây nguy
hiểm hoặc đe dọa đến an ninh quốc gia, nền kinh tế, chính tr ị ho ặc nh ững
giá trị cốt lõi mà xã hội Việt Nam theo đuổi và bảo vệ, còn n ếu không thì
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài nên được công nhận và
cho thi hành. Trong trường hợp nếu còn nợ bất kì loại thuế nào, thì bên
nước ngoài sẽ phải trả cho Việt Nam. Điều này sẽ hài hòa l ợi ích c ủa ngân
sách nhà nước và các mục tiêu quan trọng của Việt Nam, cụ th ể là khuy ến
khích đầu tư nước ngoài và thúc đẩy thương mại tại Việt Nam.
Ngoài ra, trong điều kiện pháp luật hiện hành còn ch ưa quy đ ịnh c ụ
thể về “trật tự công”, cơ quan nhà nước có thẩm quy ền sớm ban hành văn
bản giải thích thống nhất nhận thức về “các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam” hoặc các quy định về khái niệm “trật tự công”. Vi ệc bảo vệ
trật tự công chắc chắn là cần thiết với mọi quốc gia. Tuy nhiên, nh ư đã
thấy ở trên, Tòa án Việt Nam nên có quan điểm về việc đánh giá “tr ật t ự
công” hay “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” trong các quy
định hiện hành phù hợp hơn với pháp luật của các quốc gia khác. Tr ật t ự
công nên được đánh giá một cách có giới hạn và ch ỉ nên đ ược s ử d ụng sau
khi đã cân bằng lợi ích của tất cả các bên một cách c ẩn th ận. Vi ệt Nam
đang hội nhập sâu rộng trong nền kinh tế thế giới, thì bắt bu ộc h ệ th ống
pháp luật của nước ta cũng phải có quy định phù hợp v ới thông lệ qu ốc tế.
Điều đó góp phần giúp giảm bớt chênh lệch, khác biệt về m ặt pháp lý, t ừ
đó tăng cường hợp tác quốc tế hướng đến hoàn thành các mục tiêu, nhiệm
vụ mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.




×