Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

NGHIÊN cứu GIẢI PHẪU cấp máu CHO GAN PHẢI và GAN TRÁI TRÊN HÌNH ẢNH CHỤP cắt lớp VI TÍNH 64 dãy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ MINH TIẾN

NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU CẤP MÁU CHO
GAN PHẢI VÀ GAN TRÁI TRÊN HÌNH ẢNH
CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH 64 DÃY
Chuyên ngành

: Giải phẫu

Mã số

: 60720102

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Người h
ướn
g dẫn khoa học:

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ


TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ MINH TIẾN

NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU CẤP MÁU CHO
GAN PHẢI VÀ GAN TRÁI TRÊN HÌNH ẢNH
CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH 64 DÃY
Chuyên ngành : Giải phẫu người
Mã số

: 60.72.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

Hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Ngô Xuân Khoa

HÀ NỘI -2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập nghiên cứu hoàn thành luận văn này, ngoài nỗ
lực của bản thân tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các cá nhân và tập thể. Tôi
xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- PGS.TS. Ngô Xuân Khoa, Phó trưởng Bộ môn Giải Phẫu Trường
Đại Học Y Hà Nội, người thầy đã quan tâm giúp đỡ tôi định hướng nghiên
cứu, hướng dẫn tôi trên con đường nghiên cứu khoa học, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu này.
- Trân trọng cảm ơn toàn thể các thầy, cô Bộ môn Giải phẫu Trường
ĐH Y Hà Nội đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu

tại Bộ môn.
- PGS.TS. Nguyễn Quốc Dũng, Trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh
Bệnh viện Hữu Nghị người thầy trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, động viên tôi
trong cả trong việc học tập và quá trình hoàn thành cuốn luận văn này.
- Các bác sĩ, cán bộ, kỹ thuật viên của khoa CĐHA Bệnh viện Hữu Nghị
đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu hoàn thành nghiên cứu này.
- Trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Bộ môn Giải phẫu, Phòng QLĐT
Sau đại học Trường Đại học Y Dược Thái Bình đã tạo điều kiện cho tôi được
học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ.
- Trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng QLĐT Sau đại học Trường
ĐH Y Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và làm luận văn.
- Trân trọng cảm ơn PGS.TS Trần Sinh Vương – Chủ tịch Hội đồng
cùng các nhà khoa học trong Hội đồng chấm luận văn đã góp ý để bản luận
văn của tôi được hoàn thiện hơn.
- Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Gia đình và đồng
nghiệp là hậu phương vững chắc, nguồn động lực to lớn cho tôi thực hiện
ước mơ của mình.
Lê Minh Tiến


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lê Minh Tiến, học viên lớp cao học khóa 24 – Chuyên ngành Giải
phẫu người – Trường Đại học Y Hà Nội cam đoan:
1.

Luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.

2.

Ngô Xuân Khoa – Phó trưởng Bộ môn Giải phẫu Trường Đại học Y Hà Nội.

Nghiên cứu này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được

3.

công bố tại Việt Nam.
Các số liệu và thông tin nghiên cứu được thực hiện tại Khoa Chẩn đoán hình
ảnh Bệnh viện Hữu Nghị trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 2016 đến
tháng 6 năm 2017. Các số liệu nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực
và khách quan, đã được xác nhận của cơ sở nghiên cứu.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những cam đoan này.
Hà Nội, ngày 11 tháng 10 năm 2017
Người viết cam đoan

Lê Minh Tiến


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BN

Bệnh nhân

CLVT

Cắt lớp vi tính

ĐM

Động mạch

ĐMCB


Động mạch chủ bụng

ĐM TT

Động mạch thân tạng

ĐM MTTT

Động mạch mạc treo tràng trên

ĐMG

Động mạch gan

ĐMG C

Động mạch gan chung

ĐMG P

Động mạch gan phải

ĐMG T

Động mạch gan trái

ĐM VT

Động mạch vị trái


ĐM L

Động mạch lách

ĐM VTT

Động mạch vị tá tràng

ĐM VP

MIP

Động mạch vị phải
Hạ phân thùy
Multi Planar Reformation (tái tạo thể tích đa mặt phẳng)
Maximum Intensity Projection

TACE

(Tái tạo hình ảnh ba chiều không gian)
TransArteral ChemoEmbolization

HPT
MPR

(Nút hóa chất động mạch)
TOCE

Transcatheter Oily ChemoEmbolization

(Tắc mạch hoá dầu chọn lọc)

VR

Volume Rendering (xử lý thể tích)

N

Số lượng bệnh nhân

DSA

Chụp mạch số hóa xóa nền


MỤC LỤC


DANH MỤC HÌNH


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH


10

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hệ động mạch gan là một hệ động mạch có nhiều biến đổi giải phẫu.
Những biến đổi của động mạch gan chủ yếu liên quan đến nguyên ủy và sự
phân nhánh. Động mạch ngoài gan đã được nhiều tác giảnghiên cứu như
Trịnh Văn Minh [1], Michel’s N.A [2], Hiatt [3], Bismuth [4], Tôn Thất Tùng
[5], Trịnh Hồng Sơn [6], [7], Lê Văn Cường [8]...Với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật đặc biệt là kỹ thuật cắt và ghép gan giảm thể tích, nút mạch gan
chọn lọc, những nghiên cứu giải phẫu về cấu trúc mạch máu trong gan cần
được hiểu biết sâu sắc hơn.
Nghiên cứu giải phẫu về động mạch gan phục vụ ngoại khoa đã được
các nhà Giải phẫu và Ngoại khoa mô tả từ lâu. Phương pháp cắt và ghép gan
đã và đang trở thành một kỹ thuật chuyên sâu hiện đại của chuyên ngành
Ngoại khoa [9], [10], [11]. Trong chuyên ngành Chẩn đoán hình ảnh, kỹ thuật
nút động mạch gan chọn lọc đã và đang trở thành một mũi nhọn của quá trình
ứng dụng chẩn đoán hình ảnh trong điều trị các khối u gan, chấn thương gan
[12], [13], [14].
Hệ thống máy chụp Cắt lớp vi tính (CLVT) 64 dãy là phương pháp
chẩn đoán hình ảnh hiện đại được áp dụng tại hầu hết các bệnh viện lớn. Cắt
lớp vi tính 64 dãy cho phép quan sát tất cả các động mạch trong cơ thể với
chất lượng ảnh cao, khả năng tạo màu sắc cho hình ảnh các mạch máu, thời
gian khảo sát ngắn [15], [16].
Chỉ định chụp CLVT 64 dãy có dùng thuốc cản quang trong các trường
hợp chụp mạch (động mạch vành, động mạch cảnh, động mạch não, động
mạch gan, động mạch thận...) ở các thì khác nhau cho hình ảnh của động
mạch, tĩnh mạch và các mô cơ quan mạch máu nuôi dưỡng [17].


11

Trong ghép gan, các nhà ngoại khoa đã ứng dụng phân thùy của gan và
các thành phần trong bộ ba cửa, để có nhiều phương pháp cắt và ghép gan

như: ghép gan giảm thể tích, chia gan để ghép, ghép gan từ người cho sống.
Phương pháp điều trị các khối u gan bằng kỹ thuật nút động mạch gan chủ
động đã được thực hiện thường xuyên tại khoa chẩn đoán hình ảnh của một số
bệnh viện lớn tại Việt Nam như: BV Bạch Mai, BV Việt Đức, BV Hữu Nghị,
BV Đại học Y Hà Nội, BV Chợ Rẫy…Trong nút mạch chọn lọcđể đi tới các
động mạch gan riêng, động mạch gan phải, động mạch gan trái sử dụng các
catheter 4F, 5F. Trong nút mạch siêu chọn lọc để đi đến được các động mạch
nhỏ hơn ở mức phân thùy, hạ phân thùy gan sử dụng microcatheter 2F, 3F.
Một bản đồ chi tiết về động mạch gan ở người sống là một yêu cầu cấp thiết
của phương pháp nút động mạch gan góp phần nâng cao hiệu quả điều trị.
Động mạch trong gan cần được tiếp tục nghiên cứu, để có thêm những
bằng chứng thuyết phục, trong việc phát triển các phương pháp điều trị u
gan, cắt gan giảm thể tích, chia gan để ghép.
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu giải phẫu cấp
máu cho gan phải và gan trái trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính 64 dãy” với
mục tiêu:
1 Đánh giá một số đặc điểm giải phẫu: nguyên ủy, kích thước, phân
nhánh của động mạch gan phải và động mạch gan trái.
2 Mô tả một số biến đổi giải phẫu của động mạch gan phải và động mạch
gan trái.


12

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Động mạch gan chung
Động mạch gan chung (ĐMG chung) là một nhánh tách ra từ động
mạch thân tạng, động mạch chạy ra trước và sang phải ở bờ trên đầu tụy. Tới
bờ trái tĩnh mạch cửa, nó tách ra động mạch vị tá tràng rồi chạy lên vào giữa

hai lá của mạc nối nhỏ. Trong mạc nối nhỏ, nó nằm trước tĩnh mạch cửa và
bên trái ống mật chủ và ống gan chung, tách ra động mạch vị phải rồi trở
thành động mạch gan riêng [18], [19], [20].

1. Động mạch thân tạng
2. Động mạch gan chung
3. Động mạch lách
4. Động mạch vị trái
5. Động mạch vị tá tràng
6. Động mạch gan riêng

Hình 1.1. Động mạch gan chung và các nhánh [21].
ĐMG chung ở người Việt Nam có chiều dài là 25,16 mm và đường
kính trung bình là 4,8 mm [8].


13

1.2. Động mạch gan riêng.
Nguyên ủy
Theo các nghiên cứu đã tiến hành khoảng từ 70 -80% các trường hợp
động mạch gan riêng (ĐMG riêng) tách ra từ động mạch gan chung, số còn lại
động mạch gan riêng có thể tách ra từ nhiều vị trí khác như: động mạch thân
tạng (ĐMTT), động mạch mạc treo tràng trên (ĐM MTTT), động mạch vị trái
(ĐM vị trái), động mạch chủ bụng (ĐMC bụng) [10], [20].

Hình 1.2. Động mạch gan riêng [21].
1. ĐMG riêng

9. ĐM Chủ bụng


2. ĐMG phải

10.

ĐM thân tạng

3. ĐM túi mật

11.

ĐM lách

4. ĐMG trái

12.

ĐMG chung

5. ĐM phân thùy giữa trái

13.

ĐM Mạc treo tràng trên

6. ĐM phân thùy bên trái

14.

ĐM vị tá tràng


7. ĐM vị trái

15.

Tĩnh mạch cửa

8. ĐM hoành dưới

16.

ĐM vị phải


14

Đường đi, liên quan
ĐMG riêng đi tiếp theo hướng của ĐMG chung, giữa 2 lá của mạc nối
nhỏ khi tới bờ phải của mạc nối, phía trước của lỗ túi mạch nối, tiếp tục chạy
ngược lên trên trong cuống gan.Cuống gan đi từ cửa gan tới phần trên tá
tràng, là nơi chứa hầu hết các thành phần đi vào và đi ra khỏi gan. Các thành
phần trong cuống gan gồm: đường dẫn mật chính, động mạch gan riêng, tĩnh
mạch cửa, các mạch bạch huyết và thần kinh. Trong cuống gan ĐM đi ở bên
trái, ống gan chung đi ở bên phải, tĩnh mạch cửa đi ở phía sau [18]. Đến cửa
gan, ĐMG riêng tách thành 2 nhánh: nhánh phải (động mạch gan phải) và
nhánh trái (động mạch gan trái) đi vào gan cấp máu cho gan phải và gan trái.
Ở ngoài gan: động mạch gan, tĩnh mạch cửa, ống gan và ống mật chủ
được bọc trong 2 lá của mạc nối nhỏ. Khi vào trong gan: các động mạch phân
thùy, nhánh của tĩnh mạch cửa và ống mật được bọc trong một bao xơ quanh
mạch (bao Glisson) [22], [23]. Đây chính là cơ sở để phân chia gan theo

đường mạch mật.
Phân nhánh và vùng cấp máu.
Khi đến gần cửa gan khoảng 1-1,5 cm ở dưới và bên trái chỗ chia đôi
của tĩnh mạch cửa thì ĐMG riêng tách thành 2 nhánh tận là ĐMG phải và
ĐMG trái cấp máu cho gan phải và gan trái.
ĐMG riêng có thể phân chia các nhánh trước khi vào cửa gan, ở trong
gan là sự phân nhánh của ĐM gan phải, ĐM gan trái. ĐMG riêng có thể tách
ra ĐM túi mật hoặc tách ra các động mạch phân thùy trước khi qua cửa gan
[1]. Tuy nhiên tỷ lệ tách ra ĐM túi mật của ĐMG riêng chỉ là 61,2% [8].
1.3. Động mạch gan phải [1], [18]: chạy chếch lên trên và sang phải ở trước
tĩnh mạch cửa, bắt chéo sau ống gan chung, sau khi tách ra ĐM túi mật thì
chia thành 3 nhánh đi vào gan:


15

Động mạch thùy đuôi cấp máu cho thùy đuôi
Động mạch phân thùy trước phải (Động mạch phân thùy trước) cấp máu
cho hạ phân thùy V, VIII.
Động mạch phân thùy bên phải (Động mạch phân thùy sau) cấp máu
các hạ phân thùy VI, VII.
1.4. Động mạch gan trái [1], [18]: trên đường đi nằm trước dưới so với tĩnh
mạch cửa, ĐMG trái tách ra:
Động mạch thùy đuôi cấp máu cho thùy đuôi
Động mạch phân thùy giữa trái (Động mạch phân thùy giữa) cấp máu
cho hạ phân thùy IV.
Động mạch phân thùy bên trái (Động mạch phân thùy bên) cấp máu
cho hạ phân thùy II, III.
1.5. Biến đổi giải phẫu của động mạch gan.
Những biến đổi giải phẫu của ĐMG rất đa dạng, phức tạp được mô tả

qua nhiều nghiên cứu. Bằng những phương pháp nghiên cứu khác nhau như
phẫu tích, qua tiêu bản ăn mòn, qua chụp và dựng hình động mạch gan đã có
nhiều phân loại động mạch gan được công bố.
Michels’NA năm 1955 đã xếp động mạch gan thành 10 dạng như sau:


16

Hình 1.3. Các dạng động mạch gan theo Michels’NA [2].
Hiatt J.R năm 1994 đã xếp động mạch gan thành 6 dạng như sau:

Hình 1.4. Các dạng động mạch gan theo Hiatt J.R [3].


17

Mc Graw-Hill xếp ĐM cấp máu cho gan được thành 6 loại như sau:

Hình 1.5. Các dạng động mạch trong gan theo Mc Graw-Hill [24].
Tác giả Skandalakis L.J (1987), sắp xếpcác dạng biến đổi của động
mạch gan trái được xắp sếp như sau:

Hình 1.6. Các dạng biến đổi của ĐM gan trái [24].
Tác giả Lê Văn Cường [19] đã tóm tắt các dạng của ĐMG riêng theo 3
quy luật. ĐMG có thể phân chia thành ĐMG trái và ĐMG phải ở bất kỳ vị trí
nào nằm giữa rốn gan và nguyên ủy của ĐMG riêng. Nếu sự phân chia này


18


nằm tại nguyên ủy của ĐM vị tá tràng thì sẽ không có ĐMG riêng. Nếu sự
phân chia này tại nguyên ủy của ĐMTT thì sẽ không có ĐMG chung.
Tác giả Trịnh Văn Minh [1] khi nghiên cứu về nguyên ủy và phân
nhánh của ĐMG cho rằng ở ngoài gan ĐMG riêng có thể tách đôi hay tách ba
và có thể tách ra từ những nguyên ủy khác nhau. Toàn bộ ĐMG riêng hoặc
một phần của nó có thể tách ra từ ĐMG chung, ĐM vị trái, ĐM thân tạng,
ĐM chủ bụng. Ở cửa gan và trong gan, mỗi ĐMG phải, ĐMG trái có thể tách
ra hai hay ba các ĐM phân thùy, ĐM phân thùy cũng có nhiều dạng động
mạch hạ phân thùy, ở những vị trí nguyên ủy khác nhau.
1.6. Lược sử nghiên cứu gan.
Những nghiên cứu trước thế kỷ XVII về gan mang nặng tính cảm
quan vì chưa có phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể [25]. Sau thế
kỷ XVII các nhà giải phẫu và ngoại khoa đã sử đụng nhiều phương pháp
(phẫu tích, que thăm dò, tiêu bản ăn mòn) [5], để nghiên cứu chi tiết hơn về
gan. Những nhà ngoại khoa dựa trên tĩnh mạch cửa, ống mật, động mạch
gan hoặc cả ba thành phần trên mô tả gan thành những đơn vị chức năngphẫu thuật. Hiện nay sự phát triển của khoa học công nghệ với các thế hệ
máy chụp cắt lớp vi tính đa dãy (64 dãy, 128 dãy, 256 dãy…), chụp mạch
số hóa xóa nền (DSA) cho phép đi sâu nghiên cứu hình ảnh sống động của
các thành phần trong gan [17]. Trong chụp cắt lớp vi tính, dựa trên những
phần mềm dựng hình mạch máu đã phân chia gan thành phân thùy, hạ phân
thùy tương ứng với phân chia gan trong giải phẫu và ngoại khoa. Có nhiều
quan điểm phân thùy của gan như: C.H. Hjortsjo, Healey và Schroy,
C.Couinaud, Tôn Thất Tùng, Trịnh Văn Minh [1].
Dựa vào hình thể ngoài, gan được chia thành 4 thuỳ: thùy phải, thùy
trái, thùy vuông, thùy đuôi. Dựa vào sự phân bố cấu trúc các thành phần trong
cuống gan (động mạch, đường mật, tĩnh mạch cửa) và các tĩnh mạch gan, các


19


nhà Giải phẫu và Ngoại khoa phân chia gan thành các đơn vị chức năng có thể
cắt bỏ gọi là các phân thuỳ, hạ phân thùy gan.
Hiện nay có 3 trường phái phân chia gan như sau:
Trường phái Anh – Mỹ, đại diện là Healey và Schroy.
Trường phái Pháp,đại diện là Couinaud.
Trường phái Việt Nam, đại diện là Tôn Thất Tùng, Trịnh Văn Minh.
Sau đây xin giới thiệu một số quan điểm phân chia gan được các nhà
giải phẫu và ngoại khoa Việt Nam thường xuyên sử dụng.
Trường phái Anh - Mỹ: Phân chia gan theo quan điểm Healey và Schroy
(phân chia theo đường mật). Cách phân chia của hai tác giả này dựa trên những
nghiên cứu về đường dẫn mật trong gan từ năm 1953 đến năm 1957.
Healey và Schroy phân chia gan thành 2 thùy, 5 phân thùy và 8 diện
dựa trên các khe phân thùy (khe thùy, khe phân thùy phải, khe phân thùy trái).
Mỗi phân thùy lại được chia thành 2 diện: diện trên và dưới [1].
2 thùy
Thùy phải
Thùy trái

5 phân thùy
Phân thùy trước
Phân thùy sau
Phân thùy giữa
Phân thùy bên
Phân thùy lưng

Trường phái Pháp: Phân thùy gan theo Couinaud (theo đường tĩnh
mạch cửa). Tĩnh mạch cửa là thành phần đi vào gan có kích thước lớn nhất
trong các thành phần của cuống gan. Năm 1957 Couinaud dựa vào đường
đi và sự phân chia của tĩnh mạch cửa đã đưa ra quan điểm phân chia gan
thành 2 nửa gan, 5 phân khu và 8 phân thùy.

2 Nửa gan
Nửa gan trái

5 Phân khu
Phân khu lưng

8 Phân thùy gan
Phân thùy I


20

Nửa gan phải

Phân khu bên trái

Phân thùy II, III

Phân khu cạnh giữa trái

Phân thùy IV

Phân khu cạnh giữa phải Phân thùy V, Phân thùy VIII
Phân khu bên phải

Phân thùy VI, Phân thùy VII

8 phân thùy bắt đầu từ phân thùy đuôi, được đánh số la mã từ I đến VIII
tính theo chiều kim đồng hồ.


Hình 1.7. Phân thùy gan theo quan điểm C.Couinaud [26].
Trường phái Việt Nam: quan điểm của tác giả Tôn Thất Tùng và
tác giả Trịnh Văn Minh.
Phân thùy gan theo Tôn Thất Tùng (phân chia gan theo đường mật).
Năm 1962, tác giả Tôn Thất Tùng dựa vào những nghiên cứu giải phẫu
gan, kinh nghiệm phẫu thuật của mình, kết hợp giữa hai trường phái Mỹ và
Pháp để đưa ra phân chia gan như sau:
2 thùy
Thùy trái

2 nửa gan

5 phân thùy gan
Phân thùy lưng
Nửa gan trái
Phân thùy bên

8 hạ phân thùy
Hạ phân thùy I
Hạ phân thùy II, III


21

Thùy phải

Nửa gan
phải

Phân thùy giữa

Phân thùy trước
Phân thùy sau

Hạ phân thùy IV
Hạ phân thùy V, VIII
Hạ phân thùy VI, VII

Hình 1.8. Phẫu tích gan theo Tôn Thất Tùng [9].
Kỹ thuật cắt gan của tác giả Tôn Thất Tùng bằng đường phẫu tích qua
nhu mô gan không tách riêng từng yếu tố mạch mật mà cắt và thắt chung cả
bộ ba cửa trong bao Glisson trong một nút buộc.
Quan điểm Trịnh Văn Minh ( phân chia gan theo bộ ba cửa) [1].
Tác giả Trịnh Văn Minh (1972, 1982, 1985) nghiên cứu trên 200 tiêu
bản khuôn đúc ăn mòn các tiêu bản phẫu tích đã thống nhất về cơ sở giải phẫu
chức năng và phẫu thuật để phân chia các thùy, hạ phân thùy gan. Tác giả đã
phân chia gan thành:
2 thùy cổ điển: thùy phải, thùy trái.
2 nửa gan: nửa gan phải, nửa gan trái
6 phân thùy: Phân thùy bên phải (thùy sau: VI+VII)
Phân thùy giữa phải (thùy trước: V+VIIIt+VIIIn)
Phân thùy giữa trái (thùy giữa: IV)
Phân thùy bên trái trước (II)


22

Phân thùy bên trái sau (III)
Phân thùy sau (thùy đuôi, I)
9 hạ phân thùy: I, II, III, IV, V, VI, VII, VIIIt, VIIIn
Nửa gan trái chia 3 phân thùy theo cả 2 khe rốn và khe bên trái

Phân thùy giữa phải chia 3 hạ phân thùy (V, VIIIt, VIIIn).
Năm 1997, tại Hội nghị Terminologia Anatomica tổ chức tại Sao Paulo
nhằm thống nhất các quan điểm phân chia gan, Uỷ ban danh pháp giải phẫu
quốc tế đã đưa ra một bảng danh pháp chung như sau [1]:
Bảng 1.1. Phân thùy gan theo Thuật ngữ giải phẫu quốc tế (T.A 1997).
Từ giải

Thùy phải

Thùy trái

Phần gan phải/gan phải

Phần gan trái/Gan trái

phẫu

Thùy
đuôi
Phần gan
sau/Gan
sau

Tiểu phần

Tiểu phần

Tiểu phần

Tiểu phần


giữa phải
Phân thùy

giữa trái

năng/ngoại

bên phải
Phân thùy

bên trái
Phân thùy

khoa

bên phải

giữa phải

sau VII
Phân thùy

sau VIII
Phân thùy

Từ chức

bên phải


giữa phải

trước VI

trước V

Phân thùy
giữa trái
IV

0

bên trái
sau II
Phân thùy

Phân thùy
sau I

bên trái
trước III

Tuy nhiên những danh pháp này chưa hoàn toàn thuận tiện cho các nhà
phẫu thuật, chính vì vậy tác giả Tôn Thất Tùng đã đưa ra bảng danh pháp sau:
Bảng 1.2. Phân thùy gan theo Tôn Thất Tùng.
Từ giải phẫu
cổ điển
Từ giải phẫu

Thùy phải

Nửa gan phải/gan phải

Thùy
trái
Nửa gan trái/

Thùy
đuôi
Gan sau


23

Phân thùy
bên phải
( hay sau)

Phân thùy giữa phải
( hay trước)

Gan trái
Phân
Phân Phân thùy
thùy
thùy bên
lưng
giữa trái
trái 9
( hay
( hay

hay bên)
sau)
giữa)

Hạ phân
chức năng/
phẫu thuật

Hạ phân

thùy

thùy VII

VIII n

VIII t

(bên phải

(giữa

(giữa phải

(giữa

(bên trái

sau)


phải sau

sau trong)

trái)

sau)

Hạ phân
thùy VI
(bên phải
trước)

Hạ phân thùy Hạ phân Hạ phân
thùy IV thùy II

ngoài)
Hạ phân
thùy V
(giữa
phải
trước)

Hạ phân
thùy I
(sau)

Hạ phân
thùy III
(bên trái

trước)

Phân thùy gan dựa trên hình ảnh Cắt lớp vi tính.
Gan được chia thành hai phần là gan phải và gan trái. Tĩnh mạch trên
gan phải chia gan phải làm hai phần là phần trước và phần sau. Tĩnh mạch
trên gan trái chia gan trái làm hai phần là phần giữa và phần bên. Các phần
còn được gọi là phân thùy: phân thùy trước, phân thùy sau, phân thùy giữa,
phân thùy bên.


24

a: đường chiếu tĩnh mạch giữa gan
b: đường chiếu tĩnh mạch trên gan phải
c: đường chiếu tĩnh mạch trên gan trái
Hình 1.9. Phân thùy gan dựa trên hình ảnh CLVT [27].
Tĩnh mạch cửa khi đi vào trong gan phân thành các nhánh, các nhánh
này chia gan thành nhóm các hạ phân thùy trên và dưới. Từ nhánh phải hay
trái của tĩnh mạch cửa có các nhánh đi lên hay hướng xuống để vào trung tâm
của mỗi phân thùy. Phân thùy giữa và phân thùy bên của gan phân cách với
nhau bởi dây chằng liềm. Thực tế phân thùy giữa (IV) và phân thùy bên (II,
III) phân cách nhau bởi tĩnh mạch trên gan trái.
Các phân thùy được phân cách bởi tĩnh mạch trên gan, tĩnh mạch cửa
phải chia gan phải làm nhóm phân thùy trên (VII, VIII) và nhóm phân thùy
dưới (V,VI). Thùy đuôi (phân thùy I) độc lập về mặt giải phẫu với thùy phải
và trái. Các tĩnh mạch gan của thùy đuôi đổ trực tiếp vào tĩnh mạch chủ bụng,
không qua ba tĩnh mạch trên gan chính nói trên. Thùy đuôi có thể được cung
cấp máu từ tĩnh mạch cửa phải hoặc trái.



25

1.7. Nghiên cứu về động mạch gan
1.7.1. Hiatt J.R (1994) [3], nghiên cứu trên phim chụp hệ động mạch gan của
1000 hồ sơ của những người cho và ghép gan. Tác giải mô tả giải phẫu động
mạch gan và xếp loại theo các nhóm sau:

Hình 1.10. Các dạng động mạch cấp máu cho gan theo Hiatt J.R [3].
Nhóm I: mạch máu cung cấp cho gan là ĐMG riêng xuất phát từ ĐMG
chung, một nhánh của ĐMTT chiếm 75,7 % (n=757/1000).
Nhóm II: ĐMG trái xuất phát từ ĐM vị trái, ĐMG phải xuất phát từ
ĐMG riêng bắt nguồn từ ĐMTT chiếm 9,7 % (n=97/1000).
Nhóm III: ĐMG trái xuất phát trực tiếp từ ĐMTT, ĐMG phải từ ĐM
MTTT chiếm 10,6 % (n=106/1000).
Nhóm IV: ĐMG trái xuất phát từ động mạch vị trái, ĐMG phải xuất
phát từ ĐMMTTT chiếm 2,3 % (n=23/1000).
Nhóm V: ĐM cấp máu cho gan là ĐMMTTT chiếm 1,5% (n=15/1000).
Nhóm VI: ĐMG bắt nguồn trực tiếp từ ĐMC chiếm 0,2 % (n=2/1000).
Nghiên cứu của Hiatt J.R với cỡ mẫu đủ lớn, phương pháp nghiên cứu
hiện đại đã phân loại được 6 dạng động mạch cấp máu cho gan. Tác giả chủ yếu
mô tả các dạng nguyên ủy của động mạch gan chung, động mạch gan riêng.


×