Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng tại tỉnh nam định hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.47 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====0o0=====

BÙI THÀNH CÔNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TẠI TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên hướng dẫn
ThS. Vi Thị Lại

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, em
đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành nhất tới ThS.Vi Thị Lại - người cô đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em
hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Chính
trị cùng các thầy cô giáo trong trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2 đã giảng
giải, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã góp ý,
ủng hộ em hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian, cũng như
kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.


Kính mong sự góp ý, chỉ bảo của các quý thầy cô cũng như các bạn
sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Người thực hiện

Bùi Thành Công


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh với đề tài: “Thực
hiện chính sách đối với người có công với cách mạng tại tỉnh Nam Định
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” được hoàn thành bằng sự cố gắng của
riêng tôi.
Khóa luận tốt nghiệp chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh này là kết quả
nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
Những tài liệu được trích dẫn trong khóa luận tốt nghiệp này là trung
thực. Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khớp với bất kì công
trình
nghiên cứu nào từng được công bố.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018.
Người thực hiện

Bùi Thành Công


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6

Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG ......................................................... 6
1.1. Một số khái niệm..................................................................................... 6
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách đối với người có
công với cách mạng ..................................................................................... 14
Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TẠI TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY .............................................................. 31
2.1. Sự cần thiết phải thực hiện chính sách đối với người có công tại
tỉnh Nam Định hiện nay ............................................................................... 31
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đối với người có công với cách
mạng tại tỉnh Nam Định hiện nay ................................................................ 34
2.3. Một số định hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách đối
với người có công với cách mạng tại tỉnh Nam Định hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ...................................................................................... 42
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 51


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc ta gắn liền với các cuộc đấu tranh trành độc lập và bảo
vệ Tổ quốc. Trong các cuộc đấu tranh này nhiều người đã không quản hi sinh,
hiến dâng cả đời mình cho đất nước. Họ là những người có công lao trong
công cuộc giành độc lập và bảo vệ đất nước, được nhân dân, Tổ quốc đời đời
ghi nhớ và biết ơn. Trên thực tế đời sống của người có công và thân nhân của
họ nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn bởi khả năng tham gia vào thị trường
lao động của “nhóm người” này không cao. Điều này bắt nguồn từ những tổn
thương về tinh thần và thể chất mà những cá nhân này đã đóng góp trong quá
trình bảo vệ Tổ quốc. Chính vì thế, thực hiện các hoạt động nhằm bảo đảm

chất lượng cuộc sống với nhóm đối tượng này là trách nhiệm của Nhà nước
và xã hội.
Trong suốt 24 năm trên cương vị là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến người có công. Hồ Chí Minh
thường căn dặn cán bộ, Đảng viên, các tầng lớp nhân dân nhất là thế hệ trẻ
“Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây” và chăm lo đền ơn thương binh liệt sĩ, những
người bỏ thân vì nước và đồng bào, máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá
cờ Tổ quốc thêm đỏ chói. Tại buổi kỉ niệm 30 năm thành lập Đảng, Người đã
căn dặn chúng ta “Trong cuộc tưng bừng vui vẻ hôm nay, chúng ta phải nhớ
đến những anh hùng, liệt sĩ của Đảng ta, của dân ta”. Trong bản di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta rằng ngay sau
khi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân ta đã hoàn toàn thắng lợi,
công việc đầu tiên đối với con người là chăm lo cho thương binh, bệnh binh,
những người có công trong việc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Hơn 70 năm qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị lấy ngày 27-7
hàng năm làm ngày thương binh, liệt sĩ, toàn Đảng, toàn dân thực hiện tư

1


tưởng Hồ Chí Minh gắng sức đền ơn đáp nghĩa người có công với đất nước.
Các chính sách của Đảng, Nhà nước đã phát huy cao độ truyền thống uống
nước nhớ nguồn, phát huy lòng yêu nước của đồng bào cả nước và đạt được
những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những hạn chế cần
được làm rõ và khắc phục.
Nam Định là một vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Trong cuộc
kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc, vùng đất này đã động viên hàng
chục vạn lượt người lên đường tham gia chiến đấu ở các chiến trường,
góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm lên những thắng lợi vẻ
vang cho dân tộc. Trong chiến tranh, sự hi sinh mất mát là điều không thể

tránh khỏi, hiện nay toàn tỉnh có hàng chục nghìn liệt sĩ, hàng chục nghìn
thương bệnh binh, hàng trăm bà mẹ Việt Nam anh hùng và cũng có hàng trăm
người có thành tích trong kháng chiến được Nhà nước tặng Huân, Huy chương
kháng chiến và Bằng khen các loại. Những đối tượng này nhiều năm qua
đã nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn
tỉnh. Tuy nhiên nhằm tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, việc
thực hiện chính sách với người có công ở tỉnh Nam Định cần được nâng
cao hiệu quả hơn nữa, khắc phục những hạn chế khó khăn trong thời gian vừa
qua.
Từ những lí do trên, tiếp tục nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách với người có công và vận dụng tư tưởng đó vào việc thực hiện chính
sách với người có công tại tỉnh Nam Định hiện nay là một việc làm có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách đối với người có
công với cách mạng tại tỉnh Nam Định hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay có rất nhiều các công trình khoa học nghiên cứu về vấn
đề thực hiện chính sách đối với người có công, về vấn đề phát triển vận dụng


chính sách với người có công theo tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh như:
2.1. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện
chính sách với người có công với cách mạng
Thành Công (2017), Sáng ngời tư tưởng Hồ Chí Minh về đền ơn đáp
nghĩa, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Lê Văn Tích (2003), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với thương binh liệt sĩ”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (7).
Văn Phong (2007), “Hồ Chí Minh về chính sách thương binh liệt sĩ”,

Tạp chí Xây dựng Đảng, (7).
2.2. Các công trình nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
thực hiện chính sách với người có công với cách mạng
Đại tá, PGS, TS KHQS Trần Nam Chuân (2017), Uống nước nhớ
nguồn,
đền ơn đáp nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
Tấn Vũ (2016), Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề “Đền ơn đáp nghĩa”,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Trung tướng,TS Lê Huy Vịnh (2017), Học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh về thực hiện chính sách thương binh liệt sĩ và
người có công với nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã tiếp cận và nghiên cứu chính
sách với người có công ở nhiều góc độ, nhiều địa phương khác nhau nhưng
cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào về vấn đề thực hiện
chính sách với người có công với cách mạng ở tỉnh Nam Định hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kế thừa, phát huy những cái đã thu được
của các công trình nghiên cứu trên, tác giả mong muốn được đi sâu nghiên
cứu để tìm hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện chính sách đối với
người có công với cách mạng và sự vận dụng tư tưởng đó vào việc thực hiện


chính sách đối với người có công với cách mạng tại tỉnh Nam Định trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính sách với người có công với cách mạng, vận dụng vào việc thực
hiện chính sách đối với người có công tại tỉnh Nam Định hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện chính sách với người
có công cách mạng.
Hai là, phân tích thực trạng thực hiện chính sách người có công với cách
mạng ở tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách với người có công cách mạng ở tỉnh Nam Định hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách đối với người có công với cách
mạng và thực trạng thực hiện chính sách đối với người có công với cách
mạng ở tỉnh Nam Định hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách với người có công
với cách mạng.
Về không gian: Thực trạng thực hiện chính sách với người có công cách
mạng tại tỉnh Nam Định.
Về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2017.


5. Phương Pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và phương pháp duy vật lich sử.
Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgic, phân tích, tổng hợp, so sánh, làm rõ mục đích đề tài đề ra.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm 2 chương, 5 tiết.



NỘI DUNG
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1. Một sô khái niệm
1.1.1. Người có công với cách mạng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm đặc biệt đến
người có công là những người đã cống hiến xương máu, hi sinh tính mạng để
bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Dù bận trăm
công nghìn việc nhưng Người vẫn luôn giành thời gian để quan tâm, thăm
hỏi, động viên các đồng chí người có công cùng gia đình của họ. Nội dung tư
tưởng, những tình cảm thiêng liêng Hồ Chí Minh giành cho người có công
được thể hiện một cách nhất quán, xuyên suốt, cụ thể, thiết thức trong rất
nhiều bài nói, bài viết, hành động đặc biệt là của người. Ngay từ những ngày
đầu nước nhà mới giành được độc lập, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm đến
công tác chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Với truyền thống
“Uống nước nhớ nguồn”, được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, lãnh
đạo, nhân dân ta đã giành tình thương yêu cho những người, những gia đình
có công với Tổ quốc và cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, công tác người có công với cách mạng là một hình
thức xây dựng tượng đài kỉ niệm trong lòng dân chúng, các thế hệ kế tiếp, ghi
nhớ công ơn, chiến công của những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập
và tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc và cuộc sống bình yên của nhân dân.
Từ đó, Hồ Chí Minh đã đưa ra một khái niệm về người có công với cách
mạng, đó là những người quyết hi sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh
của đồng bào. Họ hi sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản
của đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để bảo vệ Tổ quốc và đồng bào
sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một


phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là

những thương binh, đó là tử sĩ.
Trong “Lời kêu gọi nhân ngày 27-7-1948” Người cũng đã khái quát về
người có công:
Họ quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào.
Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản
của đồng bào.
Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống.
Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta.
Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận.
Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ…
[19, tr.580]
Bên cạnh đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra thêm một khái niệm
về người có công:
“Thương binh là những người đã đưa một phần xương máu phục vụ
cho Tổ quốc. Họ là anh hùng. Quân nhân phục viên đã đánh giặc bao
năm, như vậy là đã kinh qua một lịch sử vẻ vang” [24, tr.491].
Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng một cách sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Theo Pháp lệnh ưu đãi dành cho người có công
cách mạng, ban hành theo quyết định năm 2005 “Người có công cách mạng”
là: Người hoạt động cách mạng trước ngày 1/1/1945; người hoạt động cách
mạng từ ngày 1/1/1945 đến trước Tổng khời nghĩa tháng 8/1945; liệt sĩ; bà mẹ
Việt Nam anh hùng; anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao
động; thương binh, những người hưởng chính sách như thương binh;
bệnh binh; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; người
hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù phải đày; người
hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế; người có công giúp đỡ cách mạng; thân nhân của những người có
công cách mạng.



Trong đó Pháp lệnh cũng nêu rõ khái niệm về từng đối tượng cụ thể:
Người hoạt động cách mạng trước ngày 1/1/1945: Là người được cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách mạng trước
ngày 1/1/1945.
Người hoạt động cách mạng từ ngày 1/1/1945 đến trước Tổng khởi
nghĩa tháng 8/1945: Là người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công
nhận đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly hoạt
động cách mạng kể từ ngày 1/11945 đến trước Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.
Liệt sĩ: là người đã hi sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân
dân được nhà nước truy tặng Bằng “Tổ quốc ghi công” thuộc một trong các
trường hợp sau: chiến đấu hoặc trực tiếp thực hiện chiến đấu; trực tiếp đấu
tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với địch; hoạt động cách mạng,
hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên
quyết đấu tranh và thực hiện chủ trương vượt tù, vượt ngục và hi sinh; làm
nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm; dũng cảm thực hiện công việc
cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu
tài sản của Nhà nước và nhân dân; do ốm đau, tai nạn khi đang làm nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Bà mẹ Việt Nam anh hùng: là danh hiệu được Nhà nước Việt Nam phong
tặng hoặc truy tặng những người phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Tiêu chuẩn đạt danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" dành cho những
phụ nữ đạt một trong những tiêu chuẩn sau:


Có hai con trở lên là liệt sĩ




Có hai con mà một con là liệt sĩ, một con là thương binh với thương tật

từ 81% trở lên.




Chỉ có một con mà người đó là liệt sĩ.



Có một con là liệt sĩ, chồng hoặc bản thân là liệt sĩ.

Người con là liệt sĩ bao gồm con đẻ và con nuôi của Bà mẹ được pháp
luật thừa nhận, và đã được Chính phủ tặng Bằng "Tổ quốc ghi công".
Bà mẹ có đủ một trong 4 trường hợp nêu trên do phải chịu đựng nỗi đau
mất con, mất chồng mà bị bệnh tâm thần, vẫn được tặng danh hiệu "Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng".
Người chồng là liệt sĩ nói ở trên đây là người đã được Chính phủ tặng
Bằng "Tổ quốc ghi công" mà Bà mẹ là vợ của người đó được hưởng chế độ
tuất liệt sĩ.
Danh hiệu này do Chủ tịch nước ký tặng hoặc truy tặng theo đề nghị của
Chính phủ.
Người được tặng (truy tặng) được cấp bằng và huy hiệu "Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng".
Thương binh, người được hưởng chính sách như thương binh: Thương
binh là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm khả năng lao
động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp “Giấy chứng
nhận thương binh” và “Huy hiệu thương binh” thuộc một trong các trường
hợp sau: chiến đấu và trực tiếp thực hiện chiến đấu; bị địch bắt phải tra tấn

vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại thương tích thực tể;
làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm; dũng cảm thực hiện công
việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; dũng cảm cứu người,
cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân; làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở
địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Trong đó được chia làm
bốn loại: thương binh loại 1 (trên 81%), thương binh loại 2 (từ 61 đến 80%),
thương binh loại 3 (từ 41% đến 60%), thương binh loại 4 (từ 21% đến 40%).
Người hưởng chính sách như thương binh là người không phải là quân
nhân, công an nhân nhân,bị thương là suy giảm khả năng lao động từ 21% trở


lên thuộc một trong nhưng trường hợp tại Điều 19 (quy định về thương binh)
được cơ quan có thẩm quyền cấp “Giấy chứng nhận người hưởng chính sách
như thương binh”.
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được gọi chung
là thương binh.
Bệnh binh: là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị
có thẩm quyền cấp “Giấy chứng nhận bệnh binh” thuộc một trong các trường
hợp sau: chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; hoạt động ở địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ 3 năm trở lên; hoạt động ở địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn chưa đủ 3 năm nhưng có
đủ 10 năm trở lên công tác trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; đã
công tác trong quân đội nhân dân, công an nhân dân đủ 10 năm nhưng không
đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí; làm nghĩa vụ quốc tế; dũng cảm thực hiện
công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh.
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động từ 41% đến 60% đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công
nhận trước ngày 31/12/1994.
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học: là người được

cơ quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ
chiến đấu tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hóa học, bị mắc
bệnh làm suy giảm khả năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật hoặc vô sinh do
hậu quả của chất độc hóa học.
Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù,
đày: là người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong
thời gian bị tù, đày không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến,
không làm tay sai cho địch.


Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế được hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Điều 31 của
Pháp lệnh ưu đãi người có công cách mạng (về trợ cấp, bảo hiểm): là người
tham gia kháng chiến được Nhà nước tặng “Huân chương kháng chiến”, “Huy
chương kháng chiến”.
Người có công giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ
cách mạng trong lúc khó khăn, nguy hiểm, bao gồm: Người được tặng Kỷ
niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”; người
trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có
công với nước” trước cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng
Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến; người trong gia
đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến.
1.1.2. Chính sách ưu đãi với người có công với cách mạng
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, công tác người có công là một loại
chính sách xã hội đặc biệt thu hút sự tham gia của mọi đối tượng dân cư, mọi
ngành, mọi giới; không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm,
lương tri sống ở đời và làm người, nói lên bản chất ưu việt của chế độ xã hội,
nét đẹp văn hóa ứng xử, đạo lý sống của con người Việt Nam. Trong các lực
lượng xã hội tham gia làm công tác người có công, Đảng Cộng sản phải là
người khởi xướng và lãnh đạo thông qua hệ thống các chủ trương, đường lối

và chính sách.
Bản thân Chủ tich Hồ Chí Minh tích cực đi đầu trong thực hiện công tác
thương binh, liệt sỹ. Ngay từ tháng 11 năm 1946, Người đã ra thông báo về
việc nhận các con liệt sỹ làm con nuôi, hằng năm đều có thư thăm hỏi động
viên, khuyến khích thương binh, gia đình liệt sỹ. Trong vòng 22 năm (19471969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 14 lần gửi quà, tiền nhân ngày thương binh,
liệt sỹ. Việc làm của Người vừa thiết thực, vừa tạo thành một phong trào xã


hội rộng lớn với nhiều hình thức phong phú và vô cùng cảm động đã thu hút
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định việc khen thưởng đối với những
người có công với cách mạng:
“Những người có công giúp chính quyền và quân đội nhân dân diệt
giặc, trừ gian sẽ được thưởng” [21, tr. 489].
Bên cạnh đó, Người cũng khẳng định việc trao thưởng phải đúng người,
đúng việc, cho thấy sự nghiêm túc, đúng đắn trong việc thực hiện chính sách
với người có công:
“Ta gọi là huân chương, là một thứ huy hiệu để tặng thưởng những
người có công đặc biệt. Vì vậy họ có giá trị cao quý. Nếu tặng thưởng
không đúng thì nó là một trò cười.” [23, tr.232].
Tư tưởng Hồ Chí Minh mang những giá trị sâu sắc và toàn diện nhất.
Thực hiện chính sách với người có công theo tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý
nghĩa hết sức nhân văn và ý nghĩa. Cho đến nay, việc thực hiện chính sách với
người có công đã được hoạch định một cách cụ thể nhất. Trong đó, người
hoạt động cách mạng trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được hưởng trợ
cấp, phụ cấp hằng tháng; khi chết thì người thân được nhận tiền mai táng phí,
trợ cấp một lần; cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con dưới 18 tuổi, con trên 18
tuổi nhưng còn đi học hoặc bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng nếu
suy giảm khả năng lao động sẽ được hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng.
Thân nhân của một liệt sĩ được hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng bằng

một lần mức chuẩn (1.110.000đ). Tương tự, thân nhân của 2 liệt sĩ được nhận
2 lần mức chuẩn và của 3 liệt sĩ trở lên được nhận 3 lần mức chuẩn. Vợ hoặc
chồng liệt sĩ lấy chồng hoặc lấy vợ khác thì được hưởng trợ cấp tiền tuất hằng
tháng bằng một lần mức chuẩn. Các trường hợp thân nhân liệt sĩ được hưởng
trợ cấp tiền tuất hằng tháng bao gồm cha đẻ, mẹ đẻ, người có công nuôi


dưỡng liệt sĩ, con dưới 18 tuổi, con trên 18 tuổi nhưng còn đi học hoặc bị
khuyết tật nặng, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có thu nhập
hằng tháng thấp hơn 0,6 lần mức chuẩn, vợ hoặc chồng liệt sĩ lấy chồng hoặc
lấy vợ khác nhưng nuôi con liệt sĩ đến tuổi trưởng thành hoặc chăm sóc bố mẹ
liệt sĩ khi còn sống. Trường hợp liệt sĩ không còn người hưởng trợ cấp tiền
tuất hằng tháng thì người thờ cúng được hưởng trợ cấp thờ cúng mỗi năm một
lần 500.000 đồng.
Bà mẹ Việt Nam anh hùng được hưởng trợ cấp một lần, trợ cấp hằng
tháng, sống ở gia đình thì được hưởng trợ cấp người phục vụ. Khi Bà mẹ Việt
Nam anh hùng chết, người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí, đại diện
thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng 3 tháng trợ cấp, phụ cấp ưu đãi.
Mức trợ cấp người phục vụ Bà mẹ Việt Nam anh hùng mỗi tháng bằng một
lần mức chuẩn.
Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong thời
kỳ kháng chiến được hưởng chế độ trợ cấp hằng tháng. Khi chết, người tổ
chức mai táng được nhận mai táng phí, được hưởng trợ cấp một lần bằng ba
tháng trợ cấp ưu đãi. Nếu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, Anh hùng
Lao động trong thời kỳ kháng chiến khi chết mà chưa được nhận chế độ ưu
đãi hoặc truy tặng thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần.
Thương binh (bệnh binh) suy giảm khả năng lao động do thương tật
(bệnh tật) từ 81% trở lên được hưởng phụ cấp, hoặc phụ cấp đặc biệt hằng
tháng khi có vết thương đặc biệt nặng, nếu sống ở gia đình thì được nhận thêm
khoản trợ cấp người phục vụ. Người bị thương bị giảm khả năng lao động do

thương tật từ 5% đến dưới 21% được hưởng trợ cấp một lần. Khi thương binh,
bệnh binh chết, người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí, đại diện thân
nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng ba tháng trợ cấp, phụ cấp ưu đãi.
Thương binh (bệnh binh) suy giảm khả năng lao động do thương tật (bệnh tật)
từ 61% trở lên chết, thân nhân được hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng.


Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam tùy theo mức độ
được hưởng trợ cấp hằng tháng từ 0,76 đến 2,28 lần mức chuẩn. Nếu người
hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động
do bệnh tật từ 81% trở lên sẽ được hưởng chế độ như với bệnh binh cùng tỷ lệ
suy giảm khả năng lao động. Khi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất
độc hóa học chết, chế độ được tính như với bệnh binh. Con đẻ của người hoạt
động kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam được hưởng trợ cấp hằng tháng
bằng 0,6 đến một lần mức chuẩn, tùy mức độ suy giảm khả năng lao động.
Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tù
đày được hưởng trợ cấp hằng tháng bằng 0,6 lần mức chuẩn. Khi chết, người
tổ chức mai táng được nhận mai táng phí, đại diện thân nhân được nhận trợ
cấp một lần bằng 3 tháng trợ cấp ưu đãi hoặc bằng 1,5 lần mức chuẩn nếu
chưa được hưởng chế độ ưu đãi trước đó.
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế được hưởng trợ cấp một lần theo thời gian tham gia kháng
chiến. Khi chết, người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí.
Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huân chương kháng chiến
được hưởng trợ cấp hằng tháng; khi chết, người tổ chức mai táng được nhận
mai táng phí, người thân được hưởng trợ cấp một lần bằng 3 tháng trợ cấp ưu
đãi. Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huy chương Kháng chiến
được hưởng trợ cấp một lần; khi chết, người tổ chức mai táng được nhận mai
táng phí.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách đối với người có công

với cách mạng
1.2.1. Sự cần thiết phải thực hiện chính sách đối với người có công với
cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thương, sự quan tâm, chăm
sóc đối với thương binh, gia đình liệt sĩ. Tình thương bao la ấy của người là
bài học vô cùng quý giá, trường tồn với thời gian.


Đầu tiên, thực hiện chính sách đối với người có công là bổn phận của
mỗi công dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng:
“Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những
người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là
phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ” [24, tr.372].
Thứ hai, thực hiện chính sách đối với người có công là kế thừa và phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp
nghĩa”, ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (năm
1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chọn ngày 27-7 là ngày Thương
binh - Liệt sĩ, nhằm tôn vinh và tỏ lòng biết ơn đối với thương binh, bệnh binh
và gia đình liệt sỹ và người có công. Hồ Chủ tịch đã nói: “Thương binh, bệnh
binh, gia đình bộ đội, gia đình liệt sỹ là những người có công với Tổ quốc. Vì
thế bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, thương yêu và giúp đỡ họ”. Vì vậy,
chăm sóc, ưu đãi người có công với cách mạng có ý nghĩa chính trị, xã hội to
lớn và trở thành một nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Điều 67 Hiến pháp năm 1992 quy định phải
thực hiện tốt các chính sách ưu đãi với người có công với nước, vận động
toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nâng cao mức sống về
mặt vật chất tinh thần của người có công. Đây là yếu tố nhằm thực hiện sự
tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy sự nghiệp
đổi mới phát triển.
Trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do

cho đất nước của nhân dân ta, có biết bao nhiêu chiến sĩ cộng sản, quần chúng
yêu nước đã ngã xuống, hi sinh nơi chiến trường khốc liệt để xây dựng lên
giang sơn gấm vóc hôm nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói một câu rất sâu
sắc rằng: máu đào của chiến sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói.
Sự hi sinh anh dũng của liệt sĩ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả


tự do, nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn của chiến sĩ…. Chiến tranh kết
thúc, có những người con đã trở về từ trận tuyến, nhưng cũng có những người
mãi mãi ra đi, lại có những người đã để lại một phần máu thịt của mình - các
anh trở về với những thương tật trên cơ thể vì lí tưởng cách mạng cao đẹp.
Tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm
làm “Ngày thương binh” để nhân dân ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến
thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với đất nước. Thực hiện
chỉ thị của Người, Hội nghị trù bị bao gồm đại biểu các cơ quan, ban, ngành ở
Trung ương và địa phương đã họp ở xã Phú Minh, “huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên” bàn bạc, nhất trí đề nghị lấy ngày 27/7/1947 làm “Ngày thương
binh, liệt sĩ”. Từ đó, ngày 27/7 hàng năm trở thành “Ngày thương binh, liệt
sĩ” trong cả nước.
Người đã đánh giá chính xác ý nghĩa và giá trị của sự hi sinh vì độc lập,
tự do của các chiến sĩ. Người nâng công tác thương binh, liệt sĩ lên ngang tầm
một hoạt động văn hóa, như là một sự kế tục ở quy mô toàn xã hội, truyền
thống nhân nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc
Việt Nam.
Đặc trưng nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sĩ là
chủ nghĩa nhân văn mà cốt lõi là lòng thương người. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh
lòng thương người phát triển ở mức độ cao; nó đồng nghĩa với việc thực hiện
các quyền cơ bản về sự phát triển toàn diện của con người. Người đi đến nhận
thức rằng cái chết của họ làm cho Tổ quốc họ sống lại, lòng can đảm của họ
là bất diệt.

Lòng thương người của Chủ tịch thể hiện ở sự đồng cảm với những
người thân trong gia đình bị mất con, em vì hi sinh cho Tổ quốc, xong rất đỗi
tự hào vì được “Tổ quốc ghi công”. Sự xúc động và cảm kích khi đọc thư của
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bác sĩ Phạm Đình Tụng, khi được tin con trai ông


hi sinh: Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước
Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên là con cháu của tôi. Mất một
thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.
Hồ Chí Minh cũng nói rằng nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng
cảm hi sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang
giống nòi. Họ chết đi cho Tổ quốc sống mãi. Vật chất họ mất nhưng tinh thần
họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt nam.
Thứ ba, thực hiện chính sách với người có công còn nâng cao ý thức
giáo dục đạo đức, tư tưởng, chính trị phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách
mạng của đất nước, dân tộc. Không phải sự mất mát nào cũng làm cho chúng
ta kính trọng, học tập, dù có thương cảm, mủi lòng, ngoại trừ hi sinh cho đất
nước làm cho cuộc sống hiện tại và tương lại mãi mãi tồn tại và phát triển. Đó
là những cái chết làm nên sự sống và trở thành bất tử. Tình cảm thân thiết,
tình đồng chí, đồng đội được cô đọng thể hiện trong “Bài điếu đồng chí Hồ
Tùng Mậu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 1/8/1951 là Người với đồng chí
Hồ Tùng Mậu là đồng chí, lại thân thiết hơn anh em ruột. Khi hoạt động ở nơi
đất khách quê người, khi bị giam ở lao tù đế quốc, khi đấu tranh ở nước nhà,
hơn 25 năm, đã bao phen chúng ta đồng cam cộng khổ, như tay với chân…
Mất đồng chí Hồ Tùng Mậu, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tụy, Chính
phủ mất một người cán bộ lão luyện, Đoàn thể mất một người đồng chí trung
thành và tôi mất một người anh em thân thiết. Mấy nguồn thương tiếc, cộng
dồn vào một lòng Người. Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
thương binh liệt sĩ không chỉ là thương tiếc, ngậm ngùi, đau xót và tự hào mà
còn gợi nên tinh thần bất khuất làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của cả dân

tộc. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho những điều vinh quang càng
vinh quang và đáng tự hào hơn, trách nhiệm với những người còn sống, trách
nhiệm với những gia đình và nhân dân càng nặng nề hơn.


Thứ tư, theo quan điểm của Hồ Chí Minh giúp đỡ thương binh không
mang ý nghĩa nhất thời, về lâu dài cơ bản và quyết định là tạo mọi điều kiện
cho họ có khả năng hòa nhập tự nhiên, thích nghi với đời sống cộng đồng, có
công cụ để hoạt động phù hợp với khả năng của từng đối tượng, đảm bảo
cuộc sống cho họ và gia đình. Ngoài những việc nghĩa cử của bản thân, đối
với thương binh, liệt sỹ Người cũng nhấn mạnh: Để phong trào “Đền ơn đáp
nghĩa” trở thành một phong trào có sức lan tỏa rộng trong thực tiễn, có hiệu
quả và thiết thực, toàn Đảng, toàn dân phải vinh danh, ghi nhận công lao to
lớn của thương binh, liệt sỹ và làm tốt hơn nữa công tac “Đền ơn đáp nghĩa”.
Trong mỗi hoàn cảnh, Người thường nhấn mạnh: Giúp thương binh lâu
dài, chứ không phải chỉ giúp trong một thời gian. Không phải giúp bằng cách
góp gạo nuôi thương binh, Những biện pháp hỗ trợ trước mắt mà bằng cả một
hệ thống giải pháp căn cơ về lâu dài, trên mọi phương diện.

1.2.2. Nội dung cơ bản của chính sách đôi với người có công với cách
mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời nêu tấm gương sáng về tinh thần nỗ lực
chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp cách mạng và Người luôn đánh giá rất cao, cổ
vũ mạnh mẽ sự nỗ lực chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp cách mạng của mỗi
chiến sĩ đồng bào ta. Người đặc biệt biểu dương ca ngợi và đầy lòng xót
thương các chiến sĩ, đồng bào ta đã hiến dâng cái quý giá nhất là tính mạng
hoặc một phần xương máu của mình để mang lại độc lập dân tộc cho đất
nước. Trước hết, Người luôn dành tình cảm chân thành đối với thương binh,
liệt sĩ và những người có công cho cách mạng. Người đã đề nghị các ban,
ngành, đoàn thể Trung ương đang họp ở Đại Từ, Thái Nguyên, lấy ngày 27

tháng 7 năm 1947 làm “Ngày Thương binh toàn quốc” đầu tiên để bày tỏ tình
cảm thắm thiết, lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với những người bị
thương tật vì đã không tiếc máu xương, cống hiến hết mình cho Tổ quốc.
Ngày 27-7 năm 1947, ngày Thương binh toàn quốc, mở đầu bằng cuộc
mit-tinh quan trọng đã được diễn ra tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ tỉnh Thái


Nguyên. Tại đây Ban tổ chức đã cử đại diện Chính trị Cục Quân đội Quốc gia
Việt Nam trịnh trọng đọc thư của Hồ Chí Minh gửi cho Ban Thường trực của
Ban Tổ chức ngày thương binh toàn quốc. Hồ Chí Minh cũng gửi tặng một
chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ
tịch. Trong thư, Người viết:
Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền
chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân
thích, họ hàng ta bị đe dọa, của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng
mạc ta bị nguy ngập, ai là người xung phong trước hết để chống cự quân
thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sĩ mà nay một
số thành ra thương binh… Thương binh là những người đã hi sinh xương
máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, của
đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm, bị yếu…. Vì vậy, Tổ quốc và đồng
bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy [19, tr.204].
Những câu nói trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy một tư
tưởng hết sức nhân văn và ý nghĩa. Những người anh dũng đó đã hi sinh một
phần rất lớn để để mang lại cho Tổ quốc ta sự độc lập tự do và hạnh phúc
ngày hôm nay.
Tiếp đó, nhân ngày 27-7 năm 1948, Hồ Chí Minh cũng có lời kêu gọi:
Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn
ngập cả non song Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản,
chìm đắm cả bố mẹ, vợ con của nhân dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số
đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm xông ra mặt trận. Họ

quyết tâm đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một
con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc làm hại đồng
bào. Họ quyết hi sinh tính mệnh để giữ tính mệnh đồng bào. Họ quyết hi
sinh gia đình và tài sản họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ


quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là
những chiến sĩ anh dũng của chúng ta. Trong đó có người đã bỏ lại một
phần thân thể ở mặt trận, có người đã bỏ mình ở chiến trận. Đó là thương
binh, đó là tử sĩ. [19, tr.579].
Từ đó đến ngày 27/7 hàng năm, trong thời gian cầm quyền, Hồ Chí Minh
đều gửi thư thăm hỏi, động viên các thương binh, gia đình liệt sĩ và nhắc nhở
mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn ghi nhớ công lao to lớn của các chiến sĩ đã hi
sinh quên mình vì Tổ quốc. Không chỉ nói trong thư, Chủ tịch Hồ Chi Minh
còn ban sắc lệnh chỉ thị cho các cơ quan, các cấp và chính quyền thực hiện.
Trong các sắc lệnh, chỉ thị của Người đều thể hiện tính nhân văn, sự đền đáp
xứng đáng với các chiến sĩ.
Trước hết, nội dung chính sách với người có công trong tư tưởng của
Người cho thấy là sự đảm bảo về mặt kinh tế cho họ. Trong sắc lệnh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ điều này với các điều luật rõ ràng. Sắc lệnh
số 20/SL ngày 16/2/1947 của Chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã đã đặt ra “Hưu
bổng thương tật” và “Tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”. Tiếp theo, những quân
nhân thuộc các ngành quân đội quốc gia Việt Nam nếu trong lúc tại ngũ , vì
giao chiến với quân địch, vì thừa hành công cụ, vì tận tâm với một việc ích
chung hoặc vì cứu một hay nhiều người mà bị thương, thì được thừa hưởng
thương tật.
Bên cạnh đó, dưới sự chỉ đạo của Người, hội đồng quân Y Bộ quốc
phòng cũng tham gia vào việc thẩm định cho các thương binh liệt sĩ. Hưu
bổng thương tật không tính theo hạng thâm niên binh sĩ, chỉ căn cứ vào bệnh

nặng hay nhẹ do Hội đồng quân Y Bộ quốc phòng xét định, áp dụng cho: binh
và sĩ, úy và tá, tướng, nếu Hội đồng quân Y xét thương tật không thể tang
hoặc giảm thì được cấp hưu bổng vĩnh viễn ngay.


Cùng với đó là sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với con cái và
gia đình họ. Những quân nhân bị thương tật từ 50 độ trở lên nếu có con chính
thức đủ điều kiện trong điều thứ 8 sau này sẽ được lĩnh gia cấp bất cứ là được
cấp hưu bổng vĩnh viễn hay tạm thời . Gia cấp cho mỗi xuất con, mỗi tam cá
nguyệt sẽ do một nghị định của ông Bộ trưởng bộ Quốc phòng ấn định. Cha
mẹ vợ con các tử sĩ được cấp tiền tuất. Tiền tuất cho mẹ, vợ, con sẽ do Nghị
định của ông Bộ trưởng bộ Quốc phòng ấn định. Lương hưu thương tật hay
tiền tuất cho thân nhân tử sĩ sẽ không đem nhượng hay bán hoặc khấu trừ.
Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho thấy rõ rằng những quân nhân
tại ngũ trong các ngành quân đội quốc gia Việt Nam, chết trong các trường
hợp sau này thì được gọi là tử sĩ: vì giao chiến với quân địch, vì thừa hưởng
một công cụ, vì tận tâm với một việc ích chung, vì cứu một hay nhiều người,
hoặc nguyên do vì đã bị thương trong những trường hợp ấy mà chết.
Thứ hai, những chính sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đảm bảo cho
người có công về mặt đời sống chính trị. Người đã ban hành sắc lệnh ấn định
việc khen thưởng tới các gia đình có con lên đường tòng quân, Sắc lệnh số
129/SL ngày 16/12/1952 ấn định việc khen thưởng những nhà có 3 con trở lên
tòng quân.
Để tỏ lòng biết ơn, niềm tự hào của Chính phủ và nhân dân đối với chiến
sĩ và gia đình chiến sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra bảng “Bảng vàng danh
dự” và bảng “Gia đình vẻ vang” để tặng thưởng cho các gia đình chiến sĩ.
Trong đó, Bác cũng có các quy định rõ ràng cho “Bảng vàng danh dự”
được tặng cho những gia đình có 3 người con, cháu hoặc em còn ở chung
thuộc các hạng như: là bộ đội chủ lực , hoặc đã hy sinh hoặc đã được phép
giải ngũ, hiện ở bộ đội địa phương đã hơn hai năm hoặc trước đã ở bộ đội địa

phương đã hơn hai năm mà được phép giải ngũ, hiện đang ở hoặc trước đã ở
bộ đội địa phương hoặc dân quân du kích mà đã lập công.


×