Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp thực phẩm Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.97 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một xu thế khách quan. Trong
hơn một thập kỷ trở lại đây, xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế có gia
tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học-công nghệ, sự
gia tăng hàng loạt các vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số,…Sự
gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hóa kinh tế đặt yêu cầu khách quan
đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược, hội nhập phù hợp vào nền
kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này không thể phát triển
nếu nhưu không mở cửa hội nhập.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia
hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề quan
trọng của công cuộc đổi mới. Tuy hội nhập sẽ đón được những cơ hội
song kinh tế Việt Nam nói riêng và ngành thực phẩm Việt Nam nói
chung vẫn gặp phải những thách thức. Nhằm nâng cao tư duy hiểu
biết, nhóm 3 quyết định chọn đề tài : “Nhận dạng các cơ hội và
thách thức cho các doanh nghiệp thực phẩm Việt Nam trong bối
cảnh hiện nay”.

2


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH THỰC PHẨM VIỆT NAM
1.1. Cơ cấu ngành thực phẩm Việt Nam
Qua hơn 20 năm xây dựng và đổi mới, ngành công nghiệp thực
phẩm đã từng bước đáp ứng nhiều sản phẩm thiết yếu cho nền kinh


tế, phục vụ nhu cầu trong nước, thay thế nhập khẩu và tham gia
xuất khẩu. Nhiều sản phẩm đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường
trong nước và quốc tế.
Hiện nay, ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam đạt 20% PIB
(tổng sản lượng nội địa). Thời gian qua, để giải quyết việc làm, tận
dụng thế mạnh về nguồn nhân lực, phù hợp với hoàn cảnh và tiềm
lực nước ta trong những năm đầu phát triển công nghiệp, Việt Nam
đã chú trọng phát triển ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp
tiêu dùng.
Qua những giai đoạn phát triển khác nhau, hiện nay ngành công
nghiệp thực phẩm Việt Nam gồm một số ngành kinh tế kỹ thuật
chính: Rượu- bia- nước giải khát; chế biến sữa và các sản phẩm từ
sữa; dầu thực vật; công nghiệp kỹ nghệ thực phẩm; chế biến bột và
tinh bột; công nghiệp sản xuất thuốc lá. Nhằm quản lý chặt chẽ
cũng như tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ, bền vững ngành công
nghiệp thực phẩm Việt Nam, Chính phủ, các bộ, ngành đã phê duyệt
nhiều quy hoạch, chiến lược và ban hành các văn bản pháp quy phù
hợp với từng giai đoạn phát triển và tầm nhìn cho các giai đoạn tiếp
theo.
1.2. Thực trạng ngành thực phẩm Việt Nam
Hiện nay, việc xây dựng và phát triển thương hiệu nói chung và
thương hiệu ngành thực phẩm nói riêng đang giành được sự quan
tâm lớn của Chính phủ. Bên cạnh đó, sản phẩm thực phẩm của Việt
Nam đang dần được ghi nhận và tạo được hình ảnh tốt trên thế giới.
Theo lãnh đạo Bộ Công Thương, hiện nông sản, thực phẩm là một
trong những ngành có tiềm năng to lớn của Việt Nam, đóng vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, tạo công ăn việc làm và
nâng cao thu nhập cho người lao động. Hiện nay, công tác xúc tiến
thương mại ngành thực phẩm đang được các hiệp hội, tổ chức xúc
tiến thương mại, doanh nghiệp thực hiện tích cực tại nhiều thị trường

khác nhau trên thế giới.

3


Tỷ trọng các mặt hàng thực phẩm năm 2015 (Theo VCCI)
Trong năm 2015, nông sản, các loại thịt, trứng và thủy hải sản tiếp
tục là 3 ngành hàng lớn nhất với tổng giá trị 26,7 tỷ USD, đóng góp
76,8% vào tổng giá trị tiêu thụ lương thực, thực phẩm trong nước.
Các sản phẩm nông sản và sữa có doanh thu tăng trưởng hai con số
11,8% và 16,5% so với năm 2012. Sữa, dầu ăn và chất béo và mì gói
là các ngành hàng có doanh thu năm 2015 vượt 1 tỷ USD, trong đó
doanh thu ngành sữa đath 2,9 tỷ USD với mức tăng trưởng cao nhất
16,5% so với năm ngoái. Ngoài ra, doanh thu bánh kẹo và bánh
nướng đạt 1,3 tỷ USD tăng hơn 8,2% so với năm 2015.
Trong 5 năm gần đây, lượng tiêu thụ thực phẩm chế biến và đồ uống
tăng trung bình hàng năm lần lượt ở ngưỡng 9,68% và 6,66%.
Năm 2016, Nielsen đã xếp hạng Việt Nam là quốc gia có mức tăng
trưởng tiêu thụ hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) cao nhất trong khu
vực châu Á với tỷ lệ 24,3%, tiếp theo là Ấn Độ (18,3%) và Trung
Quốc (14,6%).
Năm 2015, tiêu thụ thực phẩm và đồ uống (TPĐU) của Việt Nam là
42,8 tỷ USD chiếm 40,5% tổng mức tiêu thụ của cả nước và có tốc
độ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) là 11% trong giai đoạn 20102014. Theo tổ chức nghiên cứu Business Monitor International (BMI),
tăng trưởng doanh thu ngành trong 2 năm 2014 và 2015 lần lượt là
14,7% và 14,3%, và dự báo mức tăng trưởng kép hằng năm (CAGR)
trong giai đoạn 2016-2019 có thể đạt 16,1%. Đến năm 2020, Việt
Nam được đánh giá là nước có tăng trưởng tiêu dùng thực phẩm – đồ
uống cao thứ 3 trong nhóm các nước châu Á được khảo sát. Theo dự
báo của Hãng BMI Research, ngành công nghiệp thực phẩm Việt

Nam đạt tăng trưởng kép hàng năm trong giai đoạn 2015-2020 là
10,9%.Thu nhập của người dân Việt Nam vẫn thấp hơn các nước
phát triển, vì vậy, nhu cầu tiêu dùng sẽ tập trung vào nhóm hàng
thực phẩm và đồ dùng thiết yếu công nghệ phục vụ sản xuất...
4


Thị trường thực phẩm - đồ uống được đánh giá rất tiềm năng trong
năm 2017 - 2018. Theo nhận định của một số chuyên gia, sau một
vài năm có dấu hiệu chững lại, ngành thực phẩm - đồ uống đang dần
lấy lại đà và tăng trưởng trở lại. Tổ chức Business Monitor
International (BMI) dự báo, tốc độ tăng trưởng của ngành công
nghiệp thực phẩm và đồ uống sẽ duy trì mức tăng trưởng kép hàng
năm là 10,9% cho giai đoạn 2017 - 2019 nhờ thu nhập cải thiện và
xu hướng tiêu dùng sản phẩm giá trị cao hơn. Còn theo thống kê gần
đây nhất của Tổng cục thống kê, sản xuất, chế biến thực phẩm trong
9 tháng đầu năm 2017 tăng 6,6%, sản xuất đồ uống tăng 5% so với
cùng kỳ năm trước.

Đóng góp và tăng trưởng một số nhóm trong ngành FMCG năm
2017(Nguồn: Nielsen Việt Nam)
Đánh giá về tiềm năng tăng trưởng, ngành thực phẩm và đồ uống
hiện chiếm khoảng 15% GDP và có xu hướng tăng lên trong thời gian
tới. BMI dự đoán, tốc độ tăng trưởng ngành thực phẩm và đồ uống sẽ
cao hơn trong giai đoạn 2016 - 2019, trong đó khả năng Việt Nam sẽ
đứng ở vị trí thứ ba Châu Á. Bên cạnh đó, với tỷ lệ dân số trẻ ngày
một cao (ước tính khoảng trên 50% dân số Việt Nam dưới 30 tuổi),
mức thu nhập được cải thiện và thói quen mua sắm thực phẩm chế
biến sẵn ngày càng phổ biến, sự phong phú cùng với sự dồi dào các
sản phẩm nông nghiệp - nguồn nguyên liệu thô cung ứng cho hoạt

động chế biến thực phẩm, đồ uống… đang là những lợi thế để
các doanh nghiệp trong ngành đa dạng hóa chủng loại sản phẩm
nhằm đáp ứng với nhu cầu liên tục thay đổi của người tiêu dùng, và
5


là những điều kiện thuận lợi góp phần giúp Việt Nam trở thành thị
trường tiêu thụ thực phẩm - đồ uống tiềm năng trong khu vực.
Bia, đồ uống không cồn và thực phẩm là 3 nhóm tăng trưởng nhanh
nhất trong ngành FMCG (ngành hàng tiêu dùng nhanh).
Bộ Công thương đã xếp ngành công nghiệp thực phẩm vào nhóm
ngành đang có lợi thế cạnh tranh và có định hướng, chiến lược phát
triển trên cơ sở sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, khai thác sử
dụng tối đa nguyên liệu trong nước, tạo sản phẩm đa dạng, đảm bảo
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ba xu hướng chủ đạo của ngành thực phẩm - đồ uống 2017, 2018:
Khảo sát chuyên gia của Vietnam Report cho thấy, có 3 xu hướng
chính trong ngành thực phẩm - đồ uống trong năm 2017 - 2018:
Thứ nhất, phát triển nhiều dịch vụ và phương thức bán hàng
Một số doanh nghiệp ngành thực phẩm - đồ uống, ví như Vinamilk,
đã ra mắt các website bán hàng trực tuyến nhằm phục vụ nhu cầu
mua sắm online của khách hàng. Đồng thời người tiêu dùng cũng có
thể đặt mua định kỳ sản phẩm tại các đại lý của các công ty thực
phẩm – đồ uống và được giao hàng định kỳ tận nơi, vừa tiết kiệm
thời gian, vừa phù hợp với sở thích và nhu cầu dinh dưỡng của từng
cá nhân/ hộ gia đình ở từng địa phương khác nhau. Việc thay đổi
dịch vụ và phương thức bán hàng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận
tốt hơn với từng nhóm đối tượng, qua đó tăng doanh số bán hàng và
mức độ hài lòng của khách hàng đối với sản phẩm - dịch vụ của
công ty.

Thứ hai, nhóm hàng thực phẩm - đồ uống tiện dụng có nhiều
tiềm năng tăng trưởng nhưng đầy cạnh tranh
Cùng với sự phục hồi của đà tăng trưởng kinh tế, sức cầu về các sản
phẩm thực phẩm - đồ uống cũng tăng nhanh chóng, đặc biệt ở nhóm
ngành thực phẩm đóng gói/ chế biến sẵn (ready to eat) và đồ uống
đóng chai (ready to drink) nhờ tính tiện dụng. Sắp tới, khi các doanh
nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa, phải dồn sức cho cạnh tranh,
tăng năng suất lao động… thì nhu cầu sử dụng các sản phẩm thực
phẩm, đồ uống tiện dụng sẽ còn lớn hơn rất nhiều, tất nhiên kèm
theo đó vẫn phải đảm bảo đủ chất dinh dưỡng, tính vệ sinh an toàn
thực phẩm…
6


Theo đánh giá của Kantar Worldpanel về ngành hàng thực phẩm
đóng gói (tháng 7/ 2016), số lượng sản phẩm mới được tung ra thị
trường trong ngành hàng Thực phẩm đóng gói cao gấp 2-3 lần so với
ngành hàng sữa và các sản phẩm từ sữa, đem lại cho người tiêu
dùng nhiều hơn các cơ hội lựa chọn. Bên cạnh đó, Kantar Worldpanel
cũng dự báo mức chi tiêu hàng tháng cho các sản phẩm đóng gói sẽ
tăng lên trong giai đoạn 2016 - 2020, trong đó khu vực thành thị
tăng 13%, khu vực nông thôn tăng 18%. Điều này sẽ làm thị trường
có tính cạnh tranh cao hơn bao giờ hết.
Thứ ba, xu hướng đầu tư sản xuất các sản phẩm sạch
Khi thu nhập tăng lên, người tiêu dùng sẵn sàng chi trả mức chi tiêu
cao hơn cho các sản phẩm thực phẩm - đồ uống có lợi cho sức khỏe
và thân thiện với môi trường. Việt Nam là một trong những nước dẫn
đầu về xuất khẩu sản phẩm nông sản nhưng các dòng sản phẩm chế
biến sẵn, đặc biệt là sản phẩm sạch được chế biến an toàn và tinh tế
vẫn chưa được khai thác hiệu quả. Nguyên nhân chính là do chênh

lệch về trình độ công nghệ, trang thiết bị và nguồn nhân lực. Đây là
một yếu điểm của doanh nghiệp nội khi cạnh tranh với các công ty
nước ngoài. Việc bắt tay với các doanh nghiệp ngoại thông qua hình
thức M&A, hợp tác chiến lược… được kỳ vọng sẽ làm thay đổi
phương thức sản xuất của các doanh nghiệp nội địa hiện nay.
Ba xu thế chủ đạo trong phong cách tiêu dùng ngành thực
phẩm đồ uống năm 2017, 2018:
Thứ nhất, nhu cầu sử dụng các loại thực phẩm tự nhiên, hữu
cơ (organic)
Trong bối cảnh thu nhập đầu người tăng lên, người tiêu dùng có xu
hướng lựa chọn các thực phẩm sạch, có nguồn gốc hữu cơ và thân
thiện với môi trường, và sẵn sàng chi trả khoản tiền cao hơn cho bữa
ăn hàng ngày. Hơn 86% người tiêu dùng tại 2 thành phố lớn là Hà
Nội và TP. Hồ Chí Minh khi được hỏi đã lựa chọn các sản phẩm tự
nhiên và hữu cơ, hoặc các sản phẩm đúng mùa vụ để đảm bảo an
toàn cho sức khỏe.
Thời gian qua, có khá nhiều công ty đã mạnh dạn đầu tư vào lĩnh
vực này, đặc biệt có cả sự tham gia của những các ông lớn ngành
bán lẻ (với lợi thế sẵn có các kênh bán hàng: siêu thị, cửa hàng tiện
lợi…)

7


Thứ hai, tái định nghĩa lại thực phẩm tiện lợi
Trong cuộc sống hiện đại, quan điểm về gia đình, đặc biệt ở khu vực
thành thị đã có sự thay đổi: số lượng người trong một gia đình
thường chỉ có 4-5 người, tỷ lệ người sống độc thân tăng…, do đó nhu
cầu với nhóm hàng hóa tiêu dùng nhanh cũng có sự khác biệt so với
trước đây. Để phục vụ cho các đối tượng này, các công ty thực phẩm

- đồ uống đã thay đổi quy cách và trọng lượng hàng hóa đóng gói
sản phẩm nhỏ, sử dụng phù hợp với nhu cầu của cá nhân và dễ dàng
mang theo sử dụng trên đường đi. Ngoài ra, các công ty cũng hướng
tới cung cấp các Bữa ăn tươi (ready meals) nhằm mang đến cho
người tiêu dùng không chỉ là những sản phẩm đóng gói/ ăn liền khô,
mà còn là những sản phẩm tươi, ngon, bổ dưỡng, an toàn và tiện lợi.
Thứ ba, công nghệ làm thay đổi trải nghiệm ẩm thực của
người tiêu dùng
Giới trẻ Việt Nam đa phần là những bạn trẻ năng động, thích trải
nghiệm và sẵn sàng chi trả đề được thưởng thức các loại thực phẩm
- đồ uống ngon và lạ. Cùng với sự phát triển của công nghệ, họ có
thể dễ dàng truy cập các xu thế ẩm thực mới nhất, hot nhất qua
mạng xã hội và đặt hàng thông qua các ứng dụng cho phép tìm
kiếm địa điểm ăn uống (Foody), giao đồ ăn (deliveryNow) và đặt bàn
(TableNow)... khiến thị trường ẩm thực trở nên sôi động hơn. Theo
nhận định của Nielsen, thực phẩm và đồ uống là 2 trong 10 sản
phẩm được giao dịch trên mạng nhiều nhất trong năm 2017.
Đối với các công ty sản xuất, họ cũng qua đó nắm bắt được xu thế
tiêu dùng thực phẩm - đồ uống để đa dạng hóa và cải thiện các dòng
sản phẩm sao cho phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng hiện đại
(ví dụ: trà sữa đóng gói, ngũ cốc ăn liền…)
Ưu điểm:
Ngành công nghiệp thực phẩm giúp nâng cao sản lượng và GDP, và
cũng là lĩnh vực thu hút nhiều đầu tư nước ngoài trong những năm
gần đây. Một số doanh nghiệp nổi tiếng là Unilever, Nestlé và San
Miguel. Ngoài ra, người tiêu dùng Việt Nam, nhất là giới trẻ và những
người giàu có dần dần có quan tâm đến các sản phẩm thương hiệu.
Tại thời điểm này, với các chương trình tiếp thị, các sản phẩm
phương Tây nổi tiếng đang rất phổ biến ở thị trường Việt Nam.
Bên cạnh đó, trung tâm thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ

Chí Minh đang trở thành thị trường tiềm năng. Ngoài ra, các sản
phẩm nông nghiệp phong phú trong nước cũng giải quyết sự ổn định
8


của vật liệu cung cấp và giá cả sản xuất trong nước - một trong
những lợi thế quan trọng trong giai đoạn không ổn định như hiện
nay.
Nhược điểm:
Khoảng cách lớn về thu nhập giữa thành phố và nông thôn tạo nên
một sự khác biệt trong việc tiêu thụ thực phẩm theo thu nhập của
người dân. Ngành công nghiệp thực phẩm nói chung vẫn còn chưa
mở cửa kinh tế, ngoại trừ một số lĩnh vực chính như bơ và bánh kẹo.
Xem xét điều kiện lâu dài, công nghiệp thực phẩm Việt Nam còn
xem là quá chậm trong việc áp dụng công nghệ mới để cạnh tranh
với các nước khác trên thế giới mặc dù Chính phủ đang nỗ lực để
nhận ra điều này. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn rất yếu.
Đường bộ, đường sắt, cảng không thể đáp ứng sự phát triển của nền
kinh tế cũng như liên kết với thế giới bên ngoài.
CHƯƠNG II: NHẬN DẠNG CÁC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO
CÁC DOANH NGHIỆP THỰC PHẨM VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HIỆN NAY
2.1.Bối cảnh thế giới đối với các doanh nghiệp thực phẩm
Việt Nam
2.1.1. Cơ hội
-Kinh tế thế giới dần ổn định
Năm 2017, kinh tế thế giới hồi phục mạnh mẽ nhờ tiêu dùng cá nhân
tăng, sự phát triển bền vững của đầu tư toàn cầu, sự cải thiện của
thị trường lao động, giá dầu thế giới hồi phục mạnh… Một thập niên
sau cuộc khủng hoảng tài chính làm rung động cả thế giới, tốc độ

tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên toàn cầu đã bắt đầu
có đà phục hồi, kinh tế thế giới đang thực sự khởi sắc.
Kinh tế Mỹ tăng trưởng vững mạnh: Tình hình kinh tế Mỹ lạc quan
hơn, Viện Quản lý Nguồn cung Mỹ (ISM) cho biết, chỉ số Nhà quản lý
mua hàng (PMI) tăng lên mức 59,7% trong tháng 12-2017, so với
mức 58,2% trong tháng 11-2017. Điều này cho thấy, ngành chế tạo
Mỹ tiếp tục tăng trưởng. Báo cáo gần đây của Bộ Thương mại Mỹ cho
biết, chi tiêu xây dựng tăng 0,8%, đạt mức cao nhất từ trước tới nay,
khoảng 1,257 nghìn tỷ USD trong tháng 11-2017, tăng 2,4% so với
cùng kỳ năm 2016. Nhờ số liệu tích cực từ ngành chế tạo của Mỹ, giá
dầu gia tăng, giá cổ phiếu của các doanh nghiệp công nghệ tiếp tục
tăng mạnh, thị trường chứng khoán Mỹ khởi sắc. Nhìn chung, các chỉ
số kinh tế vĩ mô như tăng trưởng, tỷ lệ thất nghiệp (4,1%) và lạm
phát (1,7%) đều cho thấy, năm 2017 được đánh giá là năm tăng
trưởng tốt đối với nền kinh tế Mỹ trong thập niên qua.

9


Khu vực châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động: Châu Á Thái Bình Dương vẫn là khu vực năng động nhất về kinh tế và là
động lực chính cho tăng trưởng toàn cầu trong gần một thập niên
sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Trong các năm
qua, dù vẫn phải đối mặt với hàng loạt thách thức toàn cầu nhằm
duy trì đà tăng trưởng, nhưng khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn
đi đầu về hội nhập, lãnh đạo các nền kinh tế khu vực đã nỗ lực thúc
đẩy liên kết kinh tế và tự do hóa thương mại. Theo báo cáo của Ủy
ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Liên
hợp quốc (ESCAP), GDP trung bình của các nền kinh tế đang phát
triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương tăng 5,4% trong năm 2017,
chủ yếu là do tiêu dùng trong nước. Ngân hàng Phát triển châu Á

(ADB) thống kê mức tăng trưởng kinh tế của châu Á 6% trong năm
2017, nhờ tăng trưởng xuất khẩu và tiêu thụ nhiên liệu nội địa cao
hơn so với dự kiến. Triển vọng tăng trưởng tại Trung Quốc, nền kinh
tế lớn thứ hai trên thế giới, được điều chỉnh tăng nhờ giữ vững mức
tiêu dùng. Nam Á vẫn là khu vực phát triển nhanh nhất ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương (6,5%). Tăng trưởng của khu vực Đông
Nam Á được hưởng lợi từ các hoạt động đầu tư và xuất khẩu mạnh
mẽ hơn, với mức tăng trưởng cao hơn cho Brunei, Malaysia,
Philippines, Singapore và Thái Lan. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng tiếp tục
đóng vai trò quan trọng ở Indonesia, Philippines và Thái Lan. Nhu
cầu nội địa mạnh mẽ, đặc biệt là tiêu dùng cá nhân và đầu tư, sẽ
tiếp tục hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng ở tiểu vùng.
Kinh tế EU đang dần phục hồi: Năm 2017 là năm khá bất ngờ và
thuận lợi đối với các nền kinh tế EU bất chấp những bất ổn chính trị
tại khu vực. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết, sự phục hồi của châu
Âu rất mạnh, sự phục hồi này đã lan ra khắp thế giới, làm cho khu
vực này trở thành “động cơ” của tăng trưởng kinh tế và thương mại
toàn cầu. Diễn biến trên thị trường lao động tốt hơn, cũng như các
điều kiện tài chính thuận lợi hơn đã làm tăng nhu cầu trong nước.
Trong thời gian tới, lĩnh vực tiêu dùng sẽ giúp tạo thêm việc làm, là
nhân tố chính thúc đẩy sự hồi phục kinh tế. Thu nhập của người dân
sẽ bắt đầu đi lên trong điều kiện số lượng người có việc làm tăng lên,
đi cùng với sự tăng nhẹ của giá cả. Tại một số nước, môi trường đầu
tư nhờ các chính sách kinh tế được cải thiện một phần. Đáng chú ý,
tại Pháp, dự luật cải cách thuế để kích thích đầu tư đã được thông
qua và có hiệu lực vào năm 2018. Tại Hà Lan, liên minh chính phủ
mới cũng đang lên kế hoạch cho các biện pháp tăng cường đầu tư.
Sự phục hồi của kinh tế thế giới đã hỗ trợ hoạt động xuất khẩu, mặc
dù đồng euro mạnh lên so với những đồng tiền khác và nhu cầu
hàng hóa, dịch vụ từ châu Âu giảm. Sự hưởng lợi từ kinh tế thậm chí

còn lớn hơn bên ngoài khu vực đồng euro. Ba nền kinh tế lớn nhất
của Đông Âu đã vượt qua cả tốc độ tăng trưởng của Đức trong vài
10


năm qua. Ba Lan, Rumani và Cộng hòa Séc đang trải qua giai đoạn
tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp và lạm phát nằm
trong tầm kiểm soát.
Đặc biệt, Mỹ và Châu Âu là 2 khu vực thương mại chính của Việt
Nam, kinh tế dần phục hồi cũng là nhân tố hỗ trợ tăng trưởng
GDP của Việt Nam. Từ đó, tạo cơ hội phát triển cho các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp thực phẩm Việt
Nam nói riêng.
GDP tăng thì nhu cầu sử dụng hàng thực phẩm tăng lên, sẽ thu hút
nhiều vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài FDI và vốn đầu tư gián tiếp
FII. Khi có nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia, sẽ giúp cải thiện
tính hiệu quả và sự minh bạch của thị trường, kéo theo sự năng động
và làm thị trường phát triển. Hơn nữa, khi tốc độ tăng GDP tăng, khả
năng cao sẽ giúp tăng số lượng doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp thực phẩm nói riêng, tạo công ăn việc làm cho nền kinh tế.
Hoạt động M&A trong ngành thực phẩm - đồ uống cũng diễn ra rất
sôi động trong thời gian qua, cả về số lượng và chất lượng, tạo nên
những "ông lớn" của ngành thực phẩm - đồ uống, điển hình như
Masan, Thành Thành Công, Kido, Pan Group… Các tên tuổi lớn trong
ngành FMCG đến từ Thái Lan, Hàn Quốc với lợi thế về tài chính, kinh
nghiệm và công nghệ cũng tích cực đầu tư vào Việt Nam. Theo
nghiên cứu của BMI, cơ hội đầu tư cho ngành chế biến thực phẩm
của Việt Nam vẫn còn khá lớn, đặc biệt trong ngành đồ uống, thực
phẩm chế biến và sữa.
-Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở rộng thị trường xuất nhập

khẩu; tạo điều kiện tiếp thu khoa học, công nghệ tiên tiến;
mở rộng giao lưu guồn lực đối với các doanh nghiệp
Nội dung của hội nhập là mở rộng thị trường cho nhau, vì vậy khi
Việt
nam
gia
nhập
các tổ chức quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc
được hưởng nhiều ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế
quan

các
chế
độ
đãi
ngộ
khác,
tạo
điều kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới.
Không chỉ là thị trường tiêu thụ, Việt Nam còn có tiềm năng xuất
khẩu các sản phẩm thực phẩm - đồ uống và hiện đã có những doanh
nghiệp tương đối mạnh, có tên tuổi, có sức cạnh tranh, thường
xuyên dẫn đầu tại thị trường trong nước, đủ cơ sở để xuất khẩu ra
nước ngoài.

11


Khi thời điểm Hiệp định Thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA) sắp
đi đến ký kết chính thức, các doanh nghiệp đều đặt kỳ vọng đây sẽ

là cơ hội lớn để thương hiệu Việt xuất hiện tại nhiều quốc gia hơn
trên thế giới. Thủy sản, cà phê, bánh kẹo được dự đoán sẽ là 3
ngành hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn trong thời gian tới.
Trong tiến trình hộ nhập và phát triển, điều tất yếu là Việt Nam sẽ
được tiếp thu kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, công nghệ tiên tiến
trên thế giới, góp phần cải tiến sản phẩm của mình để nâng cao sức
cạnh tranh trên thị trường.
Với dân số hơn 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào.
Nhưng
nếu
chúng
ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực sẽ lãng phí và
kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho nguồn
lực nước ta được khai thông, giao lưu với các nước, thực hiện theo
đường lối đối ngoại của Đảng: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”.
2.1.2. Thách thức
-Xuất khẩu gặp khó khăn
Khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, các
hiệp định FTA và BIT mà Việt Nam đang tham gia gặp phải thách
thức lớn. Bởi mấu chốt của các cam kết FTA và BIT là giảm bớt hàng
rào thuế quan, rất có thể các nước giàu sẽ xây dựng hàng rào phi
thuế quan tinh vi (NTBS) để bảo vệ ngành công nghiệp nội địa của
mình, dó đó, trên thực tế sẽ gây cản trở cho xuất khẩu Việt Nam.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu thực sự
gặp khó khăn với các quy định NTBS nghiêm ngặt của nước nhập
khẩu. Nhiều loại rào cản phi thuế quan, vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch
động thực vật (SPS), hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) và
biện pháp bảo hộ tạm thời đã gây khó khăn cho các sản phẩm thực
phẩm chế biến của Việt Nam.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động như
hiện nay, các rào cản kỹ thuật, các đòi hỏi về chất lượng, an toàn vệ
sinh thực phẩm của các nước ngày càng khắt khe và yêu cầu cao,…
cũng là nhân tố gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu ra thị trường thế giới.
2.2. Bối cảnh trong nước đối với các doanh nghiệp thực phẩm
Vệt Nam
2.2.1.Cơ hội
-GDP tiếp tục tăng trưởng với lạm phát được kiềm chế
12


GDP Việt Nam tăng trưởng 6,21% năm 2016 từ 5,73% trong năm
2015, có sự phục hồi đáng kể. Trong khi đó, lạm phát tiếp tục được
kiềm chế từ 6,04% năm 2013 còn 4,74% năm 2016. Đến năm 2017,
tăng trưởng GDP đạt 6,81%, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp
dưới 4%. Lạm phát toàn phần trong cả năm 2017 nhìn chung suy
giảm mạnh mẽ. Tại thời điểm tháng 12/2017, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) chỉ tăng 2,60% so với cùng kỳ năm trước.
GDP tăng trưởng với mức đáng kể và lạm phát được kiềm chế là
nguyên nhân giúp nhu cầu sửa dụng các mặt hàng thực phẩm gia
tăng, chi tiêu cho các mặt hàng thực phẩm tăng lên. Các doanh
nghiệp sẽ có cơ hội phát mở rộng thị trường, phát triển thị phần.
-Cơ cấu dân số vàng
Là quốc gia có dân số đứng thứ 3 Đông Nam Á với hơn 92 triệu người
vào cuối năm 2016. Từ năm 2007, dân số tăng trưởng ở mức ổn định
khoảng 1% hay 1 triêu người mỗi năm. Đáng chú ý người trong độ
tuổi 15-39 chiếm 40,1 triệu hay 45,2% dân số, đây là động lực tăng
trưởng chính của ngành hàng tiêu dùng. Hơn nữa, Việt Nam là nước
có dân số trẻ (68% hay 60,7 triệu người dưới 40 tuổi) và lực lượng

lao động dồi dào (76% hay 68,2 triệu người tuổi từ 15-60), đây là
nguồn cung nhân lực chủ yếu cho các doanh nghiệp thực phẩm.
Ngoài ra, thu nhập của người dân cũng tăng đáng kể rong những
năm qua và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Cơ cấu chi tiêu của người tiêu dùng Việt Nam 9 tháng đâu năm 2018
(Theo Vietnam Report)

13


Công ty Cổ phần báo cáo đánh giá Việt Nam - Vietnam Report – VNR
cho biết, Việt Nam là một trong những thị trường có sức tiêu thụ
thực phẩm - đồ uống rất tiềm năng. Chỉ số tiêu thụ của ngành sản
xuất chế biến thực phẩm và sản xuất đồ uống trong 9 tháng đầu
năm 2018 chiếm 34% tăng lần lượt 8,1% và 10,2% so với cùng kỳ
năm trước (theo GSO).
-Chính sách giảm thuế và giãn thuế
Năm 2016, chính sách thuế được lới lỏng nhằm hỗ trợ tiêu thụ trong
nước và tăng trưởng kinh tế. Trong đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SMEs-có dưới 200 lao động và doanh thu dưới 20 tỷ đồng) và doanh
nghiệp trong các lĩnh vực nông nghiệp (có hơn 300 loa động) được
hưởng 6 tháng gia hạn nộp thuế đối với thuế thu nhập doanh
nghiệp(TNDN) và thuế GTGT (GTGT). Doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng
được ưu đãi thuế TNDN ở mức 20% từ ngày 01/07/2013. Hơn nữa,
thuế TNDN chung đã được giảm xuống 22% từ ngày 01/01/2014.
Nhờ đó, các doanh nghiệp thực phẩm có thể mạnh tay đầu tư phát
triển thị trường.
Thêm vào đó, bằng việc tăng các khoản giảm trừ cá nhân (từ 4 triệu
đồng đến 9 triệu đồng) và trợ cấp người phụ thuộc (từ 1,6 triệu đến

3,6 triệu mỗi người), người lao động tiết kiệm được đáng kể thuế thu
nhập cá nhân, từ đó làm tăng thu nhập khả dụng và chi tiêu. Nhu
cầu chi tiêu cho hàng thực phẩm tăng, các doanh nghiệp thực phẩm
có cơ hội phát triển.
-Mạng lưới bán lẻ dày đặc
Việt Nam có một mạng lưới bán lẻ dày đặc, rộng khắp cả nước, bao
gồm 424 siêu thị, 23 đại siêu thị, 365 siêu thị mini và các cửa hàng
tiện lợi gần 779.000 chợ truyền thống và các cửa hàng tư nhân nhỏ.
Các cửa hàng tạp hóa chiếm ưu thế hơn với hơn 636.000 đơn vị. Số
lượng các cửa hàng bán lẻ tăng hằng năm ở mức 1,2% trong giai
đoạn 2009-2013. Ngoài ra các nhà bán lẻ lớn của Việt Nam như
Saigon Coop, Big C, Mega Market đã tiếp tục cam kết mở rộng hệ
thống không chỉ ở các thành phố lớn mà còn ở nhiều tỉnh thành. Việc
mở rộng liên tục các cửa hàng bán lẻ là một trong những nhân tố
khuyến khích người dân mua hàng và làm tăng giá trị tiêu thụ.
Hơn nữa, mạng lưới bán lẻ dày đặc là một lợi thế lớn giúp các doanh
nghiệp thực phẩm mở rộng kênh phân phối của mình.
-Sức khỏe là mối quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng

14


Khi được hỏi về các hoạt động hằng ngày để giữ sức khỏe, ăn uống
điều độ là hoạt động được 78% người khảo sát chọn, tiếp theo là
thức ăn tươi hoặc tự nhiên (47%) và tập thể dục (46%). Trong khi
dinh dưỡng của bữa ăn vị trí thứ tư (41%), người tiêu dùng cũng có
xu hướng duy trì tâm trạng thoải mái như một cách để giữ sức khỏe.
Tiêu thụ thực phẩm tăng trưởng 2 con số năm 2016, tiêu thụ thực
phẩm trong nước đạt 34,8 tỷ USD với tốc độ CAGR đáng kể 11,4%
trong giai đoạn 2011-2016. Hơn nữa, với bản chất là một ngành

hàng phòng thủ và thiết yếu cho cuộc sống, lương thực, thực phẩm
luôn là một trong những ngành mục tiêu để cân bằng danh mục đầu
tư.
2.2.2.Thách thức
-Chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường nội địa
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
của Việt Nam đang có xu hướng tăng trưởng mạnh, từng bước cung
ứng nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao, chiếm lĩnh thị trường nội
địa và gia tăng xuất khẩu. Lượng tiêu thụ thực phẩm hàng năm của
Việt Nam ước tính chiếm khoảng 15% GDP, và trong 9 tháng đầu
năm 2017 đã tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2016. Tuy nhiên, mức
tăng của sản lượng sản xuất ngành chế biến thực phẩm mới chỉ tăng
9%, hiện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường nội địa.
Nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước còn thiếu và không ổn
định, nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn. Điều này dẫn đến
các doanh nghiệp không chủ động được số lượng, chất lượng, giá
nguyên liệu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ví dụ như sữa tươi nguyên liệu hiện mới đáp ứng được khoảng 40%
nhu cầu sản xuất và tiêu thụ trong nước, còn lại phải nhập khẩu. Kim
ngạch nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa hàng năm trên dưới 1 tỷ
USD. Trong các nguyên liệu sản xuất bia, trừ gạo được sử dụng với
số lượng nhỏ được sản xuất trong nước, còn lại hoa bia và đại mạch
là hoàn toàn phải nhập khẩu.
Việt Nam cũng chưa phát triển được cây nguyên liệu có dầu nên
hàng năm các DN phải nhập khẩu trên 90% nguyên liệu dầu thô các
loại để tinh luyện thành dầu ăn tiêu thụ trong nước và phục vụ xuất
khẩu. Nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất bánh kẹo là bột mỳ, hương
liệu và chất phụ gia phần lớn cũng phải nhập khẩu.
-Cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài


15


Việt Nam đã là thành viên của WTO, hàng hóa nói chung, thực phẩm
chế biến riêng của nhiều nước sẽ tràn vào nước ta, gây không ít khó
khăn cho ngành công nghiệp thực phẩm, khiến doanh nghiệp dễ
“thua ngay trên sân nhà” chưa nói đến “chiến thắng trên sân người”
nếu như chúng ta không có chiến lược phát triển và đầu tư thích
hợp. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế là thử thách rất lớn đối với
các doanh nghiệp trong ngành thực phẩm Việt Nam.
Doanh nghiệp thực phẩm-đồ uống Việt có nguy cơ mất chỗ đứng
trên thị trường Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp chế biến thực phẩm
có thương hiệu lớn, vốn đang được xem là trụ cột thị trường, đang
dần mất vào tay những doanh nghiệp ngoại. Cụ thể như các thương
hiệu Việt nổi tiếng như Vissan, Công ty CP chế biến hàng xuất khẩu
Cầu tre, Kinh Đô, Bibica, ABC…
Cụ thể như Tập đoàn CJ Chelijedang (Hàn Quốc) đã chính thức mua
lại cổ phần của Công ty Cầu Tre với tỷ lệ sở hữu lên tới 71,6%. Tập
đoàn này cũng đang nắm giữ 64,9% vốn của Công ty TNHH thực
phẩm Minh Đạt và 3,8% cổ phần tại Công ty Vissan.
Hay các doanh nghiệp của Thái Lan hợp tác chiến lược cùng Masan,
đầu tư cổ phiếu Vinamilk; vụ Daesang Corp (Hàn Quốc) đầu tư trọn
100% cổ phần của CTCP thực phẩm Đức Việt; CTCP Á Mỹ Gia trao gửi
toàn bộ 100% cổ phần của mình cho Earth Chemical (Nhật Bản);
Fraser & Neave Ltd. (Singapore) mua 5,4% cổ phần của Vinamilk…
-Trình độ nhân lực hạn chế
Trình độ cán bộ quản lý chưa được chuyên sâu. Trình độ người lao
động còn khá yếu so với các nước trọng khu vực.
-Cơ sở hạ tầng còn lạc hậu
Mặc dù các doanh nghiệp thực phẩm Việt Nam đã áp dụng những

máy móc, thiết bị hiện đại vào sản xuất, chế biến thực phẩm. Tuy
nhiên, nhìn chung, công nghệ của Việt Nam vẫn cần được cải thiện,
nâng cấp để nâng cao năng suất cho sản phẩm
Bên cạnh những thành quả của ngành chế biến nông sản, ngành
công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển còn khá khiêm tốn so với
tiềm năng. Nguyên nhân có nhiều, song tựu trung lại bao gồm : Liên
kết lỏng lẻo từ khâu sản xuất, thu gom đến phát triển vùng nghiên
liệu, chế biến, công nghệ sản xuất vẫn còn lạc hậu, kiểm soát an
toàn thực phẩm còn bất cập, đầu tư còn hạn chế, sản xuất nhỏ lẻ,
phân tán, đầu vào có chất lượng không cao, thiếu ổn định…

16


PHẦN III: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP THỰC
PHẨM VIỆT NAM
1.Tập trung Nghiên cứu&Phát triển (R&D) theo đặc thù
ngành
-Hoạt động Nghiên cứu & Phát triển đặc biệt quan trọng, giúp Doanh
nghiệp luôn dẫn đầu đối thủ về phát triển sản phẩm và công nghệ
mới để đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng với giá cả hợp lý và chi
phí tối ưu nhất.
-Đặc biệt, trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của các Doanh
nghiệp Thực phẩm thì công tác quản trị Nghiên cứu & Phát triển
được đặt ra và được xem là ưu tiên hàng đầu. Vì sản phẩm của
những ngành này điều liên quan đến sức khỏe người tiêu dùng. Do
đó, Doanh nghiệp rất cần một công cụ giúp quản lý, kiểm soát chặt
chẽ được hoạt động Nghiên cứu & Phát triển.
-Phân hệ quản trị Nghiên cứu & Phát triển gồm những chức năng:
Quản lý nghiệp vụ R&D; Quản lý hồ sơ kỹ thuật sản phẩm; Quản lý

sản xuất thử; Quản lý chiết tính giá thành; Bảo mật mã NVL, công
thức nghiên cứu; Tham chiếu thông tin nghiên cứu cho sản phẩm;
Hệ thống phiếu in, báo cáo.
2.Tập trung chủ yếu vào việc quảng bá thương hiệu, hình
ảnh doanh nghiệp, đăng kí nhãn hiệu sản phẩm, bảo hộ sở
hữu công nghiệp
-Thương hiệu là yếu tố giúp khách hàng nhận diện được doanh
nghiệp vì vậy quảng bá thương hiệu chính là mấu chốt giúp doanh
nghiệp phát triển. Lấy được lòng tin của khách hàng nghĩa là doanh
nghiệp đã có một nửa của thành công.
-Triển khai các chương trình xây dựng Chiến lược thương hiệu sản
phẩm, định hướng phát triển sản phẩm là điều cần thiết.
-Sản phẩm, hàng hóa đưa ra trên thị trường cần thiết phải đăng ký
nhãn hiệu sản phẩm và được bảo hộ sở hữu công nghiệp
3.Đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ và nguồn
nhân lực có chất lượng cao trong mọi quy trình từ sản xuất,
thu hoạch, chế biến , bảo quản và tiêu thụ sản phẩm
-Đối với một quy trình công nghệ sản xuất thực phẩm ở bất cứ quy
mô nào, yếu tố nguyên liệu đầu vào là cực kỳ quan trọng, nó quyết
định đến chất lượng và cả giá thành của sản phẩm sau này. Chính vì
vậy, Doanh nghiệp cần quan tâm đến các yếu tố liên quan đến
nguyên liệu cũng như quản lý được nguồn/vùng nguyên liệu để đảm
bảo tình trạng sản xuất luôn ổn định.
-Máy móc, thiết bị là điều kiện cần để có thể sản xuất được thực
phẩm. Thiết bị càng hiện đại, càng tự động hóa và được chăm chút
17


về thiết kế cũng như khả năng vận hành sẽ giúp Doanh nghiệp tiết
kiệm được rất nhiều thời gian, tiền bạc trong quá trình sản xuất. Có

một sự thật là: chúng ta không thể sản xuất đủ thực phẩm để đáp
ứng nhu cầu sử dụng của con người nếu không có sự hỗ trợ đắc lực
của máy móc, thiết bị sản xuất.
-Nối tiếp điều kiện cần là thiết bị thì điều kiện đủ để sản xuất thực
phẩm chính là quy trình công nghệ. Như vậy, cùng với một loại
nguyên liệu như nhau, mỗi công nghệ khác nhau về trình độ sẽ cho
ra những sản phẩm khác nhau về chất lượng và cả hình thức bề
ngoài. Ngoài ra, công nghệ tối ưu sẽ giúp sản phẩm thực phẩm trở
nên tốt hơn, an toàn hơn và tiện dụng hơn.
-Bao bì thực phẩm là “ngôn ngữ” giao tiếp đầu tiên của sản phẩm
với khách hàng, do vậy, “ngôn ngữ” càng dễ hiểu, dễ nhận biết,
hoặc dễ thu hút sẽ chiến thắng trong vô số những “ngôn ngữ” tương
tự nhau. Ngoài ra, bao bì còn là phương tiện tiếp xúc trực tiếp với
thực phẩm, có tác dụng bảo quản, ngăn cách thực phẩm với môi
trường bên ngoài (các yếu tố gây hại), nên việc lựa chọn loại bao bì
an toàn, kiểu dáng thiết kế và hình thức trình bày như thế nào cho
tối giản nhất mà vẫn đạt được mục tiêu là giao tiếp với khách hàng
dễ dàng nhất là điều không dễ dàng!
-Vấn đề cho đầu ra sản phẩm là yếu tố cần sẽ nghĩ đầu tiên trước
khi xây dựng một kế hoạch sản xuất thật đầy đủ và rõ ràng.
=> Vì vậy, cần ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất, có
chiến lược phát triển ngắn hạn và dài hạn cụ thể, để doanh nghiệp
nâng cao được vị thế trên thị trường trong nước và quốc tế
4.Phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực dự báo, đổi
mới công tác xúc tiến thương mại, phát triển thị trường
Hiện nay, cơ sở hạ tầng của hầu hết các doanh nghiệp thực phẩm
Việt Nam nói chung vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, phát triển cơ sở
kết cấu hạ tầng tạo nền tảng vững chắc cho doanh nghiệp phát
triển. Đặc biệt, cần có hệ thống xử lý chất thải đảm bảo vệ sinh môi
trường theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.

Thường xuyên đổi mới, nâng cao công tác xúc tiến thương mại cho
phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn khác nhau để doanh nghiệp
phát triển ổn định

18


5. Đổi mới tổ chức sản xuất, cách thức tổ chức chuỗi cung
ứng, chuỗi giá trị trong sản xuất công nghiệp
Cách thức tổ chức sản xuất, cách thức tổ chức chuỗi cung ứng, chuỗi
giá trị cũng là điều hết sức quan trọng. Doanh nghiệp cũng cần chủ
động đầu tư vào cải tiến công nghệ, nghiên cứu và phát triển sản
phẩm có tính khác biệt, mang lại nhiều giá trị tăng thêm cho người
tiêu dùng nhằm thúc đẩy tiêu thụ nội địa. Song song đó, cần nâng
cao khả năng đàm phán, thương lượng và ký kết hợp đồng với đối
tác nước ngoài để tận dụng tốt các cơ hội xuất khẩu.

KẾT LUẬN
Như vậy, trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, ngành thực
phẩm Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể và có nhiều cơ
hội phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội
thì các doanh nghiệp thực phẩm Việt Nam vẫn đang đứng trước
nhiều thách thức. Đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng nỗ lực đổi
mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, trình độ chuyên môn, để có thể
đứng vững trên thị trường.

19




×