Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

Đặc điểm lâm sàng và hiệu quả điều trị trứng cá đỏ bằng uống doxycyclin và bôi metronidazol

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.75 MB, 121 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trứng cá đỏ - rosacea là bệnh da tiến triển mạn tính, có tỷ
lệ mắc bệnh thay đổi từ 2,2% - 10% (tùy từng nghiên cứu) [1],
[2]; thường gặp ở độ tuổi trung niên 30 - 50 tuổi. Trứng cá đỏ
có biểu hiện lâm sàng đa dạng, đặc trưng bởi các biểu hiện
ban đỏ, giãn mạch và sẩn mủ ở vùng trung tâm của mặt, tổn
thương có thể xuất hiện một thời gian ngắn rồi hết, nhưng
cũng có thể tái phát và tồn tại dai dẳng. Tùy thuộc vào đặc
điểm lâm sàng được chia làm 4 thể: thể đỏ da giãn mạch, thể
sẩn mủ, thể phì đại, thể mắt; một số bệnh nhân có thể phối
hợp nhiều thể [3], [4], [5]. Chẩn đoán xác định chủ yếu dựa vào
triệu chứng lâm sàng và không có một xét nghiệm nào có thể
khẳng định chắc chắn bệnh nên việc chẩn đoán còn gặp
nhiều khó khăn, thường bị chẩn đoán nhầm với một số bệnh
thường gặp khác như viêm da tiếp xúc dị ứng, viêm da quanh
miệng, trứng cá thông thường, các tổn thương da do ánh
sáng... Hiện nay, căn nguyên và cơ chế bệnh sinh của bệnh
trứng cá đỏ chưa được biết rõ, nhưng một số nghiên cứu đã
chỉ ra được các yếu tố liên quan đến khởi phát và làm nặng
bệnh như ánh sáng mặt trời, rượu, đồ ăn cay nóng, tập luyện
thể lực, thay đổi cảm xúc,... Mặc dù bệnh trứng cá đỏ không
gây đe dọa đến tính mạng nhưng ảnh hưởng rất lớn đến thẩm
mỹ và đặc biệt là ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân.
Vì tính chất mạn tính, tiến triển từng đợt và hay tái phát,
nên việc điều trị trứng cá đỏ còn gặp một số khó khăn. Trên


2



thế giới có rất nhiều nghiên cứu về điều trị trứng cá đỏ bởi
nhiều phương pháp như bôi tại chỗ: metronidazol 0,75% và
1%; azelaic acid gel 15%, sodium sulfacetamide 10% với lưu
huỳnh

5%,..;

tetracyclin

sử

(đặc

dụng
biệt

thuốc


uống:

doxycyclin),

isotretinoin,
nhóm

nhóm

macrolide


(azithromycin),… hay sử dụng laser, phẫu thuật trong một số
trường hợp đặc biệt [3], [5].
Trong các phương pháp điều trị đó, sử dụng doxycyclin
đường uống và metronidazol 1% bôi đều được Cục quản lý
Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) công nhận được sử
dụng trong điều trị trứng cá đỏ. Sử dụng phối hợp doxycyclin
đường uống với metronidazol 1% bôi tại chỗ được đánh giá là
có hiệu quả nhanh, ít tác dụng phụ, dễ dung nạp và chi phí
điều trị hợp lý. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về đặc
điểm lâm sàng cũng như đánh giá hiệu quả điều trị trứng cá
đỏ bằng uống doxycyclin và metronidazol 1% tại chỗ, đơn độc
hoặc phối hợp với nhau, tuy nhiên ở Việt Nam còn thiếu các
dữ liệu, các nghiên cứu về bệnh trứng cá đỏ và đặc biệt là các
nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị bệnh. Vì vậy chúng tôi
tiến hành thực hiện nghiên cứu: “Đặc điểm lâm sàng và
hiệu quả điều trị trứng cá đỏ bằng uống doxycyclin và
bôi metronidazol” với hai mục tiêu:
1.

Khảo sát yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng của bệnh
trứng cá đỏ tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 09 -

2.

2016 đến tháng 09 - 2017.
Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh trứng cá đỏ thể sẩn mủ
bằng uống doxycyclin và bôi metronidazol 1%.



3


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương
Trứng cá đỏ được mô tả lần đầu vào thế kỷ 14 bởi bác sỹ
Guy de Chauliac, một nhà ngoại khoa người Pháp, với đặc
điểm “tổn thương màu đỏ ở mặt, đặc biệt là mũi và má”, và
được gọi là tình trạng “goutte rose” (giọt hồng) hoặc
“couperose”. Ở thế kỷ XIX trứng cá đỏ vẫn được xếp vào một
thể của bệnh trứng cá, đến năm 1891 bác sỹ Henri G. Piffard,
một chuyên gia về da liễu ở Mỹ đã chỉ ra các dấu hiệu đặc
biệt để phân biệt với bệnh trứng cá thông thường [6]. Hiện nay
hiểu biết về đặc điểm lâm sàng, các yếu tố liên quan và cơ
chế bệnh sinh đã rõ nét hơn.
Trứng cá đỏ là bệnh lý mạn tính, biểu hiện xen kẽ những
đợt thuyên giảm và tái phát của bệnh. Nhiều bệnh nhân có
thể nhận thấy được sự liên quan với các yếu tố khởi phát và
làm nặng bệnh đặc biệt là đối với cơn nóng bừng mặt, như
nhiệt độ, rượu, ánh sáng mặt trời, đồ uống nóng, căng thẳng,
chu kỳ kinh nguyệt, thuốc và thức ăn.
1.2. Dịch tễ học
Trứng cá đỏ có thể gặp ở mọi chủng tộc, nhưng phổ biến
hơn ở chủng tộc người da trắng. Mặc dù người da trắng có vẻ
có nguy cơ mắc bệnh nhiều hơn nhiều da màu, tuy nhiên
chưa có bằng chứng rõ ràng của sự khác biệt về tỷ lệ mắc
bệnh ở các chủng tộc khác nhau.

Trứng cá đỏ thường gặp nhiều hơn ở nữ, nhưng với thể
phì đại thì lại gặp nhiều hơn ở nam, thường khởi phát sau tuổi
30, tuy nhiên có thể gặp ở trẻ nhỏ và người trẻ tuổi [3], [6], [7],


5

[8].
Tỷ lệ mắc bệnh thay đổi tùy theo từng nghiên cứu từ
2,2% - 10% [1] , [2]; sở dĩ có sự khác biệt lớn như thế này được
giải thích là do thiếu sự định nghĩa rõ ràng về bệnh, dễ chẩn
đoán nhầm với tổn thương do ánh sáng và do sự khác nhau về
các vùng miền địa lý và chủng tộc [7].
1.3. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
Cơ chế bệnh sinh chính xác của trứng cá đỏ chưa được
biết rõ. Trứng cá đỏ có biểu hiện lâm sàng đa dạng với nhiều
thể khác nhau nên có thể có nhiều căn nguyên và cơ chế
bệnh sinh khác nhau [3]. Đã có nhiều giả thiết được đưa ra để
giải thích cho cơ chế bệnh sinh của trứng cá đỏ.
Bệnh thường gặp ở người da trắng - những người có type
da nhạy cảm với ánh nắng mặt trời, như type I và II theo phân
loại của Fitzpatrick. Có giả thiết được đưa ra có liên quan đến
sự biến đổi trong hệ gen, đặc biệt là các sai sót trong hệ
thống đáp ứng miễn dịch bẩm sinh, khoảng 10-20% bệnh
nhân có yếu tố gia đình.
Hệ thống miễn dịch bẩm sinh có hệ thống các receptor
(TLR – toll like receptor, NLR - Nucleotide binding domain) có
khả năng nhận biết các kháng nguyên kích thích bên ngoài
môi trường như tia cực tím (Ultra Violet – UV), các vi sinh vật,
các sang chấn vật lý và hóa học. Từ đó kích hoạt đáp ứng

miễn dịch thông thường dẫn đến tăng cường sản xuất các
phân tử cytokine và phân tử kháng khuẩn trong da. Một trong
những chất kháng khuẩn đó là cathelicidin. Hoạt chất này
được biết đến là chất duy nhất có khả năng đồng thời tác


6

dụng lên quá trình vận mạch và quá trình tiền viêm, đây là
hai quá trình đóng vai trò lớn trong bệnh sinh của bệnh trứng
cá đỏ. Khi phân tích ở bệnh nhân trứng cá đỏ cho thấy những
người bị bệnh có nồng độ cao bất thường cathelicidin trong
máu. Quan trọng hơn là peptide cathelicidin không chỉ cao
hơn về nồng độ mà còn khác biệt về cấu tạo so với người bình
thường. Những dạng khác biệt này của cathelicidin tham gia
hoạt hoá và điều biến quá trình hoá ứng động bạch cầu và
hoạt hoá bổ thể ngoại bào, góp phần vào cơ chế viêm tại chỗ.
Sự sản xuất bất thường Kallikren 5 (men protease tại chỗ, chất
kiểm soát việc sản xuất cathelicidin ở thượng bì) cũng có vai
trò trong hoạt tính vận mạch và tiền viêm của cathelicidin. Thử
nghiệm tiêm cathelicidin bất thường này vào da chuột, kết
quả thu được đáp ứng viêm và thay đổi bệnh học như trong
bệnh trứng cá đỏ [9], [10].
Đáp ứng của hệ thống miễn dịch bẩm sinh của da bình
thường sẽ phát hiện các vi sinh vật, các tác nhân hủy hoại mô
như tia UV gây ra sự chết theo chương trình hoặc hủy hoại
chất nền ngoại bào. Trong bệnh trứng cá đỏ, các tác nhân này
trở thành yếu tố kích hoạt bệnh, kích thích tính nhạy cảm của
da qua hệ thống miễn dịch bẩm sinh làm tăng sản xuất
cathelicidin và kalikrein 5.

Với bệnh nhân có biểu hiện ban đỏ, giãn mạch, cơn nóng
bừng mặt có sự thay đổi hoạt động vận mạch, tăng lưu lượng
máu có thể liên quan đến sự tiếp xúc với tia UV và một số yếu
tố kích hoạt bệnh như cảm xúc, căng thẳng, gia vị trong thức
ăn, đồ uống nóng, môi trường nóng bức và thời kỳ tiền mãn


7

kinh. Sự tiếp xúc với UVB được chỉ ra là làm tăng sự phát triển
mạch máu, tăng tiết các yếu tố tăng sinh mạch như là yếu tố
tăng trưởng nội mô mạch máu (vascular endothelial growth
factor – VEGF) từ tế bào keratin, làm tăng sinh tế bào nội mạc
mạch máu và tăng tính thấm thành mạch. Ngoài ra, các phân
tử CD 31, D2-40 (dấu ấn tế bào nội mô bạch huyết) cũng được
quan sát thấy ở bệnh nhân trứng cá đỏ. Có các bằng chứng cho
thấy việc tiếp xúc với tia UV dẫn đến tạo ra các phản ứng oxy
hóa, làm tăng sản xuất enzym metalloproteinases, từ đó làm
tổn thương mạch máu và chất nền của trung bì [5].
Các dòng oxy nguyên tử hoạt động (reactive oxygen
species – ROS) cũng có nồng độ cao hơn ở người bị bệnh. ROS
được sản xuất sau khi phơi nhiễm với tia UV và hoạt hóa các
tín hiệu tế bào trong tế bào sừng. ROS trung gian sản xuất
cytokine bằng TNF-α ở tế bào sừng và sản xuất chemokine
thông qua kích thích TLR2 ở bạch cầu đơn nhân. ROS cũng
kích thích nguyên bào sợi và thay đổi biểu hiện của men
protease gắn kim loại trong chất nền ngoại bào (MMP) và yếu
tố mô ức chế men MMP. Tăng hoạt động của ROS có thể kích
hoạt phản ứng viêm và thoái hóa collagen ở chất nền trung bì.
Từ vai trò của ROS trong bệnh trứng cá đỏ, người ta giải thích

được cơ chế hoạt động của các thuốc điều trị bệnh. Đó là các
thuốc ức chế sản xuất ROS ở bạch cầu trung tính như nhóm
tetracycline [11], azelaic acid [12], metronidazol [13] và nhóm
retinoid [14]. Erythromycin và azithromycin là những chất có
hoạt tính chống oxy hoá đã được chứng minh có hiệu quả
trong điều trị trứng cá đỏ [15].


8

Một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh
sinh của trứng cá đỏ là tia UV. UVB làm tăng sinh mạch ở da
thông qua làm tăng bài tiết VEGF và FGF2 (yếu tố phát triển
nguyên bào sợi) từ chủ yếu là tế bào sừng của thượng bì từ đó
làm tăng sinh mạch, gây ra biểu hiện chủ yếu là giãn mạch,
cơn nóng bừng mặt. Như đã nêu ra ở trên thì tia UV cũng làm
tăng sản xuất ROS làm tăng vận mạch và hủy hoại chất nền
ngoại bào thông qua hoạt hóa men Protease gắn kim loại, từ
đó làm tích tụ các chất trung gian viêm và kéo dài sự thu hút
các tế bào đáp ứng viêm. Như vậy, tia UV là yếu tố khởi phát
đáp ứng viêm nên gây ra hiện tượng đỏ da bằng cách tăng
cường các yếu tố vận mạch và hủy hoại chất nền ngoại bào
[10].
Một số quan điểm cho rằng vi sinh vật cũng đóng vai trò
trong cơ chế bệnh sinh mà hai tác nhân được cho là có liên
quan đó là demodex folliculorum và helicobacter pylori (HP).
Demodex folliculorum là ký sinh trùng sống trong nang lông
tuyến bã, là một trong những yếu tố kích hoạt bệnh, đặc biệt
khi số lượng trên 5 con/cm². Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng có
sự tăng mật độ của ký sinh trùng này ở nhóm bệnh nhân

trứng cá đỏ so với nhóm chứng [16]. Vai trò của HP trong trứng
cá đỏ còn nhiều tranh cãi, nhiều nghiên cứu cho thấy huyết
thanh miễn dịch dương tính cao với HP ở nhóm bệnh nhân
trứng cá đỏ và việc điều trị loét dạ dày có HP làm thuyên
giảm triệu chứng của bệnh [17].


9

Thay đổi môi
trường

Nhận
cảm

Ánh sáng cực
tím/Phơi
nhiễm nắng
mặt trời
Nhiệt

Corticoids/
Hormone

Hiệu
ứng

Cathelicid
in


Thay đổi mô
học

Thay đổi mạch
máu

Kallikrein/
MMPs
TLRs/
phần của
các
Receptor
nhận diện

Thoái hoá
Collagen

ROS/NO

Vi sinh vật
(Demodex)

Cytokine/
Chemokin
e

Thâm nhiễm mô
bạch huyết, kết tập
bạch cầu trung tính


Sơ đồ 1.1: Sơ đồ minh họa cơ chế bệnh sinh trong bệnh
trứng cá đỏ


10

1.4. Các yếu tố liên quan đến sự khởi phát và làm nặng
bệnh
Một số các yếu tố đã được chứng minh là có liên quan
đến sự khởi phát và làm nặng bệnh trứng cá đỏ [3], [18], [19]:
-

Thức ăn và đồ uống: phô mai, sô cô la, đồ cay, sản phẩm
từ sữa, rượu vang, đồ uống nóng, rượu, thuốc lá...

-

Thuốc toàn thân: niacin, nitroglycerin,…

-

Một số thuốc bôi tại chỗ: corticosteroid, retinoid, mỹ
phẩm, acetone,…

-

Các yếu tố môi trường: ánh nắng mặt trời, quá nóng,
lạnh, gió mạnh, độ ẩm cao, tắm nước nóng, xông hơi,…

-


Yếu tố cảm xúc: tức giận, căng thẳng, ngại ngùng.

-

Hoạt động thể lực mạnh, mãn kinh, ho mạn tính, cai
nghiện caffeine,…

1.5. Đặc điểm lâm sàng, phân loại bệnh trứng cá đỏ
Bệnh trứng cá đỏ có biểu hiện lâm sàng rất đa dạng, với
nhiều dạng tổn thương như: ban đỏ, giãn mạch, tổn thương
sẩn đỏ, mụn mủ, cơn nóng bừng ở vùng trung tâm của mặt,
tổn thương phì đại vùng tuyến bã như mũi, tổn thương viêm
kết mạc mắt,... Các triệu chứng này có thể xuất hiện lần đầu,
nhưng thường có tính chất mạn tính, tái phát từng đợt, và có
nhiều mức độ nặng nhẹ khác nhau.
Năm 2002, Hội đồng chuyên gia thuộc Hiệp hội trứng
cá đỏ Hoa Kỳ (National Rosacea Society Expert Commite –
NRSEC) đã đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại của
bệnh trứng cá đỏ. Đến năm 2004, NRSEC đã bổ sung thêm
và đưa ra cách đánh giá mức độ nặng của bệnh để thuận lợi


11

cho sự đánh giá trên lâm sàng của bác sĩ điều trị cũng như
các nhà nghiên cứu [4], [20].


12


Dựa vào đặc điểm lâm sàng trứng cá đỏ được chia thành
4 thể [5], [20]:
-

Subtype 1: Thể đỏ da giãn mạch (Erythematotelangiectatic
rosacea): đặc trưng bởi cơn nóng bừng mặt – ban đỏ
thoáng qua và ban đỏ dai dẳng ở vùng trung tâm của mặt.
Triệu chứng giãn mạch mặc dù phổ biến nhưng không phải
là yếu tố bắt buộc để chẩn đoán.

-

Subtype 2: Thể sẩn mủ (Papulopustular rosacea): bao gồm
ban đỏ dai dẳng ở vùng trung tâm của mặt cùng với sẩn,
mụn mủ số lượng nhiều, kích thước nhỏ (< 3mm), hình
vòm, một số tổn thương giống sẩn huyết thanh, rải rác ở
vùng trung tâm của mặt. Cảm giác bỏng rát và châm chích
có thể có. Tổn thương thường kéo dài trong hai tuần, sau
đỏ giảm dần để lại ban đỏ lốm đốm và sau đó mất dần,
không để lại sẹo.

-

Subtype 3: Thể phì đại (Phymatous rosacea): có thể bao
gồm dày da, bề mặt da xù xì, không đều và phì đại. Biểu
hiện phổ biến nhất là mũi sử tử (rhinophyma) nhưng có thể
xảy ra ở bất kỳ vị trí nào, bao gồm: cằm, trán, má và tai.
Rộng lỗ chân lông, giãn mạch có thể kèm theo.
Phymatous rosacea gồm các dạng [5]:



Rhinophyma: khởi đầu là sự giãn rộng của lỗ chân lông ở
đầu xa của mũi, khi rõ ràng hơn có thể dẫn tới biến dạng
đường viền của mũi.



Gnathophyma: hiếm gặp, vị trí điển hình là ở giữa cằm.
Có thể gây tình trạng sưng nề bất đối xứng.



Otophyma: thường gặp ở nửa dưới của vành tai và thùy


13

tai.


Mentophyma: khối sưng nề rắn chắc ở giữa trán.



Blepharophyma: sưng nề mi mắt, có thể đi kèm thể sẩn
mủ nặng hoặc thể mắt.


14


-

Subtype 4: Thể mắt (Ocular rosacea): Biểu hiện chảy nước
mắt, đỏ, sung huyết kết mạc, cảm giác có vật lạ trong mắt,
bỏng rát hoặc châm chích, khô, ngứa, chói mắt, nhìn mờ,
giãn mạch kết mạc và bờ mi hoặc mi và có ban đỏ xung
quanh mắt. Viêm kết mạc, viêm mí mắt, bờ mi không đồng
đều có thể có. Rối loạn chức năng tuyến Meibomius biểu
hiện chắp mắt hoặc nhiễm trùng mạn tính đặc trưng bởi u
hạt nhiễm trùng (lẹo mắt). Một số bệnh nhân có mất thị lực
do biến chứng tổn thương giác mạc (sẹo, loét giác mạc).
Một bệnh nhân có thể có nhiều hơn một thể.
Có các dạng biến thể của trứng cá đỏ không nằm trong 4 thể

nói trên [5], [18]:
-

Rosacea fulminans: đặc trưng bởi nhiều sẩn đỏ, mụn mủ, nốt
và các nang chảy mủ, đây là thể nặng của trứng cá đỏ. Nó có
thể độc lập hoặc liên quan đến bệnh Crohn, viêm loét đại
tràng, ung thư đại tràng tái phát và mang thai.

-

Granulomstous rosacea: giống như sarcoidosis hoặc lao da.
Một số tác giả phân thêm một biến thể nữa là trứng cá

đỏ do corticoid: gặp ở những bệnh nhân sử dụng corticoid tại
chỗ lâu dài, các triệu chứng của trứng cá đỏ, bùng phát khi

giảm liều corticoid tại chỗ gây ra hiện tượng phụ thuộc
corticoid [19].


15

Hình 1.1: Bệnh nhân nữ, 53 tuổi, với tổn thương đặc trưng của thể
đỏ da giãn mạch

Hình 1.2: Bệnh nhân nữ, 62 tuổi, với tổn thương đặc trưng của
thể sẩn mủ


16

Hình 1.3: Bệnh nhân nam, 56 tuổi, với tổn thương đặc trưng
của thể phì đại

Hình 1.4: Bệnh nhân nam,45 tuổi, với tổn thương lâm sàng
đặc trưng của cả 4 thể, có viêm kết mạc và viêm bờ mi mắt
trái.
1.6. Đánh giá đặc điểm lâm sàng và mức độ nặng của
bệnh trứng cá đỏ
Năm 2004, NRSEC đã đưa ra bảng điểm đánh giá mức độ
nặng, định nghĩa mức độ nặng theo triệu chứng lâm sàng,
theo thể bệnh và theo đánh giá của bác sỹ và bệnh nhân
(Bảng 1.1). Đánh giá này giúp đỡ cho các bác sỹ lâm sàng
trong quá trình theo dõi tiến triển của bệnh nhân và cũng



17

thuận tiện cho các nhà nghiên cứu [20].
Bảng 1.1: Bảng đánh giá triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân
bị trứng cá đỏ
Triệu chứng nguyên phát
Cơn nóng bừng mặt
Không có Nhẹ
Trung
Nặng
(ban đỏ thoáng qua)
bình
Ban đỏ dai dẳng
Không có Nhẹ
Trung
Nặng
bình
Sẩn và mụn mủ
Không có Nhẹ
Trung
Nặng
bình
Giãn mạch
Không có Nhẹ
Trung
Nặng
bình
Triệu chứng thứ phát
Bỏng rát hoặc châm Không có Nhẹ
Trung

Nặng
chích
bình
Mảng
Không có Nhẹ
Trung
Nặng
bình
Khô da
Không có Nhẹ
Trung
Nặng
bình
Phù nề
Không có Nhẹ
Trung
Nặng
bình
Nếu hiện có
Cấp tính Mạn tính
Nếu mạn tính
Pitting
Nonpitting
Biểu hiện ở mắt
Không có Nhẹ
Trung
Nặng
bình
Vị trí ngoại vi:
Không có Hiện có

Nếu hiện có
Liệt

vị
trí:
...................................................
Biến đổi phì đại
Không có Nhẹ
Trung
Nặng
bình
Đánh giá toàn cầu
Đánh giá của bác sỹ
Subtype 1: Đỏ da giãn Không có Nhẹ
mạch
Subtype 2: Sẩn mủ
Không có Nhẹ
Subtype 3: Phì đại

Không có Nhẹ

Trung
bình
Trung
bình
Trung
bình

Nặng
Nặng

Nặng


18

Subtype 4: Mắt

Không có Nhẹ

Bệnh nhân tự đánh Không có Nhẹ
giá

Trung
bình
Trung
bình

Nặng
Nặng

Cụ thể:
-

Với các triệu chứng nguyên phát:


Cơn nóng bừng mặt - ban đỏ thoáng qua: Đánh giá sự
xuất hiện hay không xuất hiện tổn thương dựa vào hỏi
bệnh, hỏi về tần số, thời gian, mức độ lan rộng và mức
độ nặng, lưu ý có đi kèm triệu chứng vã mồ hôi hay

không. Không được tính ở quanh thời kì mãn kinh cho
đến khi nó kèm theo các triệu chứng khác của trứng cá
đỏ. Có thể chia thành các mức độ từ 0-3 dựa vào độ
mạnh và tần số.



Ban đỏ dai dẳng: chia làm các mức độ từ 0-3. Mặc dù
tình trạng viêm hoặc khô da làm che mờ mức độ của
triệu chứng này, nền ban đỏ nên được đánh giá khi tình
trạng viêm hay khô da giảm.



Sẩn và mụn mủ: Đánh giá dựa vào số lượng sẩn mủ, có
thể kèm theo tổn thương dạng mảng do các tổn thương
tập trung lại. Tổn thương được chia thành các mức độ:
+ Nhẹ: có ít hoặc một vài sẩn mủ (không kèm tổn
thương dạng mảng).
+ Trung bình: có một vài -nhiều sẩn mủ (không kèm tổn
thương mảng).
+ Nặng: có nhiều tổn thương - hoặc tổn thương sẩn mủ
lan rộng, có thể kèm theo tổn thương dạng mảng.



Giãn mạch: Mức độ 0-3. Triệu chứng giãn mạch có thể


19


không phân mức độ rõ ràng được khi có kèm theo triệu
chứng ban đỏ nặng. Một mình triệu chứng giãn mạch mà
không đi kèm bất kỳ triệu chứng nguyên phát khác thì
không đủ để chẩn đoán. Nên đếm số lượng ban đỏ giãn
mạch và ghi rõ khu vực có tổn thương.
-

Tổn thương thứ phát:


Bỏng rát hoặc châm chích: triệu chứng cơ năng.



Mảng được định nghĩa là sự hợp nhất của các khu vực có
tổn thương viêm, vùng đỏ lớn hơn sẩn và mụn mủ mà
không kèm thay đổi thượng bì ở vùng xung quanh.



Khô da: da khô, thô ráp.



Phù nề: chú ý và ghi rõ khu vực (quanh mắt, giữa 2 lông
mày, gò má), phát hiện qua hỏi bệnh và thăm khám.
Nếu hiện có lưu ý là cấp tính, mạn tính tái phát hay mạn
tính dai dẳng. Nếu mạn tính, đánh giá rõ lõm hay không
lõm. Mức độ từ 0 - 3 phụ thuộc vào sự lan rộng và mức

độ sưng nề.



Biểu hiện mắt: có các mức độ:
+ Nhẹ: ảnh hưởng đến bờ mắt và tuyến meibomius.
+ Trung bình: ảnh hưởng đến trong mi mắt, bề mặt giác
mạc, tiết dịch.
+ Nặng: tổn thương giác mạc và mất thị lực.



Các vị trí ngoại biên: đánh giá tổn thương ngoài vùng
mặt, như cổ, ngực, da đầu, tai, lưng.



Phì đại: có các mức độ:
+ Nhẹ: lỗ chân lông rộng ra nhưng không làm thay đổi
đường nét.


20

+ Trung bình: thay đổi đường nét nhưng không có các
khối, u cục.
+ Nặng: thay đổi đường nét và có các khối u cục.
-

Đánh giá toàn thể của bác sỹ dựa vào thể bệnh:

Mỗi thể chia làm các mức độ 0-3 dựa vào sự hợp lại của

các dấu hiệu và triệu chứng (Bảng 1.2).
-

Đánh giá của bệnh nhân: Chia làm các mức độ từ 0-3 dựa trên
sự ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân: tâm
lý, xã hội và công việc.
+ Nhẹ: Bệnh nhân biết đến hoặc nhận ra tình trạng bệnh

nhưng không ảnh hưởng đến tâm lý và hoạt động xã hội của
bệnh nhân.
+ Trung bình: Bệnh nhân luôn luôn nhận thấy về bệnh trong
suốt các hoạt động xã hội và thường xuyên thấy xấu hổ.
+ Nặng: Bệnh nhân luôn nghĩ về bệnh và luôn tránh các
tương tác xã hội.
Bảng 1.2: Bảnh đánh giá của bác sỹ về mức độ nặng theo thể

Biểu hiện lâm
sàng
+ Ban đỏ dai dẳng ở
vùng trung tâm của
mặt. + Sẩn đỏ hình
mái vòm, có thể có
mụn mủ nhỏ ở trên.
+ Cơn nóng bừng,
giãn mạch, viêm
mắt và thay đổi da
Da dày với lỗ chân


P

Th

Sẩn mủ

bệnh [5], [7]
Mứ
c
độ

Định nghĩa mức độ

1

Một vài sẩn hoặc mụn mủ, ban
đỏ dai dẳng mức độ nhẹ,
không có mảng.

2

Vài sẩn hoặc mụn mủ ban đỏ
dai dẳng mức độ trung bình,
không có mảng

1

Đối với mũi sư tử: sự phình lên



Thể mắt

21

+ Cảm giác có vật
lạ trong mắt, ban đỏ
và giãn mạch ở bờ
mi, thường có vảy.
Nhiễm trùng kết
mạc; tổn thương
chắp, lẹo tái diễn.
Viêm
giác
mạc,
viêm mống mắt có
thể xảy ra, mặc dù
hiếm.
+ Có thể xảy ra
trước, sau hay đồng
thời tổn thương da.
+
Tổn
thương
thường đối xứng 2
bên.

2

3


Bỏng rát, châm chích của mắt,
có vảy tiết hoặc bờ mi không
đều, với ban đỏ hoặc sẩn phù.
Sung huyết kết mạc, viêm kết
mạc rõ ràng. Hình thành tổn
thương chắp, lẹo.
Đau, nhạy cảm ánh sáng, hoặc
nhìn mờ, sự thay đổi của bờ mi
nặng, kèm theo mất lông mi.
Viêm kết mạc nặng, tổn
thương giác mạc với mất thị
lực, viêm màng bồ đào, viêm
màng cứng của mắt.

*Trong đó: 1: Mức độ nhẹ; 2: Mức độ trung bình; 3: Mức độ
nặng.

Hình 1.5: Trứng cá đỏ thể đỏ da giãn mạch. A: nhẹ; B: trung bình;
C: nặng [20]

Hình 1.6: Trứng cá đỏ thể sẩn mủ. A: nhẹ; B: trung bình; C:
nặng [20]


22

Hình 1.7: Trứng cá đỏ thể phì đại. A: nhẹ; B: trung bình; C:
nặng [20]

Hình 1.8: Trứng cá đỏ thể mắt. A: nhẹ; B: trung bình; C: nặng

[20]
Nói chung, sự đánh giá mức độ nặng của trứng cá đỏ trên
lâm sàng chưa thực sự rõ ràng, phụ thuộc nhiều vào đánh giá
chủ quan của các nhà lâm sàng.
Ngoài cách đánh giá mức độ nặng của bệnh đã nêu ở
trên, còn có một cách đánh giá mức độ nặng khác, trong đó
bệnh trứng cá đỏ được chia làm bốn giai đoạn [21]:
-

Giai đoạn I: còn được gọi là tiền trứng cá đỏ (Pre-rosacea).
Giai đoạn này đặc trưng bởi chứng đỏ mặt thường xuyên,

đặc biệt ở những người có tiền sử gia đình mắc bệnh trứng cá
đỏ. Chứng mặt đỏ là triệu chứng có thể bắt đầu từ thời thơ ấu,
mặc dù tuổi khởi phát trứng cá đỏ thường gặp từ sau tuổi 30.
Cơn nóng bừng mặt có thể tăng lên hoặc đỏ mặt, có cảm giác


23

châm chích khi sử dụng các sản phẩm chăm sóc da phổ biến
hoặc các liệu pháp điều trị bệnh trứng cá thông thường.
-

Giai đoạn II: là giai đoạn tổn thương mạch.
Trong giai đoạn này, các ban đỏ thoáng qua ở vùng trung

tâm của mặt, cũng như các tổn thương giãn mạch nhẹ đã trở
nên rõ nét hơn.
-


Giai đoạn III:
Các ban đỏ, cơn nóng bừng mặt trở nên sâu và dai dẳng

hơn. Các tổn thương giãn mạch tăng lên, sẩn và mụn mủ bắt
đầu phát triển. Trong suốt giai đoạn này, sự thay đổi ở mắt
như viêm kết mạc, viêm bờ mi có thể phát triển. Sẩn phù có
thể xuất hiện ở khu vực trên rãnh mũi má.
-

Giai đoạn IV:
Tình trạng viêm ở da và mắt tiếp tục xuất hiện và tăng lên.

Tổn thương mắt có thể phát triển đến giác mạc và có thể gây
ảnh hưởng đến thị lực. Nhiều tổn thương ban đỏ có thể được
nhìn thấy ở khu vực cạnh mũi. Bắt đầu có sự tăng sinh mô sợi
và phì đại tuyến bã ở da, có thể làm phì đại mũi (mũi sư tử).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi sử dụng phân
loại theo 4 thể bệnh: thể đỏ da giãn mạch, thể sẩn mủ, thể
phì đại và thể mắt.
1.7. Cận lâm sàng
Không có xét nghiệm nào đặc hiệu để chẩn đoán xác định
trứng cá đỏ.
Mô bệnh học có thể giúp trong trường hợp sự phân bố
không điển hình ở mặt, cần loại trừ một số bệnh lý khác hoặc
nghi ngờ khi có sự bất thường về tuyến bã.


24


Trong thể đỏ da giãn mạch, mô bệnh học có hình ảnh
thâm nhiễm viêm một vài bạch cầu lympho và mô bào xung
quanh các mạch máu kèm theo là hiện tượng phù, giãn các
mạch máu và bạch mạch ở trung bì. Đôi khi có thể nhìn thấy
thoái hoá sợi chun rất nhiều. Các đặc điểm mô học tương tự
được nhìn thấy trong các thể sẩn mủ nhưng thâm nhiễm viêm
chỉ nhìn thấy ở xung quanh nang lông và tuyến bã.
Trứng cá đỏ thể phì đại đặc trưng bởi thoái hoá sợi chun,
xơ hóa, thâm nhiễm viêm ở trung bì, tăng sản và phì đại nang
lông của tuyến bã. Quá trình tái tạo biểu mô trong lòng ống
(có thể trong vùng cổ nang lông hoặc tại lòng ống tuyến bã)
làm suy yếu sự tăng sản của mô và xuất hiện nhiều các thành
phần viêm. Trứng của demodex folliculorum có thể được nhìn
thấy ở trong tất cả các thể của trứng cá đỏ ở tại cổ của nang
lông hoặc tại lòng ống của tuyến bã. Trứng có thể nở luôn
hoặc có thể lưu trú kéo dài [3], [22].
Xét nghiệm tìm demodex có thể cần thiết trong trường
hợp nghi ngờ, có thể tìm thấy demodex ở nang lông, khi số
lượng trên 5 con/cm² cần cân nhắc điều trị.
1.8. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán xác định trứng cá đỏ chủ yếu dựa vào triệu
chứng lâm sàng của bệnh nhân. Không có xét nghiệm cận lâm
sàng nào có thể dùng để khẳng định chẩn đoán. Mô bệnh học
chỉ có giá trị để loại trừ các bệnh lý khác trong trường hợp
nghi ngờ, không có giá trị để khẳng định chẩn đoán.
Chẩn đoán xác định bệnh dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán
của Hội đồng chuyên gia thuộc Hiệp hội trứng cá đỏ Hoa Kỳ


25


(NRSEC) [4], [20].
+ Chẩn đoán xác định bệnh trứng cá đỏ khi:
-

Có ít nhất một triệu chứng nguyên phát điển hình ở vùng trung
tâm của mặt gồm: cơn nóng bừng mặt, ban đỏ dai dẳng, sẩn
mụn mủ, có thể kèm giãn mạch.

-

Có thể có một hoặc nhiều hơn các triệu chứng thứ phát sau:
bỏng rát, châm chích, mảng đỏ, khô da, phù nề/ sẩn phù, biểu
hiện ở mắt, các thay đổi phì đại.
+ Chẩn đoán các thể của bệnh trứng cá đỏ:

-

Thể đỏ da giãn mạch (subtype 1): Bệnh nhân có cơn nóng
bừng và/ hoặc ban đỏ dai dẳng ở vùng trung tâm của mặt,
có thể kèm theo giãn mạch.

-

Thể sẩn mủ (subtype 2): Bệnh nhân có tổn thương sẩn, mụn
mủ ở vùng trung tâm của mặt. Không có tổn thương
comedon.

-


Thể phì đại (subtype 3): Da dày, bề mặt không đều, có cục/
khối sần sùi và phì đại, có thể làm biến dạng vùng tổn
thương, thường gặp ở mũi, cằn, trán, má hoặc tai. Ở các
vùng phì đại có thẩy thấy lỗ chân lông mở rộng và biểu lộ
rõ.

-

Thể mắt (subtype 4): Mắt chảy nước hoặc sung huyết kết
mạc, cảm giác có vật lạ trong mắt, châm chích, bỏng rát,
khô, ngứa, tăng nhạy cảm ánh sáng, nhìn mờ, giãn mạch ở
kết mạc hoặc mi mắt, ban đỏ ở vùng quanh mắt. Có thể có


×