Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một vài giải pháp sử dụng bản đồ tư duy để nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.29 MB, 17 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh của sáng kiến
Sự phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những yêu
cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực của ngành giáo dục Sông
Mã.
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển
từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú
trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động sáng tạo của
người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát
huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực
cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là xu hướng quốc tế trong cải cách
phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổ mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ
học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động
xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin và truyền thông trong dạy học”.
Thực hiện yêu cầu đó trong Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 –
2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng
Chính phủ chỉ rõ: "Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả
học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
và năng lực tự học của người học"; "Đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ
thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu
quả, khách quan và công bằng; kết hợp kết quả kiểm tra đánh giá trong quá
trình giáo dục với kết quả thi". Vậy để thực hiện được chiến lược này của
Chính phủ, tôi thiết nghĩ ứng dụng Bản đồ tư duy trong dạy và học sẽ góp phần


hình năng lực tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người
học, đồng thời đáp ứng được công tác đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ
thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu
quả, khách quan và công bằng.
2. Lý do chọn sáng kiến
Trước sự giao thoa ngày càng sâu rộng của các nền văn hóa trên thế giới
với quy mô toàn cầu như ngày nay, nhiều học sinh Việt Nam đã nhanh chóng tiếp
cận một cách bài bản, có hệ thống những cái hay, cái đẹp của các nền văn hóa ưu
1


tú của thế giới hiện đại. Trong đó có văn hóa Internet, văn hóa Online, văn hóa
Game… làm thay đổi phần nào nếp nghĩ, cách sống của thế hệ trẻ hiện nay. Vậy
để thế hệ trẻ tiếp thu một cách có chọn lọc mà vẫn giữ được những nét văn hóa
truyền thống của người Việt đòi hỏi ngành giáo dục Việt Nam nói chung và của
huyện Sông Mã nói riêng phải có sự đổi mới từ nền giáo dục mang tính hàn lâm,
xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành
động, phát huy tính chủ động sáng tạo.
Ứng dụng Bản đồ tư duy trong dạy và học là phương pháp tối ưu nhằm
phát huy tính tích cực và khả năng tư duy, hình thành năng lực hành động, phát
huy tính chủ động sáng tạo của học sinh một cách rõ nét nhất. Trong đó môn học
Lịch sử là một một môn học đặc thù với những chuỗi sự kiện, diễn biến đã diễn ra
trong quá khứ. Vì vậy, nhiệm vụ của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh
quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện
tại và tương lai. Đây là môn học yêu cầu người học là phải “Biết sự kiện - Hiểu
sự kiện – Nhớ sự kiện”, từ đó hình thành năng lực phân tích, tư duy lôgic, khái
quát, và đánh giá sự kiện. Tuy nhiên, các đồ dùng dạy học truyền thống hiện nay
còn rất nhiều hạn chế, chưa thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của bộ môn và yêu
cầu của quá trình đổi mới phương pháp dạy học bộ môn lịch sử. Trong việc khôi
phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động thì phương tiện trực quan là một

yếu tố hết sức cần thiết.
Trước thực tiễn đó, với sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã mạnh dạn sử
dụng Bản đồ tư duy vào việc nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn Lịch sử trong
nhà trường. Với mong muốn việc sử dụng Bản đồ tư duy được mở rộng trong nhà
trường và trong toàn ngành, đó là lý do tôi thực hiện sáng kiến “Một vài giải pháp
sử dụng bản đồ tư duy để nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử ở lớp 9A trường
PTDTBT THCS Mường Sai, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La năm học 2015 - 2016”.
3. Phạm vi và đối tượng của sáng kiến
- Phạm vi: Do xuất phát từ thực tế công tác giảng dạy của cá nhân nên sáng
kiến này tôi chỉ giới hạn ứng dụng trong giảng dạy bộ môn Lịch sử 9.
- Đối tượng: Tôi tiến hành thực nghiệm ở lớp 9A và lấy lớp đối chứng là
lớp 9B của trường PTDTBT THCS Mường Sai, năm học 2015 - 2016.
4. Mục đích của sáng kiến
Với sáng kiến này, tôi muốn Xây dựng cơ sở về lý luận dạy học lịch sử
theo hướng sử dụng bản đồ tư duy trong những bài, những phần thích hợp. Đưa ra
những giải pháp để sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học lịch sử lớp 9 một cách
tối ưu nhất.
Khẳng định việc sử dụng thành thạo bản đồ tư duy trong dạy học, giúp
học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và
phát triển được tư duy. Bản đồ tư duy giúp học sinh học được phương pháp học.
2


Việc rèn luyện phương pháp học cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
Từ kết quả thực nghiệm để triển khai và đánh giá kết quả rút ra bài học
kinh nghiệm bổ ích cho công tác giảng dạy của cá nhân và đơn vị sau này.
PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng của giải pháp cần nghiên cứu
Qua thực tế công tác quản lý và giảng dạy bộ môn ở đơn vị tôi nhận thấy:

trường PTDTBT THCS Mường Sai, đóng chân trên địa bàn xã vùng ba đặc biệt
khó khăn, nhận thức của người dân còn thấp, hiểu biết chưa cao, học sinh còn
chưa ham muốn học tập bộ môn này. Cụ thể kết quả khảo sát đầu năm về mức độ
hứng thú và chất lượng học tập bộ môn có kết quả như sau:
- Về mức độ hứng thú học tập bộ môn:
Lớp 9A

Lớp 9B

Không hứng thú

Sĩ số
31

Hứng thú

SL

Tỷ lệ %

SL

Tỷ lệ %


số

25

80.6


6

19.4

32

Không hứng thú

Hứng thú

SL

Tỷ lệ %

SL

Tỷ lệ %

25

78.1

7

21.9

- Về chất lượng học tập bộ môn:
Kết quả thực nghiệm
Lớp


Giỏi


số
SL

Khá

Tỷ lệ
%

Trung bình

Tỷ lệ

SL

%

SL

Tỷ lệ
%

Yếu
SL

Tỷ lệ
%


9A

31

1

3.2

5

16.1

19

61.3

6

19.4

9B

32

1

3.1

5


15.6

19

59.4

7

21.9

Từ kết quả khảo sát trên cho thấy nếu giáo viên không khéo léo sử dụng
nhuần nhuyễn các phương pháp, các phương tiện dạy học thì không gây được sự
chú ý, không tạo được niềm yêu thích cho học sinh trong học tập bộ môn lịch
sử. Hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo mà chỉ quen
nghe, quen ghi chép những gì mà giáo viên giảng dạy trên lớp. Hơn nữa chương
3


trình lịch sử quá rộng, kiến thức nhiều mà giáo viên chưa rút gọn những gì cần
truyền đạt, những gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề nào cần hướng dẫn cho
học sinh. Dẫn đến kết quả học tập bộ môn rất thấp.
II. Nội dung sáng kiến.
Để giải quyết thực trạng trên đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới hơn nữa
phương pháp dạy học, sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học làm sao lôi cuốn
được học sinh say mê học tập bộ môn. Từ lý do đó tôi đã thực hiện các giải pháp
để sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Lịch sử ở lớp 9A như sau:
1. Các bước tiến hành tổ chức dạy học bằng bản đồ tư duy.
Thực hiện dạy học bằng cách lập bản đồ tư duy có thể tiến hành qua 4 bước
cụ thể như sau:

Bước 1: Lập bản đồ tư duy
- Giáo viên hướng dẫn, gợi ý học sinh tiếp cận những nội dung chính của
bài học.
Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm được phân công vẽ 1 bản đồ tư duy cho
1 nội dung chính của bài và hướng dẫn học sinh triển khai sơ đồ theo các vấn đề,
nội dung, sự kiện.
- Lưu ý với học sinh nguyên tắc của bản đồ tư duy là chỉ viết những nội
dung chính, ngắn gọn, khi trình bày phát triển thêm.
Bước 2: Báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy
Cử HS hoặc đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư
duy mà nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này giáo viên nắm được việc hiểu
kiến thức, kỹ năng trình bày, tinh thần học tập của học sinh, từ đó giáo viên vừ bổ
sung kiến thức vừa rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, kỹ
năng tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần rèn luyện
của học sinh hiện nay đó là (kỹ năng sống).
Bước 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện bản đồ tư duy
Tổ chức cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa, chất vấn, khắc sâu kiến
thức và hoàn thiện bản đồ tư duy về kiến thức của nội dung vừa tìm hiểu. (giáo
viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh bản đồ tư duy).
Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một bản đồ tư duy
Giáo viên cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức của bài,
thông qua một bản đồ tư duy do GV đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở bìa),
hoặc bản đồ tư duy mà các em vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện
2. Các Giải pháp đã tiến hành của sáng kiến:
2.1. Giải pháp dùng bản đồ tư duy trong việc giảng bài học mới.
4


- Mục đích: Sử dụng bản đồ tư duy là một gợi ý cho cách trình bày. Giáo
viên thay vì gạch chân đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng bản đồ

tư duy để thể hiện một phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực
quan.
- Cách thức tiến hành: Khi dạy bài 23 “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, để xác định các nhánh
kiến thức lớn như: lệnh Tổng khởi nghĩa, việc giành chính quyền ở Hà Nội, trong
cả nước và ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thành công của cách mạng tháng Tám là
phần kiến thức không khó nhưng không dễ nhớ đối với học sinh. Nếu giáo viên
sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết
nhưng không hiệu quả vì nội dung dàn trải, hết nội dung này đến nội dung khác,
học sinh sẽ không thấy được mối quan hệ về việc chớp thời cơ để Tổng khởi
nghĩa và việc dành chính quyền ở Hà Nội có ý nghĩa như thế nào đối với việc
giành chính quyền trong cả nước và đặc biệt là ý nghĩa to lớn, nguyên nhân thành
công của cách mạng tháng Tám. Giáo viên sử dụng bản đồ tư duy vẽ lên bảng vừa
giảng bài vừa vẽ các nội dung lớn đó như sau:

5


Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức lớn cần nắm trong bài học giáo
viên có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa
vào nội dung trong sách giáo khoa, bản đồ trong sách giáo khoa, bản đồ treo
tường để hoàn thành bài tập xây dựng bản đồ tư duy vào giấy A4 theo tiến trình
diễn biến các sự kiện, kết quả thu được bài làm của một số nhóm học sinh như
sau:

6


Cuối cùng giáo viên cùng học sinh hoàn thiện được một bản đồ tư duy kiến
thức theo ý muốn của mình lên bảng, kết quả cụ thể như sau:


- Hiệu quả của giải pháp này là: dung bản đồ tư duy dạy một bài mới, giúp
học sinh nắm được bài học ngay tại lớp, thậm trí thuộc được nội dung bài nhờ
thao tác xây dựng kiến thức trên bản đồ tư duy.
2.2. Giải pháp dùng bản đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học
- Mục đích: Để củng cố kiến thức cho học sinh sau bài học thì dạng bài tập
thích hợp nhất là cho học sinh tự thiết kế cho mình một bản đồ theo ý muốn sáng
tạo của mình với màu sắc tùy ý, có thể bản đồ thiếu nội dung kiến thức cụ thể
hoặc đầy đủ lượng kiến thức của bài học như vừa tiếp thu trong bài học, hoạt
động cá nhân hoặc nhóm. Tuy nhiên, các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội
dung toàn bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của
bài học.
- Cách thức tiến hành: Khi dạy bài 11 “Những thành tựu chủ yếu và ý nghĩa
lịch sử của cách mạng khoa học – kĩ thuật sau chiến tranh thế giới II” (lịch sử 9),
sau khi học xong nội dung chính của bài học giáo viên chiếu bản đồ tư duy đã
chuẩn bị sẵn có từ khóa “Bài 12 – KHKT” rồi lần lượt đặt các câu hỏi củng cố
7


cho học sinh trả lời đồng thời chiếu các cành nhánh theo dung lượng bài học. Có
thể sử dụng bản đồ tư duy sau cho tiết học này:

- Hiệu quả của giải pháp này là: qua việc củng cố nội dung bài học theo
hình thức này học sinh sẽ nhớ lâu, nhớ kỹ nội dung bài học và phát huy được tính
sáng tạo, tư duy của mình, giúp các em yêu thích môn lịch sử hơn.
2.3. Giải pháp dùng bản đồ tư duy để ra bài tập về nhà
- Mục đích: Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm
kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh hoặc nhóm học
sinh trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép(trình độ
học sinh, thời gian, kinh tế).

- Yêu cầu đối với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu
tư lớn hơn (cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin), qua đó còn thể
hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh.
8


- Cách thức tiến hành: Để dạy tốt bài 18 “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời”
(lịch sử 9) trước khi dạy bài mới, ở tiết trước giáo viên giao nhiệm vụ cho học
sinh về nhà tìm hiểu nội dung của bài học theo các câu hỏi cuối mỗi mục trong
bài, yêu cầu nhóm học sinh cùng xây dựng bản đồ tư duy cho nhóm bằng cách vẽ
trên giấy, bằng những màu sắc theo ý tưởng thể hiện được tính sáng tạo, thẩm mỹ
cao. Sau đó đến khi dạy bài mới giáo viên cho học sinh đối chiếu so sánh nội
dung đã chuẩn bị ở nhà xem đúng không, đầy đủ chưa, đồng thời giáo viên phải
chuẩn bị một bản đồ tư duy có đầy đủ nội dung kiến thức của bài học này để
giảng dạy bài mới cho học sinh giúp học sinh hiểu bài sâu, năm chắc kiến thức
Kết quả sản phẩm chuẩn bị trước ở nhà của một số học sinh lớp 9A:
- Bài chuẩn bị của các em: Lò Việt Duy, Tòng Đại Nghĩa, Lò Thị Quyên,
Lò Thị Nhẫn.

- Bài chuẩn bị của em Lò Thị Hoang:

9


- Bài chuẩn bị của em Quàng Thị Thu Biên:

10


-So sách bài làm của học sinh với sơ đồ tư duy giáo viên chuẩn bị sẵn


- Hiệu quả của giải pháp này là: Giúp học sinh học tập một cách tích cực,
hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo
ngôn ngữ của mình, vì vậy việc sử dụng bản đồ tư duy giúp học sinh học tập
một cách tích cực, huy động tối đa sự tư duy và sáng tạo của học mình, từ đó
nhớ bài lâu và hiểu bài sâu.
2.4. Giải pháp dùng bản đồ tư duy trong ôn tập kiến thức.
- Mục đích: Sau mỗi chương mỗi phần, giáo viên cần phải tổng kết, ôn tập,
hệ thống hóa kiến thức cho học sinh trước khi các em làm bài tập và làm bài kiểm
tra chương, kiểm tra học kì, thi cuối năm.
- Cách thức tiến hành: Để củng cố kiên thức sau chương II và chương III
(lịch sử 9) giáo viên có thể sử dụng máy chiếu để lần lượt giới thiệu các mốc thời
gian quan trọng như sơ đồ sau:

11


- Hiệu quả của giải pháp này là: Với thế mạnh của BĐTD là kiến thức được
hệ thống hóa dưới dạng sơ đồ, các đường nối là sự diễn tả mạch logic kiến thức
hoặc các mối quan hệ nhân quả hay quan hệ tương đương, cộng thêm màu sắc của
các đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức, sẽ giúp học sinh nhìn thấy “Bức
tranh tổng thể” cả một phần kiến thức đã học.
3. Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Lịch sử có những ưu điểm
sau:
3.1. Đối với giáo viên
Thứ nhất: Bản đồ tư duy - phương pháp dạy học bằng cách sử dụng đồng
thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết, với sự tư duy tích cực không chỉ tạo
hứng thú trong học tập của học sinh mà còn góp phần đổi mới và làm phong phú
các phương pháp giáo dục tích cực.
Thứ hai: Dạy học bằng bản đồ tư duy dành nhiều thời gian cho học sinh

làm việc, chia sẻ với bạn bè, công việc của giáo viên đỡ vất vả nhiều so với cách
dạy truyền thống. Dạy học bằng bản đồ tư duy giúp học sinh thuộc bài ngay tại
lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác những nội dung bài học. Dạy
học bằng phương pháp bản đồ tư duy giúp các em không thấy nhàm chán vì bài
học dài dòng mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học.
Thứ ba: Dạy học bằng bản đồ tư duy sẽ nâng cao hiệu quả trong việc củng
cố kiến thức, rèn các kỹ năng và phát triển tư duy lôgíc cho HS. Với chủ trương
giảm tải thực hiện từ năm học này, dạy bằng bản đồ tư duy sẽ làm cho cô và trò
12


không bị mất thời gian vào các chi tiết vụn vặn, trùng lặp mà tập trung thảo luận
sâu và phát triển vấn đề cốt lõi của bài.
Thứ tư: Dạy học bằng bản đồ tư duy còn có tác dụng phân loại đối tượng
học sinh: học sinh khá, giỏi phát huy được khả năng sáng tạo, lập bản đồ tư duy
theo sự hiểu biết của mình hiểu bài, nhớ bài sâu và lâu. Trái lại học sinh học trung
bình trở xuống khó tiếp cận vận dụng chậm, lười tư duy. Do đó dạy học theo bản
đồ tư duy giáo viên cần dành thời gian hướng dẫn cho những đối tượng học sinh
này nhiều hơn.
3.2. Đối với học sinh
Thứ nhất: bản đồ tư duy giúp học sinh học được phương pháp học. Việc
rèn luyện phương pháp học cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh
học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn học thuộc như Lịch sử, các
em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và
không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học
trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe
giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng
tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo bản đồ tư duy trong dạy học, học
sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát

triển được tư duy.
Thứ hai: Giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên
cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do
chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình, vì vậy việc sử
dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa sự tư duy
và sáng tạo của học mình, từ đó nhớ bài lâu và hiểu bài sâu.
Thứ ba: Học sinh tự vẽ bản đồ tư duy có ưu điểm. Phát huy tối đa tính
sáng tạo, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của mình, các em tự do chọn
màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em
tự “sáng tác” nên trên mỗi bản đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày
kiến thức của từng học sinh và bản đồ tư duy do các em tự thiết kế vì vậy các
em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
Tóm lại: Đổi mới phương pháp dạy học xưa và nay thường gắn liền với đổi
mới khoa học công nghệ, đòi hỏi hạ tầng cơ sở vật chất tốt. Những điều kiện này
lại thường khó thực hiện ở các trường vùng sâu vùng xa, nơi kinh tế còn nhiều
khó khăn. Song dạy học bằng bản đồ tư duy có thể dạy được ở tất cả các trường
học nơi cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư hoặc đầu tư chưa đầy đủ như đơn vị
trường PTDTBT THCS Mường Sai vẫn có thể áp dụng tốt bằng cách làm bảng
phụ.
III. Khả năng áp dụng của sáng kiến
13


Sáng kiến này lần đầu tiên được được tôi áp dụng trong dạy học môn Lịch
sử ở lớp 9A trường PTDTBT THCS Mường Sai, trong năm học 2015 – 2016 này
và đã được toàn thể giáo viên trong Tổ bộ môn và học sinh nhiệt tình ủng hộ. Các
tiết dạy học Lịch sử có thử nghiệm sử dụng bản đồ tư duy làm cho tiết học sôi nổi
hơn, giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và lâu những nội
dung của bài học. Chính vì thế nên tôi đã thực nghiệm được ý tưởng “sử dụng bản
đồ tư duy để nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử” đạt hiệu quả như đã dự kiến.

IV. Hiệu quả dự kiến có thể thu được khi áp dụng sáng kiến
Qua thực thực tế thực nghiệm một năm học tại lớp 9A (lớp thực nghiệm) so
sánh đối chiếu với lớp 9B (lớp đối chứng), tôi thu được kết quả như sau:
Bảng so sánh mức độ hứng thú và không hứng thú học tập môn Lịch sử:
So sánh đối chiếu theo lớp
Thời gian
kiểm
chứng

số

Lớp 9A (thực nghiệm)
Không hứng thú
SL

Tỷ lệ
%

Lớp 9B (đối chứng)

Hứng thú
SL

Tỷ lệ

Không hứng thú

số

Tỷ lệ


SL

%

%

Hứng thú
SL

Tỷ lệ
%

Đầu năm

31

25

80.6

6

19.4

32

25

78.1


7

21.9

Hết kỳ I

31

10

32.3

21

67.7

32

24

75.0

8

25.0

Cuối năm

31


1

3.2

30

96.8

32

22

68.7

10

31.3

Bảng so sánh kết quả học tập qua các kỳ kiểm tra:
* Lớp 9A: Lớp thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm
Thời
gian thực
nghiệm

Giỏi


số

SL

Khá

Tỷ lệ
%

Trung bình

Tỷ lệ

SL

%

SL

Tỷ lệ
%

Yếu, kém
SL

Tỷ lệ
%

Đầu năm

31


1

3.2

5

16.1

19

61.3

6

19.4

Hết kỳ I

31

8

25.8

10

32.3

10


32.3

3

9.6

Cuối năm

31

11

35.5

12

38.7

8

25.8

0

0.0

14


* Lớp 9B: Lớp đối chứng

Kết quả đối chứng
Thời
gian đối
chứng

Giỏi


số
SL

Khá

Tỷ lệ
%

Trung bình

Tỷ lệ

SL

%

SL

Tỷ lệ
%

Yếu, kém

SL

Tỷ lệ
%

Đầu năm

32

1

3.1

5

15.6

19

59.4

7

21.9

Hết kỳ I

32

2


6.3

5

15.6

19

59.4

6

18.7

Cuối năm

32

3

9.4

6

18.8

17

53.1


6

18.7

Như vậy qua kết quả so sánh mức độ hứng thú và kết quả học tập của học
sinh trong hai lớp học thực nghiệm và đối chứng như trên cho thấy: việc sử dụng
BĐTD trong giảng dạy Lịch sử ở lớp 9A đã góp phần làm tăng lòng yêu thích và
say mê học tập bộ môn của học sinh, giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ
nhanh, nhớ sâu và lâu những nội dung của bài học. Kết quả là chất lượng học tập
bộ môn của học sinh tăng lên rõ rệt, đặc biệt là số học sinh đạt điểm khá giỏi qua
từng kỳ kiểm tra ngày càng tăng, còn số học sinh đạt điểm yếu ngày càng giảm.
Điều đó khẳng định sáng kiến này khi đưa vào áp dụng tại lớp 9A trường
PTDTBT THCS Mường Sai đã đạt hiệu quả đề ra.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm
Từ kết quả thu được trong quá trình sử dụng bản đồ tư duy vào dạy và học
lịch sử lớp 9 để nâng cao chất lượng dạy học bản thân tôi đã đúc rút một số kinh
nghiệm như sau:
Bản thân mỗi giáo viên không ngừng nâng cao tay nghề về chuyên môn
nghiệp vụ mà cả về sự sáng tạo, nghệ thuật hội họa.
Phải thường xuyên tổ chức dạy học theo phương pháp sử dụng BĐTD để
phát triển hết khả năng sáng tạo, thẩm mỹ, khat năng tư duy của học sinh.
Cần phải hướng dẫn kỹ cho học sinh chuẩn bị nội dung bài học ở nhà thông
qua BĐTD, sau đó kiểm tra sự chuẩn bị của các em và quan tâm các nhóm, các
học sinh yếu kém, tuyên dương, động viên những nhóm hcj sinh làm tốt nhiệm vụ
15


mà giáo viên giao để khuyến khích các em phát huy tạo niềm say mê cho các em

yêu thích môn học.
Tuy nhiên, không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử
dụng BĐTD và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. Giáo viên cần có sự
linh hoạt trong sử dụng BĐTD đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng học
sinh và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học
2. Ý nghĩa của sáng kiến
Qua thực nghiệm đề tài này, tôi nhận thấy BĐTD sau khi được ứng dụng
vào các tiết học đã mang lại hiệu quả thiết thực như: Giúp học sinh thuộc bài
ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và lâu những nội dung của bài học. Mặt khác,
dạy học bằng BĐTD giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi,
hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc
củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh,
nhất là những học sinh khá, giỏi. Học sinh có thể tự học ở nhà rất hiệu quả, không
tốn kém.
Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy
mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ
thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực
khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, có tính khả thi cao góp phần đổi mới
PPDH, nâng cao chất lượng bộ môn, thực hiện được chủ trương của ngành là
không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục.
3. Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến
Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học cho thấy, sử dụng BĐTD
trong dạy học giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động
được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc
đáo “kiến thức và hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng
là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành
quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực
riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD), hệ thống hóa
kiến thức (huy động những điều đã học trước đó chọn lọc các ý để ghi), khả năng
hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc).

Vì vậy với đề tài này, theo tôi có thể áp dụng trong dạy học Lịch sử cho
học sinh ở cả các khối lớp 6,7,8, lớp 9B và các môn học khác tại trường PTDTBT
THCS Mường Sai và mở rộng ra các trường THCS trong toàn huyện.
4. Những kiến nghị đề xuất.
Đối UBND huyện: tăng cường đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất, các phương
tiện dạy học cho các đơn vị nhà trường để phục vụ công tác dạy và học được tốt
hơn.

16


Đối với phòng GD&ĐT: Tổ chức nhiều hơn nữa các đợt tập huấn về
chuyên môn nghiệp vụ, triển khai rộng rãi những đề tài, sáng kiến kinh nghiệm đã
được đánh giá cao để áp dụng vào từng đơn vị trường học.
Kết quả của sáng kiến có thể còn nhiều thiếu sót, rất mong Hội đồng khoa
học các cấp và các bạn đồng nghiệp đóng góp bổ sung để nhiệm vụ dạy và học
được tốt hơn.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Tác giả sáng kiến

Hiệu trưởng

17



×