Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiểu luận về khoa cử và kì thi đình trong sử liệu việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.04 MB, 24 trang )

Unpublished Draft
Hieu Phung

Tiểu luận về Khoa Cử và kì Thi Đình trong Sử Liệu Việt Nam
Phùng Hiếu

Cho đến hôm nay, một câu nói từ thế kỉ 15 nhưng vẫn tràn đầy sinh
lực để thổi bừng lên niềm tự hào trong bất cứ người dân Việt về công
nghiệp giáo dục của nước nhà – câu nói ấy được khắc ghi đầu tiên trên tấm
bia tiến sĩ cho khoa thi năm 1442 và tiếp tục được nhiều thế hệ trí thức sau
này nhắc nhở lại:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh mà hưng vượng, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp
hèn. […] Kẻ sĩ có quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, nên quí
chuộng họ cơ hồ không dường nào tận, đã sủng ái họ để đề cao bởi
khoa danh, lại ưu ái họ ban cho tước trật.”
賢材國家之元氣。元氣盛則國勢強以隆,元氣餒則國勢弱以
污。… 蓋士之關係於國家如此其重故崇尚之殆無終窮,既寵
之以科名,又隆之以爵秩。
(Hiền tài quốc gia chi nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thế
cường dĩ long, nguyên khí nỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô. […] Cái sĩ
chi quan hệ ư quốc gia như thử kì trọng cố sùng thượng chi đãi vô
chung cùng, kí sủng chi dĩ khoa danh, hựu long chi dĩ tước trật..)1
Bài văn bia nổi tiếng ghi danh các tiến sĩ khoa thi năm Đại Bảo 3
(1442) do Phụng trực đại phu Hàn lâm viện Thừa chỉ Đông các Đại học sĩ
Thân Nhân Trung (1419-1499) soạn năm 1484 này là một trong những dấu
ấn lịch sử quan trọng thể hiện sự khẳng định của triều đình Lê sơ đối với
thể chế khoa cử.
Được quan niệm đã khởi phát trong lịch sử Việt Nam từ nhiều thế
kỉ trước, khoa cử Việt Nam đến thế kỉ 15 đã có một diện mạo thịnh vượng
và tiếp tục được duy trì qua các thăng trầm lịch sử sau đó cho đến khi nó


1

Thân Nhân Trung 申仁忠, Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Nhâm Tuất niên hiệu
Đại Bảo 3 [tức 1442], (soạn năm 1484). Tham khảo: Trịnh Khắc Mạnh giới thiệu,
biên dịch, và chú thích, Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam, (Hà Nội: Nhà xuất bản
Giáo dục, tái bản lần 1, 2008).

1


Unpublished Draft
Hieu Phung

quan phương chấm dứt vào năm 1918.2 Mặc dù tồn tại dài lâu và có ảnh
hưởng phong phú trong lịch sử hàng thế kỉ trước đây ở Việt Nam, thể chế
khoa cử trong sự hiểu biết của hôm nay tuy nhiên vẫn còn khá khiêm tốn
so với những gì đáng ra nó cần được nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá.
Sau khi khoa cử chấm dứt, “Lược khảo về khoa cử Việt Nam từ
khởi thủy đến khoa Mậu Ngọ (1918)” của Trần Văn Giáp có thể xem như
chuyên luận trước hơn cả của học giới hiện đại đối với thể chế khoa cử.
Trình bày một cách hàm súc những vấn đề cốt lõi nhất của “sử sự và hình
thức khoa cử, trường thi cùng sự dưỡng dục nhân tài” giới hạn trong
“phạm vi trường thi Nam”, Trần Văn Giáp trong nghiên cứu này của ông
đã sớm đưa ra những chỉ dẫn cần làm tiếp tới đối với lĩnh vực nghiên cứu
khoa cử. Một mặt, ông chỉ dẫn những tài liệu Hán Nôm cơ bản nhất can hệ
về khoa cử ở Việt Nam, như các ghi chép về khoa cử trong Kiến văn tiểu
lục của Lê Quí Đôn, mục “Khoa mục chí” trong Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú, phần bàn về khoa cử trong Thoái thực kí văn
của Trương Quốc Dụng, sự khảo lược khoa cử Tàu trong Bắc triều lịch đại
điển yếu thông luận của Vũ Phạm Khải, các bài tổng luận về lịch sử khoa

cử trong các bộ đăng khoa lục cho đến những bộ sách muộn hơn như Cổ
kim khoa thí thông khảo (Nguyễn Chuyết Phu), Hoàng Việt khoa cử kính
(Nguyễn Văn Đào). Mặt khác, ông chỉ ra rằng, muốn “có thể kết luận một
cách đích xác thiết thực” về khoa cử thì còn phải tiếp tục “bàn tiếp đến tinh
thần cùng công hiệu của khoa cử”, nghĩa là “cần phải đem những văn
chương từng thời đại còn lại ra giải thích, kể rõ bài nào hay, bài nào dở,
phán đoán phân minh xem hiệu quả sự học thế nào”.3
Sau Trần Văn Giáp, đã có những nghiên cứu tiếp theo mở rộng
thêm các mô tả lịch sử khoa cử Việt Nam.4 Các nhà nghiên cứu cũng đã
dành thời gian và nhiều công sức cho việc chuyển dịch sang tiếng Việt hiện
đại cũng như tiến hành khảo cứu ở những cấp độ khác nhau đối với tư liệu
đăng khoa lục (登科錄), tức những tư liệu Hán Nôm ghi chép danh sách và
2

Xin xem: Nguyễn Văn Đào 阮文桃, Hoàng Việt khoa cử kính 皇越科舉鏡, (1919),
VHv.1277, 42b-46a. Cũng xem: Trần Văn Giáp, “Lược khảo về khoa cử Việt Nam:
Từ khởi thủy đến khoa Mậu Ngọ (1918)”, in lại trong: Viện Sử Học biên tập, Nhà sử
học Trần Văn Giáp (Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1993), tr.191-192.
3
Trần Văn Giáp, Bđd, tr.175-239.
4
Một vài ví dụ như, Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam (TP Hồ Chí
Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1993); Nguyễn Thế Long, Nho học
ở Việt Nam- Giáo dục và Thi cử (Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, 1995); Nguyễn
Tiến Cường, Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong kiến (Hà
Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, 1998).

2



Unpublished Draft
Hieu Phung

các thông tin tiểu sử của những người đỗ đạt qua các kì thi thuộc hệ thống
khoa cử Việt Nam trước đây.5
Ngoài ra, bước đầu đã có những đề tài đi vào khảo cứu trực tiếp các
văn sách thi Đình thời Lê và thời Nguyễn.6 Năm 1993, Hoàng Xuân Hãn
trong một lá thư gửi tác giả cuốn Khoa cử và giáo dục Việt Nam (mà tác
giả cuốn sách sau đó dùng lá thư này làm lời tựa tập sách của mình) đã
nhấn mạnh việc cần thiết của sự nghiên cứu hệ thống văn bài trong các
khoa thi như một trong những nội dung không thể bỏ qua khi xem xét tổng
thể thể chế khoa cử.7 Có thể thấy, cho một sự hiểu biết toàn diện hơn về
phức hợp khoa cử, nội dung nghiên cứu về các bài thi trong các kì thi trước
đây không những quan trọng mà vẫn còn nhiều hướng mở lí thú để tìm
hiểu.
Vua Tự Đức (ở ngôi 1847-1883) triều Nguyễn từng viết trong chế
sách ra đầu bài hỏi thi các sĩ tử kì thi Đình năm 1865:
“Các sĩ tử chăm chỉ giảng học, sẽ phải ra kinh bang tế thế, há chỉ
dựa vào đó để cầu khoa danh? Mỗi người hãy hết lòng, suy nghĩ
sâu xa, để gợi ý nói với trẫm, đừng phù phiếm, chớ che dấu, cho
xứng đáng với ý trẫm. Nếu còn có kế sách hay gì để có thể được
nhiều hiền tài, làm cho láng giềng mạnh phải tin phục, tiễu bình
giặc phía bắc, làm cho vận chuyển đường biển được yên ổn thì
cũng cho phép trình bày đầy đủ, ngõ hầu giúp cho thực dụng.”8

5

Các tài liệu đăng khoa lục đã được chuyển dịch sang tiếng Việt hiện đại như: Cao
Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, Nguyễn Thị Lâm, Nguyễn Thúy Nga, Cao Tự
Thanh phiên dịch (TP Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1992); Ngô Đức

Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi (biên soạn), Các nhà khoa bảng Việt Nam
1075-1919 (Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học tái bản, 2005). Chuyên luận nghiên cứu
tài liệu đăng khoa lục nổi bật phải kể đến: Nguyễn Thúy Nga, Nghiên cứu văn bản
học Đăng khoa lục Việt Nam (Hà Nội: Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, 1999).
6
Chẳng hạn, các luận án, luận văn như: Nguyễn Văn Thịnh, Bước đầu tìm hiểu văn
chương khoa cử thời Lê sơ (Luận án Phó Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996);
Đinh Thanh Hiếu, Bước đầu tìm hiểu văn sách đình đối thời Nguyễn, (Luận văn Thạc
sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003).
7
Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, tr.10.
8
Phần chữ Hán và phiên âm trích dẫn chế sách này, xin tham khảo phần bài sách văn
thi Đình của Nguyễn Tuyên đỗ khoa Ất Sửu năm Tự Đức 18 [1865] được tuyển dịch
trong tập sách này.

3


Unpublished Draft
Hieu Phung

Đây là một ý niệm đã sống qua nhiều thế kỉ của lịch sử khoa cử, rằng mỗi
kì Đình đối sách văn là mỗi lần hoàng đế đích thân đặt lời hỏi cho sĩ tử,
người là sĩ tử phải “hết lòng suy nghĩ sâu xa” những điều được hỏi, nhằm
“gợi ý nói với” nhà vua những kế sách có thể “giúp cho thực dụng”. Dù có
thể từ một niềm tin đến một hiện thực vẫn cách khoảng đường nhiều ít,
mỗi người học trò chắp bút viết bài văn sách Đình đối không thể không
từng nuôi dưỡng chung một tâm thức này.
THI ĐÌNH VÀ VĂN SÁCH THI ĐÌNH TRONG THỂ CHẾ KHOA

CỬ
Mùa xuân năm 1442, hơn 450 sĩ tử từ các vùng miền khác nhau
trẩy hội về kinh ứng thí. Qua bốn trường thi (cũng giống như gọi “các vòng
thi” ngày nay) ngặt ngoèo, cuối cùng 33 người được lấy đỗ. Họ tiếp đó
được vời vào sân điện Hội Anh để làm bài văn sách Đình đối kính đáp
những lời hỏi của nhà vua về việc kinh bang trị quốc. 9 Trong 33 người
được dâng văn sách Đình đối ở khoa thi năm ấy, bài văn của Nguyễn Trực
(1417-1474) là đỗ đầu, ông được ban danh vị Trạng nguyên. Nguyễn Trực
viết trong bài văn sách của mình:
“Hoàng thượng kế thừa nghiệp lớn, chế trị bảo bang, sớm tối cầu
hiền để giúp nên nghiệp lớn, mà lại đặt khoa thi cầu kẻ sĩ, đưa chúng
thần vào điện đình, ban Chế sách đem những điều cốt yếu của việc
làm chính trị và quân tử, tiểu nhân để hỏi.
(…) Thần thực không đủ để học rộng việc xưa, tài không đủ để
thông hiểu việc này, nhưng bình thường có một lòng ngu mà vẫn
9

Đại Việt sử kí toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều nói kì thi
Hội vào tháng Ba năm Đại Bảo 3 [1442]. Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi này thì nói
thi Hội và thi Đình đều vào tháng Hai, mùng 3 tháng Ba là lễ xướng danh treo bảng.
Xin xem: Lê Văn Hưu 黎文休, Phan Phu Tiên 潘孚先, Ngô Sĩ Liên 吳士連… (soạn),
Đại Việt sử kí toàn thư 大越史記全書, (1697), A3/3, Bản kỉ, 11/55a (Từ đây trở
xuống: ĐVSK) - Tham khảo bản dịch tiếng Việt của Viện Sử học Việt Nam được
dịch và in nhiều lần từ năm 1967-1992 (Hà Nội); Quốc sử quán triều Nguyễn (biên
soạn), Khâm định Việt sử thông giám cương mục 欽定越史通鑑綱目, (1856-1881),
A.1/5, Chính biên, 17/21a (Từ đây trở xuống: VSCM) - Tham khảo bản dịch tiếng
Việt của Viện Sử học Việt Nam (Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục tái bản, 1998); Thác
bản văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3, No01358 (dẫn theo:
Trịnh Khắc Mạnh giới thiệu, biên dịch, và chú thích, Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt
Nam).


4


Unpublished Draft
Hieu Phung

luôn muốn nhàm tấu thánh minh, huống chi nay là lúc được nói,
dám chẳng dốc hết những điều được nghe để hiến dâng sao?”
Người ta gọi đây là những kì thi Đình, và việc được “vào điện đình”, nhận
“chế sách” vua ban để được “dốc hết những điều được nghe để hiến dâng”
kế sách với nhà vua, với triều đình là một vinh dự tột bậc, một cơ hội trọng
đại trong sự nghiệp học hành cử nghiệp của mỗi người sĩ trí thức xưa.
Trong lịch sử Việt Nam, đã có rất nhiều kì thi Đình được diễn ra;
nhiều bài văn sách xuất sắc từng được viết nên qua những kì thi ấy. Định vị
văn sách Đình đối với tư cách một thành tố hợp nên phức thể khoa cử,
chúng ta có thể hiểu một cách giản dị trước hết, văn sách Đình đối là một
nội dung thi tại kì thi Đình, một kì thi cấp cao trong hệ thống thi cử thuộc
thể chế khoa cử. Ở đây, chúng ta cần xem xét về kì thi Đình trong cấu trúc
thể chế khoa cử; tiếp đó tìm hiểu vấn đề “sách” từ tư cách một thể loại của
văn viết sau đó dần trở thành nội dung căn bản của kì thi Đình.
Thể chế khoa cử ra đời trên mảnh đất Trung Hoa và nó đã thành
một lịch sử phức tạp và dài lâu xuyên suốt các triều đại do những tác động
ảnh hưởng quan trọng của nó trong xã hội. Thể chế này cũng đóng vai trò
quan trọng tương tự trong lịch sử các triều đại Việt Nam trước đây.
Khẳng định tầm quan trọng của thể chế khoa cử trong lịch sử, nhà
nghiên cứu khoa cử hàng đầu Trung Quốc đương đại Lưu Hải Phong (Liu
Haifeng) nhận xét:
“Khoa cử là một văn minh thể chế xuyên không gian thời gian. Nó
là chế độ tuyển chọn người tài căn bản xuyên suốt các triều đại từ

Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh đến Thanh, là sự trải nghiệm
chung trong đời sống trăm vạn người trí thức Trung Quốc xưa, là
nguyên tố cùng chia sẻ trong lịch sử văn hóa của rất nhiều nước
thuộc khu vực Đông Á. Lấy khoa cử làm một từ khóa, người ta có
thể xâu chuỗi lại với nhau rất rất nhiều nhân tố trong lịch sử như
nhân vật, nền văn hiến, các vùng miền, những tập tục…”10
Đối với các học giả phương Tây, khoa cử càng không thể không là một
trong những từ khóa then chốt nhất khi nhận diện lịch sử và văn minh
Trung Hoa. Chẳng hạn, từ những năm cuối thập kỉ 50 của thế kỉ XX, học
giả người Mỹ E. A. Kracke đã nói:
10

Liu Haifeng 劉海峰, “Lời nói đầu”, Khoa cử học luận tùng 科舉學論叢 1
(Shanghai: Shanghai Zhongguo Keju Bowuguan, Shanghai Jiading Bowuguan, 2007).

5


Unpublished Draft
Hieu Phung

“Một trong những đóng góp đáng kể nhất đối với thế giới của
Trung Quốc là sự sáng tạo nên thể chế quan liêu [đặc thù] của nó và
sáng tạo nên khoa cử, thứ được thực hành từ năm 622 đến 1905 với
tư cách nòng cốt của thể chế nói trên.”11
Vậy khoa cử là gì và nó được đánh giá với tầm quan trọng như thế
nào? Khoa cử, về mặt lí thuyết, đó là một chế độ tuyển quan hay tuyển
dụng người tài giỏi để tham gia vào bộ máy quan liêu của triều đình. Đây
có thực sự là chức năng căn cốt mà vì nó khoa cử đã được duy trì suốt
1300 năm trong lịch sử Trung Hoa và hơn 800 năm trong lịch sử Việt Nam

hay không, hay khoa cử đã được duy trì với những công năng khác trong
quá khứ, đó là những câu hỏi đã được rất nhiều chuyên gia khoa cử bàn
luận và để đề cập tới thì trước mắt chưa thể giải quyết trong khuôn khổ của
chuyên luận này. Tuy nhiên, một thực tế không cần tranh luận là đi cùng sự
tồn tại của khoa cử, đó là sự nuôi dưỡng những tín niệm như “quốc gia dĩ
khoa mục thủ sĩ, sĩ dĩ khoa mục tiến thân” (nhà nước dùng khoa mục để
chọn kẻ sĩ, kẻ sĩ dùng khoa mục mà tiến thân)12 hay “khoa mục sĩ tử thản
đồ” (khoa mục là con đường bằng thẳng [để thành tựu trong sự nghiệp] của
kẻ sĩ)13. Những tín niệm như thế sở dĩ đã được lưu chuyển từ đời này qua
đời khác cùng dòng chảy lịch sử khoa cử vì người ta đã tin rằng hoặc ít
nhất muốn hiện thực hóa một niềm tin rằng khoa cử là thiết chế công bằng,
bất luận người nào từ thường dân đến con em quí tộc đều được báo danh
công khai để vào dự thi, hễ người có tài năng thì sẽ được đỗ, đỗ sẽ được
làm quan, được triều đình trọng dùng tín thác những việc lớn; hay nói cách
khác, bất luận người nào trong xã hội chỉ cần ra thi và thi đỗ thì ắt sẽ bước
lên hàng ngũ quan lại, đạt được một vị trí trọng vọng trong xã hội đương
thời.
Về mặt thể chế, khoa cử đánh dấu một bước phát triển đột khởi của
nó dưới triều đại nhà Tống (960-1279). Những nghiên cứu từ nhiều giác độ
đối với thể chế khoa cử đã chỉ ra, mặc dù được xác lập từ những năm thuộc
niên đại nhà Tùy (581-618), tiếp tục duy trì trong thời đại nhà Đường (61811

Edward A. Kracke, Jr., “Family vs. Merit in Chinese Civil Service Examinations
Under the Empire” [Gia đình và Tài năng trong Khoa cử Trung Quốc dưới các triều
vua], Harvard Journal of Asiatic Studies 10 (1947): 103.
12
Ma Duanlin (Mã Đoan Lâm) 馬端臨, Văn hiến thông khảo 文獻通考, quyển 33,
mục “Tuyển cử khảo”.
13
Quốc sử quán triều Nguyễn (biên soạn), Đại Nam thực lục 大南寔錄, (1821-1847),

A.27/6, Chính biên, Đệ nhất kỉ, 18/29a-b. (Từ đây trở xuống: ĐNTL.)- tham khảo bản
dịch tiếng Việt của Viện Sử học Việt Nam (Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục tái bản
lần 1, 2001-2007).

6


Unpublished Draft
Hieu Phung

907), khoa cử phải đợi đến sau khi Triệu Khuông Dận (tức Tống Thái Tổ,
ở ngôi 960-976) xác lập nên nhà Tống, nó mới thực sự làm nên những ý
nghĩa chính trị và xã hội quan trọng trong lịch sử.14 Chẳng hạn về thể thức
ba năm một lần khảo thí, trích dẫn của Lưu Hồng (Liu Hong) từ Tống sử
chỉ cho chúng ta thấy thể thức này chính thức được điển chế hóa năm 1066
thời vua Tống Anh Tông (ở ngôi 1063-1067).
“Vua Anh Tông (nhà Tống) lên ngôi, có người nghị bàn dùng phép
cống sĩ cách năm một lần không tiện, bèn xuống chiếu cho bộ Lễ
cứ ba năm một lần “cống cử” [tức tổ chức khảo thí theo lối khoa
cử].”
英宗即位,議者以間歲貢士法不便,乃詔禮部三歲一貢舉。
(Anh Tông tức vị, nghị giả dĩ gián tuế cống sĩ pháp bất tiện, nãi
chiếu Lễ bộ tam tuế nhất cống cử.)15
Mô hình phép thi tam cấp Hương, Hội, Đình được triển khai đồng
bộ cũng dưới những năm thuộc niên đại nhà Tống. Theo thuật ngữ khoa cử
đời Tống, ba cấp thi tương đương trong một kì khảo thí lần lượt được gọi
là Châu thí (hay “Giải thí”, “Phát giải”), Sảnh thí và Điện thí. Kì Châu thí
được tổ chức vào mùa thu, người thi đỗ qua kì thi này được gọi là “cống
sĩ” hay “cử nhân”, và được đến kinh dự kì Sảnh thí. Kì Sảnh thí được tổ
chức vào mùa xuân kế tiếp và do bộ Lễ đứng ra chủ trì nên còn gọi là “Lễ

bộ thí”. Kì Điện thí còn gọi là “Đình thí” hay “Ngự thí” là kì thi cao nhất
trong mô hình tam cấp khoa cử, nó trở thành kì thi kế sau kì Sảnh thí với ý
nghĩa phúc khảo những người đã đỗ tại kì Sảnh thí bắt đầu từ năm Khai

14

Một số ít học giả chủ trương sự bắt đầu của thể chế khoa cử cần tính từ thời đại nhà
Hán (206TCN-220SCN), hoặc muộn hơn một chút là giai đoạn Nam Bắc triều (420589). Theo quan điểm này, người ta cho rằng khoa cử bao hàm trong đó mọi hình
thức mang tính chất thi lấy đỗ và vì mục đích tuyển người ra làm quan. Phổ biến hơn,
các nhà nghiên cứu cho rằng sự bắt đầu của khoa cử là vào những năm niên đại nhà
Tùy (581-618). Tuy nhiên, người ta cũng đã tranh luận với khuynh hướng quan điểm
nói trên; có học giả đã đẩy lùi thời điểm bắt đầu của thể chế khoa cử thực sự, tức dưới
thời Đường (960-1127). Xin xem: Liu Haifeng 劉海峰, Khoa cử học đạo luận 科舉
學導論 [Tổng luận khoa cử học] (Hubei: Huazhong Shifan Daxue chubanshe, 2005),
tr.65-94.
15
Tống sử 宋史, phần “Chí”, quyển 108. Chuyển dẫn: Liu Hong (Lưu Hồng) 劉虹,
Trung Quốc tuyển sĩ chế độ sử 中國選士制度史 [Lịch sử chế độ tuyển sĩ Trung
Quốc] (Hunan: Hunnan Jiaoyu chubanshe, 1992), tr.215.

7


Unpublished Draft
Hieu Phung

Bảo thứ 5 [972] đời Tống Thái Tổ.16 Bình luận về sự ra đời của kì Điện thí,
một chuyên gia nghiên cứu giáo dục và khoa cử đời Tống là Thomas H. C.
Lee nói: “Kì thi sau cùng, kì thi Điện, là một phát kiến của nhà Tống.”17
Với sự thể chế hóa khoa cử trong giai đoạn Bắc Tống như vừa nói,

địa vị của kì thi Tiến sĩ và danh vị Tiến sĩ được nâng lên một tầm quan
trọng mới. Theo các chuyên gia nghiên cứu khoa cử, Minh kinh và Tiến sĩ
là hai kì thi quan trọng nhất dưới triều nhà Đường,18 có lẽ do thường được
tổ chức thường niên nên được xếp vào loại “thường khoa” (kì thi tổ chức
theo thời gian cố định có tính quay vòng); phân biệt với hình thức “chế
khoa” (kì thi bất thường, được tổ chức khi có chiếu chỉ đặc biệt của nhà
vua). Trong giai đoạn này, sĩ tử thi đỗ sau kì Sảnh thí hay Lễ bộ thí được
nhận danh vị Tiến sĩ; việc đánh giá đỗ trượt cơ bản do bộ Lễ thực thi, nhà
vua không trực tiếp can dự vào. Thêm vào đó, như học giới thống nhất
nhận định, sản phẩm đầu ra của các kì thi Tiến sĩ đời Đường, tuy nhiên,
vẫn không phải là nguồn lực chính để “thay máu” bộ máy quan liêu của
triều đình.19 Bước sang đời Tống, “phát kiến” về kì Điện thí và việc danh
vị Tiến sĩ được ban chỉ sau khi người ứng thí trải qua sự đích thân hỏi thi
của nhà vua đã tạo nên một bước chuyển mới trong lịch sử khoa cử. Những
điều tra xã hội học đối với khoa cử đời Tống đồng thời chỉ ra số lượng tăng
đáng kể các tiến sĩ dưới triều Tống, chứng tỏ kì thi Tiến sĩ cũng dần chiếm
vị trí tôn quí nhất trong tầm nhìn của triều đình và xã hội đương thời.20
Những thảo luận trên về một vài phương diện mang tính thể chế
của hệ thống khoa cử cho thấy, trong phạm vi hẹp của khái niệm này, khoa
cử chủ yếu để đặc chỉ khoa cử của các kì thi Tiến sĩ. Đồng thời, trong hệ
thống cấp bậc của thể chế, kì Điện thí hay thi Đình là kì thi cao nhất, là
16

Mặc dù có người có thể giữ quan điểm cho rằng kì Điện thí đầu tiên đã được xuất
hiện dưới thời Võ Tắc Thiên, nhưng kì thi Điện thí với tư cách kì thi kề sau kì Sảnh
thí trong mô hình khoa cử tam cấp thì chỉ đến đời Tống mới thực sự được thi hành.
Xin xem: Liu Hong, Trung Quốc tuyển sĩ chế độ sử, tr.215-224; Thomas H.C. Lee,
Government Education and Examinations in Sung China [Giáo dục và Khoa cử đời
Tống] (Hong Kong: Chinese University Press, 1985), tr.142-146; He Zhongli (Hà
Trung Lễ) 何忠禮, Khoa cử dữ Tống đại xã hội 科舉與宋代社會 [Khoa cử và xã hội

đời Tống], (Beijing: Shangwuyin shuguan, 2006), tr.46-48.
17
Lee, Sđd, tr.146.
18
Liu Hong, Trung Quốc tuyển sĩ chế độ sử, tr.132-133; Lee, Sđd, tr.140.
19
Lee, Sđd, tr.139-142; Benjamin A. Elman, A Cultural History of Civil
Examinations in Late Imperial China [Lịch sử văn hóa Khoa cử hậu kì Đế chế Trung
Hoa] (Berkeley: University of California Press, 2000), tr.7-8.
20
Kracke, Bđd, tr.103-123.

8


Unpublished Draft
Hieu Phung

“rào cản sau cùng của người ứng thí để đạt được danh vị cao quí tiến sĩ
(tức “văn sĩ được tiến lên để hoàng đế chọn dùng”) – một danh vị cần có
để một người được bổ nhiệm những vị trí chính trị cấp cao”.21
*
Rõ ràng, kì thi Đình có vị trí quan trọng trên con đường cử nghiệp
của một vị tiến sĩ tương lai. Trong những giai đoạn phát triển đã dày dặn
của thể chế khoa cử, người vào dự kì thi Đình luôn được khảo thí bằng nội
dung văn sách. Bàn về thể tài văn sách, Từ Sư Tăng (1517-1580) trong
Văn thể minh biện tự thuyết luận rằng có ba loại “sách” khác nhau:
“Loại thứ nhất là “chế sách”, thiên tử ban lời Chế để hỏi mà người
dưới đối lại; loại thứ hai là “thí sách”, quan viên có chức trách dùng
sách để hỏi thi học trò mà người đi thi đối lại; loại thứ ba là “tiến

sách”, tức viết “sách” rồi dâng lên.”
一曰制策,天子稱制以問而對者是也;二曰試策,有司以策試
士而對者是也;三曰進策,著策而上進者是也。
(Nhất viết chế sách, thiên tử xưng chế dĩ vấn nhi đối giả thị dã; nhị
viết thí sách, hữu ti dĩ sách thí sĩ nhi đối giả thị dã; tam viết tiến
sách, trứ sách nhi thượng tiến giả thị dã.)22
Đối chiếu với ba loại “sách” này, văn sách trong khoa cử tức là “thí sách”.
Vậy đến thời điểm nào trong lịch sử khoa cử, “sách” từ một thể văn viết trở
thành một văn thể đặc thù trong khoa cử, và nhất là nó đã trở thành nội
dung thi độc tôn trong kì thi Đình như thế nào?
Nhiều nhà nghiên cứu dẫn thiên “Nghị đối” sách Văn tâm điêu long
của Lưu Hiệp (465-521) để minh giải về đặc trưng và duyên khởi của
“sách”. Trong thiên sách này, Lưu Hiệp giải thích “sách” là một “thể
riêng” (biệt thể) của “nghị”. “Nghị” có hai đặc trưng chính: “Nghị” là
những lời bàn thích đáng được phát ra sau khi đã suy xét sự việc kĩ càng;
và đã là “nghị” phải trọng ở sự có tính nghi tắc điển chế.
“[Như Kinh Thi có câu] “Thế là thành tâm triệu vời người hiền tài
đến bàn tính sự việc”, đó gọi là “nghị”. [Nói như thế để chỉ] “nghị”
21

Elman, A Cultural History of Civil Examinations in Late Imperial China [Lịch sử
văn hóa Khoa cử hậu kì Đế chế Trung Hoa], tr.8.
22
Xu Shizeng (Từ Sư Tăng) 徐師曾, Văn thể minh biện tự thuyết 文體明辨序說, Luo
Genze (La Căn Trạch) 羅根澤 hiệu điểm (Beijing: Renmin Wenxue chubenshe,
1998), tr.130.

9



Unpublished Draft
Hieu Phung

có nghĩa là lời nói ra được phù hợp, đó cũng là do suy xét sự việc
phù hợp [mà có lời nói ra phù hợp vậy]. Quẻ “Tiết” của Dịch nói:
“Người quân tử nghị luận về phẩm cách đạo đức [của một người]
giống như phép tính mực nước, đều có qui tắc nhất định.” Sách Chu
Thư nói: “Nghị bàn quốc sự phải có phép tắc, như thế chính sự mới
không khỏi lạc lối.” “Nghị” mà trọng ở sự có pháp độ chế ước, ấy
là thể thức mang tính kinh điển.”
「周爰咨謀」,是謂為議。議之言宜,審事宜也。《易》之
《節卦》︰「君子以制度數,議德行。」《周書》曰︰「議事
以制,政乃弗迷。」議貴節制,經典之體也。
(“Chu viện tư mưu”, thị vị vi nghị. Nghị chi ngôn nghi, thẩm sự
nghi dã. Dịch chi “Tiết quái”: “Quân tử dĩ chế độ sổ, nghị đức
hạnh.” Chu Thư viết: “Nghị sự dĩ chế, chính nãi phất mê.” Nghị
quí tiết chế, kinh điển chi thể dã.)23
Là một thể riêng của “nghị”, “sách” theo biện luận của Lưu Hiệp có sự
phân biệt giữa hai loại: “đối sách” và “xạ sách”.
“Về đối sách, tức là tiếp chiếu mà trình bày kiến giải của mình về
chính sự lên thiên tử; xạ sách, tức là suy xét sự lí mà tâu bày với
thiên tử luận thuyết của bản thân. Lời dâng lên trúng đúng, sự lí xét
suy chuẩn xác, như tên bắn trúng hồng tâm vậy. Tên gọi của hai thể
này (tức đối sách và xạ sách) tuy khác nhau nhưng cùng là thể riêng
của “nghị”. Từ xưa kẻ sĩ theo nghiệp học, nếu có tài năng hầu được
tuyển dùng đều phải qua xét khảo sự họ nghị bàn nói năng như thế
nào.”
又對策者,應詔而陳政也;射策者,探事而獻說也。言中理准,
譬射侯中的。二名雖殊,即議之別體也。古者造士,選事考言。
(Hựu đối sách giả, ứng chiếu nhi trần chính dã; xạ sách giả, thám

sự nhi hiến thuyết dã. Ngôn trúng lí chuẩn, thí xạ hầu trúng đích.
Nhị danh tuy thù, tức nghị chi biệt thể dã. Cổ giả tạo sĩ, tuyển sự
khảo ngôn.)24

23

Liu Xie (Lưu Hiệp) 刘勰, Văn tâm điêu long 文心雕龍, tham khảo bản dịch bạch
thoại của: Long Bigun (Long Tất Côn) 龍必錕 dịch chú, Văn tâm điêu long toàn dịch
文心雕龍全譯 (Hubei: Quizhou Renmin chubenshe, 1992), tr.292.
24
Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, tham khảo: Long Bigun dịch chú, Văn tâm điêu long
toàn dịch, tr.300.

10


Unpublished Draft
Hieu Phung

Như thế, “sách” là một hình thức khảo thí kẻ sĩ ở phương diện “nghị bàn
nói năng” trước khi người làm thiên tử quyết đoán dùng hay không dùng
một người vào chính sự. Những ví dụ mang tính mẫu mực về “đối sách”
theo bình xét ở Văn tâm điêu long, đó là các đối sách đời Hán như đối sách
của Triều Thố (晁錯, 200?-154TCN), Đổng Trọng Thư (董仲舒, 179104TCN), Công Tôn Hoằng (公孫弘, 200-121TCN), Đỗ Khâm (杜欽,
người thời Hán Thành Đế), Tào Phi (曹丕, người thời Đông Hán). Từ
những luận bàn của Lưu Hiệp khoảng cuối thế kỉ 5 SCN, “sách” tuy nhiên
còn đợi một thời gian khá lâu nữa để trở thành nội dung khảo thí cơ bản
độc tôn ở kì thi Đình, kì cuối cùng trong các cấp khảo thí khoa cử.
Sử liệu ghi chép lại cho biết những kì thi Tiến sĩ của nhà Tùy và
nhà Đường đều có dùng “sách” làm nội dung khảo thí. Chẳng hạn, Cựu

Đường thư – quyển 119 ghi về thí sách thời Tùy: “Gần đây [Tùy] Dạng Đế
bắt đầu đặt khoa Tiến sĩ, đương thời cũng dùng “sách” khảo thí sĩ tử mà
thôi.” (Cận Dạng đế thủy trí Tiến sĩ chi khoa, đương thời do thí sách nhi
dĩ. - 近煬帝始置進士之科,當時猶試策而已。)25 Thời nhà Đường, ban
đầu thi Tiến sĩ cũng chỉ áp dụng thí sách.26 Tuy nhiên, thi Tiến sĩ trong thời
gian này còn chưa phát triển hệ thống tam cấp Châu thí, Sảnh thí, và Điện
thí (chế độ đó chỉ được thực thi từ triều Tống về sau, như đã trình bày ở
phần trước). Đến khoảng cuối thế kỉ 7, việc khảo thí dùng “sách” trong
khoa cử có sự thay đổi khác trước. Phân tích về sự thay đổi này trên cơ sở
đối chiếu nhiều nguồn sử liệu khác nhau, học giả Phó Tuyền Tông (Fu
Xuanzong) từ năm 1984 đã chỉ ra một cách thỏa đáng rằng:
“Tình hình khoa Tiến sĩ chỉ thi văn sách đến cuối đời Cao Tông,
tức khi Võ Tắc Thiên thực tế đã nắm quyền chính, đã có biến đổi;
đó là việc khoa Tiến sĩ chỉ thi một trường văn sách nay đổi thành
thi tam trường thiếp kinh, tạp văn, và sách văn. Phương thức thi
tam trường này sau đó trở thành định chế của khoa Tiến sĩ đời
Đường.”27
Bên cạnh đó, người ta có thể đọc ra từ các tài liệu sử nói rằng năm
690 là mốc bắt đầu của kì Điện thí – năm ấy, Võ Tắc Thiên khảo thí sĩ tử ở
25

Cựu Đường thư 舊唐書, quyển 119. Dẫn theo: Yang Xuewei (Dương Học Vi) 楊學
爲 (chủ biên), Trung Quốc khảo thí chế độ sử tư liệu tuyển biên 中國考試制度史資
料選編, (Anhui: Huangshan shushe, 1992), tr.63.
26

Fu Xuanzong (Phó Tuyền Tông) 傅璇琮, Đường đại khoa cử dữ văn học 唐代科舉
與文學, (Shanxi: Shanxi Renmin chubenshe, 1986), tr.165-166.
27
Dẫn theo: Fu Xuanzong, Sđd, tr.168.


11


Unpublished Draft
Hieu Phung

điện Lạc Thành – nhưng như các chuyên gia khoa cử đời Tống đã phân
tích, kì Điện thí với tư cách kì thi liền kề sau kì Sảnh thí trong hệ thống
tam cấp của khoa Tiến sĩ thì chỉ thực sự bắt đầu dưới thời Bắc Tống.
Chẳng hạn, trong nhiều cứ liệu lịch sử đưa ra, Hà Trung Lễ (He Zhongli)
dẫn ghi chép của Mã Đoan Lâm viết về sự kiện gọi là “kì Điện thí” vào
năm 690 như sau: “[Sự việc] Võ hậu khảo thí cống sĩ các lộ, đại khái giống
như kì Sảnh thí về sau, không phải là kì Điện thí kề sau kì Sảnh thí.” (Vũ
hậu sở thí chư lộ cống sĩ, cái như hậu thế chi Sảnh thí, phi Sảnh thí chi
ngoại tái hữu Điện thí dã. – 武后所試諸路貢士,蓋為後世之省試,非
省試之外再有殿試也。)28 Do đó, cho dù văn sách đã được sử dụng phổ
biến trong các khoa Tiến sĩ đời Đường, và cho dù có trong sử có ghi kì
Điện thí khởi thủy từ năm 690 thời Võ Tắc Thiên, thì cái gọi là “văn sách
thi Đình” vẫn không là sản phẩm của khoa cử đời Đường.
Như đã nói, kì Điện thí với tư cách một sự khảo thí những người đã
trúng cách ở kì Sảnh thí trong hệ thống tam cấp khoa cử Tiến sĩ đã bắt đầu
được thực hành năm 972. Bấy giờ, nội dung thi ở kì Điện thí, tuy nhiên, lại
không phải là văn sách, mà là một đề Thơ và một đề Phú.29 Nội dung thi
trong kì Điện thí sau đó có những diên cách không nhất định. Cho đến
những năm 1070, trong nhiều hạng mục của công cuộc cải cách Tân pháp,
Vương An Thạch (1021-1086) đã áp dụng những định chế mới cho khoa
cử. Theo đó, nội dung thi Thơ và Phú trong kì thi Đình khoa Tiến sĩ bị bãi
bỏ, thay vào đó chỉ thực hiện duy nhất nội dung thi văn sách; đồng thời các
khoa thi như Minh kinh cũng chấm dứt. Những sự kiện này trên thực tế đã

khiến khoa Tiến sĩ trở thành nội dung căn bản và trọng yếu nhất trong thể
chế khoa cử từ đó về sau; và cũng dẫn đến sự xác lập mô hình mang tính
điển phạm, tức văn sách là nội dung duy nhất cho kì thi Đình khoa Tiến sĩ.
30

KHOA TIẾN SĨ VÀ KÌ THI ĐÌNH TRONG KHOA CỬ VIỆT NAM

28

He Zhongli, Khoa cử dữ Tống đại xã hội, tr.46.
He Zhongli, Sđd, tr.53.
30
Elman, A Cultural History of Civil Examinations in Late Imperial China [Lịch sử
văn hóa Khoa cử hậu kì Đế chế Trung Hoa], 6-19; He Zhongli, Sđd, tr.53.
29

12


Unpublished Draft
Hieu Phung

Về mặt lịch sử, khoa cử ở Việt Nam thường được nói là đã bắt đầu
từ năm 1075 dưới triều Lý (1010-1225); sau hơn 800 năm tồn tại, thể chế
này kết thúc vào năm 1918 trong thời nhà Nguyễn (1802-1945). Ngày nay,
người ta có thể tìm thấy trong nhiều thư tịch chữ Hán những ghi chép
tương tự cho rằng khoa mục ở Việt Nam bắt đầu mở ra từ việc thi Minh
kinh Bác học năm Ất Mão niên hiệu Thái Ninh 4 [1075] đời vua Lý Nhân
Tông (ở ngôi 1072-1127).
Một cách vắn tắt, bộ sử được biên soạn từ thế kỉ 15 là Đại Việt sử

kí toàn thư chép về sự kiện này như sau: “Mùa xuân tháng hai, [nhà vua]
xuống chiếu tuyển Minh kinh Bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn
Thịnh trúng tuyển, được cho vào hầu vua học.” (Xuân nhị nguyệt, chiếu
tuyển Minh kinh Bác học cập thí Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng
tuyển, tiến thị đế học. 春二月詔選明經博學及試儒學三場。黎文盛中選,
進侍帝學。)31 Không nhiều hơn thông tin được cung cấp từ Đại Việt sử kí
toàn thư để chúng ta có thể biết được chi tiết về phép thi, trình thức hay thể
lệ đợt khảo thí này.
Sự kiện năm 1075 sau đó được ghi chép ở hầu hết các tự sự lịch sử
liên quan đến khoa cử. Lê Quí Đôn trong Kiến văn tiểu lục (biên soạn cuối
thế kỉ 18) nói: “Năm Ất Mão niên hiệu Thái Ninh 4 đời Lý Nhân Tông, có
tuyển Minh kinh Bác học, người huyện Gia Định là Lê Văn Thịnh đỗ đầu,
được vào cung hầu vua học tập. Đấy là mở đầu của khoa mục ở nước ta.”
(Lý Nhân Tông Thái Ninh tứ niên Ất Mão tuyển Minh kinh Bác học; Gia
Định nhân Lê Văn Thịnh trúng thủ tuyển, nhập thị học. Thử bản quốc khoa
mục chi thủy. 李仁宗太寧四年乙卯選明經博學,嘉定人黎文盛中首選,
入侍學。此本國科目之始。)32
Khâm định Việt sử thông giám cương mục (biên soạn nửa cuối thế
kỉ 19) ở phần ghi tại mốc thời gian này, chép: “Tuyển người Minh kinh
Bác học, dùng [hình thức] thi tam trường để hỏi thi những người ấy, chọn
được Lê Văn Thịnh đỗ đầu [để] vào hầu [vua] học. Khoa mục nước ta bắt
đầu từ đây.” (Tuyển Minh kinh Bác học giả, dĩ tam trường thí chi, trạc Lê
Văn Thịnh thủ tuyển nhập thị học. Bản quốc khoa mục tự thử thủy. 選明經
博學者,以三場試之,擢黎文盛首選入侍學。本國科目自此始。)
Thêm vào đó, các soạn giả sách Cương mục chú thích rõ, vấn đề thể thức
31

ĐVSK, A3/2, Bản kỉ, 3/8a.
Lê Quí Đôn 黎貴惇, Kiến văn tiểu lục 見聞小錄, (1777), A.32, 51b-52b. – Tham
khảo bản dịch tiếng Việt của Phạm Trọng Điềm in trong Lê Quí Đôn toàn tập (Hà

Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1977).
32

13


Unpublished Draft
Hieu Phung

văn bài của “tam trường” khoa thi 1075 đến đây không còn khảo cứu được
nữa.33
Sơ bộ có thể thấy, các sử gia trung đại cơ bản cho rằng khoa cử ở
Việt Nam đã được bắt đầu với một hình thức khảo thí do triều đình đứng ra
tổ chức (nhà vua xuống chiếu), nội dung thi liên quan đến kinh điển Nho
gia (phép thi Minh kinh), và người thi đỗ được dùng vào một công việc
trong bộ máy nhà nước đương thời (Lê Văn Thịnh được bổ vào hầu vua
học).34
Sau sự kiện năm 1075, các hình thức khảo thí khác nhau tiếp tục
được ghi chép trong các thư tịch sử học trung đại. Khi Lê Quí Đôn tham
bác các sử tịch và ghi riêng những sự kiện liên quan đến khoa cử thành một
mục trong phần “Thể lệ” ở sách Kiến văn tiểu lục cuối thế kỉ 18, một phiên
bản lịch sử khoa cử được xây dựng. Ở đây, lịch sử khoa cử được tính theo
từng triều đại mà chính sử coi là chính thống. Chẳng hạn, Lê Quí Đôn
không đề cập đến các khoa thi dưới triều nhà Hồ (1400-1407) hay triều nhà
Mạc (1527-1592) sau đó.35
Về các khoa thi đời Lý, đời Trần (1225-1400), từ những ghi chép
của Lê Quí Đôn, có thể thấy các hình thức thi, danh xưng các khoa thi cho
đến kì hạn số năm gián cách tổ chức một khoa thi đều chưa thật sự thành
định lệ. Mặc dù hết sức cố gắng tập hợp càng chi tiết càng tốt các sử liệu,
nhưng chính Lê Quí Đôn cũng phải đưa ra những bình luận như: Sử chỉ

chép…, còn ngoài ra đều không rõ được. Đối với hệ thống các khoa thi
được Lê Quí Đôn biên chép lại, nếu đối chiếu với những ghi chép về các
hình thức khảo thí chọn kẻ sĩ thời Lý - Trần trong Đại Việt sử kí toàn thư,
chúng ta thấy những sự kiện khoa cử ấy có chung một vài đặc điểm như: 1)
là những khoa thi khảo thí học sinh, những người học về Nho; 2) là những
khoa thi “văn”, lấy các môn như ám tả, kinh nghi kinh nghĩa, thơ phú,
sách… làm nội dung thi; 3) là những khoa thi có phân chia thứ bậc lấy đỗ,
danh xưng của những thứ bậc này sẽ còn xuất hiện trong khoa cử những
giai đoạn sau, như “tam giáp”, “tam khôi”.

33

VSCM, A.1/2, Chính biên, 3/33b-34a.
Về sự kiện 1075, duy nhất chúng tôi đọc được từ “Việt giám thông khảo tổng luận”
gọi đây là “tiến sĩ chi khoa”. Vấn đề này xin tạm ghi chú, chúng tôi sẽ có dịp thảo
luận sâu hơn trong một chuyên luận khác. Xin xem: Lê Tung 黎嵩, “Việt giám thông
khảo tổng luận” 越鑒通考總論 (in trong ĐVSK, A3/1).
35
Lê Quí Đôn, Kiến văn tiểu lục, (1777), A.32.
34

14


Unpublished Draft
Hieu Phung

Tiếp theo, về tình hình khoa cử thời Lê (1428-1788), Lê Quí Đôn
hữu ý trình bày theo trục biên niên với hai thời kì, lần lượt tương ứng với
giai đoạn Lê sơ và Lê từ trung hưng trở về sau. Theo mô tả của Lê Quí

Đôn, từ sau khi Lê Thái Tổ sáng lập vương triều năm 1428 đến những năm
Hồng Đức (niên hiệu vua Lê Thánh Tông từ 1470-1497), khoa cử thời Lê
sơ cuối cùng đã xác lập nên những thể thức mang tính định lệ cho mãi về
sau. Việc ba năm mở một khoa thi, năm trước thi Hương, năm sau thi Hội,
cách lấy đỗ tiến sĩ, việc ban danh hiệu tam khôi…, những thể lệ này từ sau
những năm 1470 được tiếp tục thực hiện mãi đến niên hiệu Thống Nguyên
(tức đến trước khi nhà Mạc lên cầm quyền).36 Tổng luận về khoa cử giai
đoạn Lê sơ, Lê Quí Đôn viết:
“Tổng cộng từ khoa Nhâm Tuất [1442] niên hiệu Đại Bảo đến khoa
Bính Tuất [1526] niên hiệu Thống Nguyên gồm 26 khoa, lấy đỗ
Tiến sĩ là 989 người, trong đó dự vào hàng tam khôi có 63 người;
như thế là thịnh đạt lắm.”
自大寶壬戌至統元丙戌凡二十六科,取進士共九百八十九人而
預三魁者六十三人,盛矣。
(Tự Đại Bảo Nhâm Tuất chí Thống Nguyên Bính Tuất nhị thập lục
khoa, thủ Tiến sĩ cộng cửu bách bát thập cửu nhân, nhi dự tam khôi
giả lục thập tam nhân, thịnh hĩ.)37
Những quan sát của Lê Quí Đôn thế kỉ 18 về khoa cử đời Lê sơ,
nhận định cho rằng khoa cử đến đời Hồng Đức đạt đến bước phát triển rất
thịnh đạt, hô ứng với những bình luận của sử gia Vũ Quỳnh cuối thế kỉ 15,
và tiếp tục được khẳng định bởi các sử gia thế kỉ 19, như Phan Huy Chú
viết trong Lịch triều hiến chương loại chí. Kỉ nhà Lê, phần ghi về vua Lê
Thánh Tông (ở ngôi 1460-1497) trong Đại Việt sử kí toàn thư còn lưu lại
được lời bình luận của sử gia Vũ Quỳnh (1453-1497) viết:
“[Vua Lê Thánh Tông] sùng chuộng Nho thuật, cất nhắc anh tài
[nên] các khoa thi chọn kẻ sĩ không chỉ chuyên một phương thức,
mà việc thi hành ba năm một kì đại khoa là bắt đầu từ thời vua trị
vì. Sự có được người hiền tài giúp rập, từ trước tới nay, đời vua
thịnh đạt hơn cả.”
[黎聖宗] 崇尚儒術,振拔英才,取士之科不一,而定三年大比

之舉,自帝始之。其得人之盛,振古有光。
36
37

Lê Quí Đôn, Sđd, 46a.
Lê Quí Đôn, Sđd, 46a.

15


Unpublished Draft
Hieu Phung

([Lê Thánh Tông] sùng thượng Nho thuật, chấn bạt anh tài, thủ sĩ
chi khoa bất nhất, nhi định tam niên đại tỉ chi cử, tự đế thủy chi. Kì
đắc nhân chi thịnh, chấn cổ hữu quang.)38
Đầu thế kỉ 19, trong “Khoa mục chí” tại sách Lịch triều hiến chương loại
chí, Phan Huy Chú nhận xét:
“Sự thịnh đạt khoa cử các đời đến thời Hồng Đức là tột đỉnh. Sự lấy
người rộng rãi và tuyển người công bằng của khoa cử thời ấy, thật
sự các đời sau không sánh bằng.”
歷朝科舉之盛,迨于洪德至矣。其取人之廣,選人之公,尤非
後世所及。
(Lịch triều khoa cử chi thịnh, đãi vu Hồng Đức chí hĩ. Kì thủ nhân
chi quảng, tuyển nhân chi công, vưu phi hậu thế sở cập.)39
Sơ lược lại, những ghi chép của các sử gia trung đại khiến người ta
chú ý mấy điểm sau về sự phát triển của khoa cử thời Lê sơ: Thứ nhất,
khoa thi năm Đại Bảo 3 [1442] mang dấu ấn quan trọng trong diễn trình
khoa cử; thông tin về kì thi Hội, thi Đình, thể thức cũng như số người đỗ
tiến sĩ của khoa thi này được các sử tịch ghi chép lại đầy đủ và còn được

biết đến ngày nay. Hơn thế, đây cũng là khoa thi đầu tiên sau đó được lập
bia đề danh tiến sĩ. Thứ hai, dưới thời Hồng Đức, định lệ lớn của thể chế
khoa cử lấy Tiến sĩ làm chính khoa là chế độ ba năm một lần khảo thí, năm
trước thi Hương (nhằm vào các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu), năm sau thi Hội
(nhằm vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) đã thực sự được thực thi và
được các đời sau kế thừa duy trì tương đối ổn định. Thứ ba, những người
đỗ tiến sĩ tăng về số lượng, danh vị Tiến sĩ cùng vị thế của khoa thi Tiến sĩ
ngày càng gia tăng tầm quan trọng của nó trong đời sống chính trị, xã hội,
văn hóa.
Dưới thời Lê trung hưng (1549-1788), khoa Tiến sĩ đã xác lập chắc
chắn vị thế của một kì chính khoa, trở thành hoạt động thường xuyên của
triều đình. Định lệ ba năm một kì đại khoa được duy trì đều đặn. Tác giả
Kiến văn tiểu lục coi khoa thi Ất Mùi Quang Hưng 18 [1595] là khoa thi
đầu tiên trong đời trung hưng nhất thống, vì đây là khoa đầu tiên được mở
38

ĐVSK, A.3/3, Bản kỉ, 13/78a-b.
Phan Huy Chú 潘輝注, “Khoa mục chí” 科目誌, trong Lịch triều hiến chương loại
chí 歷朝憲章類誌, (1821), A.1551/5, 26/13b. (Từ đây trở xuống: LTHCLC) – Tham
khảo bản dịch tiếng Việt của Viện Sử học Việt Nam (Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục
tái bản, 2007).
39

16


Unpublished Draft
Hieu Phung

lại ở Đông kinh. Ông nêu rõ thêm, “từ đó về sau, cứ ba năm một lần mở

khoa thi theo như lệ cũ, duy lấy đỗ tiến sĩ có phần ít hơn và ít khi lấy đỗ
tam khôi.”40
Trong hơn 200 năm giai đoạn trung hưng nhà Lê, khoảng hơn 70 kì
đại khoa đã diễn ra. Tuy số người đỗ tiến sĩ trung bình ở mỗi khoa ít hơn
so với thời Lê Thánh Tông, nhưng hoạt động khoa cử thể hiện xu thế ngày
càng tinh mật hóa, sức hút chính trị, xã hội, văn hóa của thể chế này không
suy giảm. Nhiều điều chỉnh, sửa đổi về mặt qui chế thi cử các cấp, từ thi
Hương đến thi Hội, thi Đình, đã được bàn luận, ban hành và thực thi; song,
có lẽ đã không một cải cách nào để tiến đến, hoặc dù chỉ trong khuynh
hướng ý đồ, thể hiện sự phủ định sự tồn tại của thể chế khoa cử. Dù đi rất
xa đến những phê phán các điểm yếu có tính bản chất của thể chế này, Lê
Quí Đôn vẫn thừa nhận rằng:
“Vả lại với mấy bài văn trong trường ốc thì chỉ xem được sơ lược
đại khái [tài năng của người dự thi], sao có thể là phép xem xét thấu
đáo nhân tài? Chỉ vì việc chọn người, ngoài ra không còn cách nào
khác; cho nên người trên riêng mượn đường ấy để thu hút người
hiền tuấn, người dưới cũng mượn đường ấy để làm bậc thang [tiến
thân] mà thôi.”
且場中數篇文字,畧見梗概,又烏能盡觀人之法?祇抵緣取人,
别無他道;故上人特假此途,以羅賢俊,下人亦借此途,以爲
梯階爾。
(Thả trường trung sổ thiên văn tự, lược kiến ngạnh khái, hựu ô
năng tận quan nhân chi pháp? Kì duyên thủ nhân, biệt vô tha đạo;
cố thượng nhân đặc giả thử đồ dĩ la hiền tuấn, hạ nhân diệc tá thử
đồ dĩ vi thê giai nhĩ.)41
Khoa cử thời Lê trung hưng lấy khoa Tiến sĩ làm trung tâm, dùng phép thi
văn khảo thí người dự thi, đã ngày càng được thừa nhận như một thiết chế
không thể thay thế. Người ta đã chứng kiến trong thời đại này những tệ nạn
của trường ốc khoa cử. Hẳn dấu ấn của những điều ấy là không nhỏ, nên
các sử gia đã nhắc nhở đến không ít.42 Mặc dù vậy, việc học tập vì khoa cử


40

Lê Quí Đôn, Kiến văn tiểu lục, (1777), A.32, 47b.
Lê Quí Đôn, Sđd, 51b.
42
Kiến văn tiểu lục và Lịch triều hiến chương loại chí đều có kê những việc kém
trong lề lối khoa cử hậu kì nhà Lê.
41

17


Unpublished Draft
Hieu Phung

và đi thi Hương, thi Hội vẫn mở rộng, có xu hướng quán xuyến hóa đời
sống trí thức.
Qua thời Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh chính thức lên ngôi năm
1802, trở thành vua Gia Long (ở ngôi 1802-1819), ông vua mở đầu triều
Nguyễn. Dưới triều Nguyễn, khoa cử ngay từ đầu đã là một trong những
trọng điểm quan tâm của công cuộc kiến thiết chế độ.43 Ngay từ tháng 8
năm Tân Dậu 1801, vua Gia Long – lúc này còn chưa chính thức lên ngôi –
đã có lời dụ sĩ tử Thuận Hóa hãy trở lại học tập, “đợi sau ngày đại định,
[triều đình] sẽ dựng mở khoa thi để thu lấy những người thực học” (sĩ đại
định chi hậu, khai thiết thí khoa dĩ thu thực học - 竢大定之後,開設試科
以收寔學).44 Tháng 7 năm Quí Hợi 1803 [Gia Long 2], vua Gia Long cho
dựng Đốc học đường (một cơ quan coi sóc việc dạy học và thi cử) ở Quốc
Tử Giám, đồng thời xuống chiếu rằng:
“Nay võ công đã định, văn giáo mở mang, vậy định lấy hai tháng

thứ hai của mùa xuân và mùa thu làm kì khảo khóa. (...) Học trò các
ngươi từng người nên hết lòng gắng sức, dốc chí học hành tiến lên,
để đợi khoa thi; dự trúng sẽ được thu dùng.”
今武功耆定,文教闡揚。其定以春秋二仲考課。(…) 多士各宜
敦素,勵志進修,待科舉,預中將錄用焉。
(Kim vũ công kì định, văn giáo đản dương. Kì định dĩ Xuân Thu nhị
trọng khảo khóa. (…) Đa sĩ các nghi đôn tố, lệ chí tiến tu, đãi khoa
cử, dự trúng tương lục dụng yên.)45
Kì thi đầu tiên do triều Nguyễn tổ chức là một kì thi Hương vào
năm Gia Long 6 [1807]. Tiếp sau đó, các kì thi Hương được tổ chức, tuy
nhiên với mật độ còn thưa giản. Nhà Nguyễn có kì thi Hội đầu tiên vào
năm Minh Mệnh 3 [1822], và đây là một kì ân khoa được tổ chức mừng
việc đăng cơ của vua Minh Mệnh (ở ngôi 1820-840). Năm Minh Mệnh 6
[1825], định lệ ba năm tổ chức một lần thi, năm trước thi Hương, năm sau
thi Hội chính thức được tái thiết trở lại.46 Từ đây, triều Nguyễn duy trì đều
43

Về vấn đề tái thiết thể chế khoa cử đầu triều Nguyễn, xem: Phùng Minh Hiếu, “Tái
định chế khoa cử Nho học đầu thời Nguyễn”, trong Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt
Nam từ hướng tiếp cận liên ngành (Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới, 2009), tr.103-129.
44
ĐNTL, A.27/5, Chính biên, Đệ nhất kỉ, 15/3b.
45
ĐNTL, A.27/6, Chính biên, Đệ nhất kỉ, 22/1a-b.
46
Nội Các triều Nguyễn (biên soạn), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ 欽定大南會
典事例, (1843-1851), VHv.1570/16, 103/2a. - Tham khảo bản dịch tiếng Việt của

18



Unpublished Draft
Hieu Phung

đặn các chính khoa Tiến sĩ. Thêm vào đó, hoạt động khoa cử triều Nguyễn
cũng được ráo rốt thêm bởi các định chế về tổ chức ân khoa. Trình thức thi
cử của các ân khoa cũng như chính khoa thi Hương, thi Hội nhưng đây
không phải là khoa thi được tổ chức theo qui định “ba năm một kì khảo
khóa”. Các ân khoa được nhà vua phê chuẩn để mở ra thường nhằm vào
thời điểm diễn ra các sự kiện đặc biệt, như nhân dịp chúc thọ vua, nhân
mừng vua đăng cơ. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép lại chỉ dụ năm
Minh Mệnh 20 [1839] để làm định lệ lâu dài cho việc tổ chức các ân khoa
triều Nguyễn.
Tờ dụ năm Minh Mệnh 20: “Năm sau đúng đến tiết mừng thọ ngũ
tuần của trẫm, vậy nên nhân dịp việc mừng mà gia ân cho sĩ tử. Xét
thấy năm ấy chính lúc kì khảo khóa thi Hương, [thế là] sắp mở ân
khoa thì ân khoa lại trùng với chính khoa. (…) Chi bằng sắp đặt lại
việc thi hành, sao cho có thể lần lượt cử hành [cả ân khoa lẫn chính
khoa]. Vậy chuẩn lấy mùa thu Canh Tí năm Minh Mạng 21 [1840]
để tổ chức ân khoa thi Hương, đến mùa xuân Tân Sửu năm 22
[1841] thì tổ chức ân khoa thi Hội. Còn kì chính khoa [đáng tổ
chức] năm Canh Tí thì lui lại vào mùa thu Tân Sửu năm 22 để thi
Hương và mùa xuân Nhâm Dần năm 23 [1842] để thi Hội.”
「開年值朕五旬正壽,允宜因期行慶加惠士林。念是年正屆鄉
試科期,將擬開設恩科則又與正科相值。(……)不妨從中酌
定,俾可以次第遵行。玆著以明命二十一年庚子秋作為鄉試恩
科,二十二年辛丑春作為會試恩科。其庚子正科著展至二十二
年辛丑秋鄉試,二十三年壬寅春會試。」
(Khai niên trị trẫm ngũ tuần chính thọ, duẫn nghi nhân kì hành
khánh gia huệ sĩ lâm. Niệm thị niên chính giới Hương thí khoa kì,

tương nghĩ khai thiết ân khoa tắc hựu dữ chính khoa tương trị. (…)
Bất phương tòng trung chước định, tỉ khả dĩ thứ đệ tuân hành. Tư
trứ dĩ Minh Mệnh nhị thập nhất niên Canh Tí thu tác vi Hương thí
ân khoa, nhị thập nhị niên Tân Sửu xuân tác vi Hội thí ân khoa. Kì
Canh Tí chính khoa trứ triển chí nhị thập nhị niên Tân Sửu thu
Hương thí, nhị thập tam niên Nhâm Dần xuân Hội thí.) 47

Viện Sử học Việt Nam (TP. Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa tái bản lần 1, 2000) (Từ
đây trở xuống: HĐSL.)
47
HĐSL, VHv.1570/16, 103/2b. Cũng xem: ĐNTL, A.27/40, Chính biên, Đệ nhị kỉ,
202/2a.

19


Unpublished Draft
Hieu Phung

Như vậy, dưới triều Nguyễn, khi nhà vua ban chiếu tổ chức ân
khoa, nếu ân khoa trùng với năm tổ chức chính khoa thì ưu tiên tổ chức ân
khoa trước, chính khoa sẽ được lui lại một năm kề ngay sau đó. Định lệ
này kết hợp với thể chế “ba năm một kì khảo khóa” đã khiến cho khoa cử
triều Nguyễn, nhất là trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ 19, đã diễn ra khá ráo
riết. Trong đó, có những giai đoạn năm nào cũng có khoa thi (hoặc thi
Hương, hoặc thi Hội, hoặc đầu năm thi Hội của khoa trước, cuối năm thi
Hương của khoa sau), như những năm từ 1840 đến 1844, hay những năm
từ 1846 đến 1851.
Các khảo cứu về lịch sử khoa cử triều Nguyễn thường nhắc tới năm
Thành Thái 18 [1906] như một đánh dấu thời điểm bắt đầu của sự biến

cách khoa cử truyền thống. Đây là năm triều đình nhà Nguyễn có nghị
chuẩn quan trọng về cải định phép thi, trong đó ngoài việc bỏ đi một số nội
dung thi bằng chữ Hán truyền thống, chữ Quốc ngữ bắt đầu được đưa vào
để khảo thí. Qui định này đến khoa thi năm Duy Tân 3 [1909] chính thức
được thực thi. Mặc dù cách thức thi cử sau đó tiếp tục biến cách, nhưng các
khoa thi vẫn tiếp tục diễn ra. Kì thi cuối cùng ở Bắc Kì là khoa thi Hương
năm Duy Tân 9 [1915]. Ba năm sau, khoa thi Hương Mậu Ngọ năm Khải
Định 3 [1918] diễn ra ở Trung Kì. Đây là khoa thi Hương cuối cùng trong
lịch sử khoa cử ở Việt Nam. Mùa xuân năm sau, tức năm Khải Định 4
[1919], người ta chứng kiến khoa thi Hội cuối cùng, cũng là chứng kiến sự
kết thúc của thể chế khoa cử hơn 800 năm tại Việt Nam.48
*
Ở trên là một vài nỗ lực nhằm phác họa bức tranh khoa cử ở Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại của thể chế này. Trên bối cảnh ấy,
thi Đình và văn sách thi Đình có những vị trí quan trọng. Cũng như sự thực
hành khoa cử ở Trung Quốc, kì thi Đình trong lịch sử khoa cử Việt Nam
không tách rời với xu hướng tập trung cho khoa thi Tiến sĩ, khiến khoa thi
này trở thành trục tâm của cả thể chế này; đồng thời từng bước hoàn thiện
và đi đến duy trì dài lâu thiết chế ba năm một kì khảo khóa với sự tổ chức
thi cử theo các cấp, từ thi Hương đến thi Hội, thi Đình. Nói như vậy, kết
thành nên phức thể khoa cử ở Việt Nam, chúng ta không phải để gạt đi
những loại hình khoa thi khác như thi Tam giáo đời Lý- Trần, khoa Sĩ
vọng, Hoành từ, Tuyển cử, Đông Các đời Lê, khoa Bác học Hoành tài,
khoa Nhã sĩ đời Nguyễn.
48

Tham khảo: Nguyễn Văn Đào, Hoàng Việt khoa cử kính, VHv.1277, 42b-46a.
Cũng xem: Trần Văn Giáp, “Lược khảo về khoa cử Việt Nam: Từ khởi thủy đến khoa
Mậu Ngọ (1918)”, tr.191-192.


20


Unpublished Draft
Hieu Phung

Như nói ở trên, các sử gia trung đại đều coi khoa mục ở Việt Nam
bắt đầu từ triều vua Lý Nhân Tông (ở ngôi 1072-1127) với việc thi Minh
kinh Bác học vào năm 1075. Tiếp đó, sử sách cho biết vua Lý Nhân Tông
còn tổ chức một khoa thi năm 1086 cho những người về văn học để sung
vào viện Hàn Lâm. Khoảng hơn nửa thế kỉ sau đó, đến thời vua Lý Anh
Tông (ở ngôi 1138-1175), một khoa thi nữa mới được sử ghi tiếp, tức khoa
thi năm Đại Định 3 [1152], và đây được gọi là một kì thi Điện. Đại Việt sử
kí toàn thư chỉ ghi vào thời gian đó có sự kiện “Điện thí” (殿試).49 Đại
Việt sử kí tiền biên chép giống như Đại Việt sử kí toàn thư và kèm thêm lời
bàn của sử gia Ngô Thì Sĩ (1726-1780) cho biết: “Khi ấy phép khoa cử
chưa có định thức. Có lẽ bấy giờ có chiếu cất cử học trò trong nước, [rồi
nhà vua] đích thân hỏi thi ở sân điện; sử chép không rõ, nay không thể
khảo cứu được.” (Thị thời khoa cử chi pháp vị hữu định. Hoặc đương thời
hữu chiếu cử thiên hạ chi sĩ, thân thí ư điện đình; sử văn bất tường, kim
bất khả khảo. - 是時科舉之法未有定式。或當時有詔舉天下之士,親
試於殿庭,史文不詳,今不可考。)50 Nhiều sử gia trung đại sau này
cũng đồng thuận với giả thuyết của Ngô Thì Sĩ, như soạn giả các sách Lịch
triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục...
Như thế, về sự kiện gọi là “thi Điện” năm 1152, chúng ta mới chỉ biết rằng
các bộ sử còn đến ngày nay đã dùng từ ngữ “điện thí” để ghi sự kiện khảo
thí của triều đình trong năm này.
Liên quan đến những hoạt động thi Đình đầu tiên trong lịch sử khoa
cử Việt Nam, sách Cổ kim khoa thí thông khảo (khắc in năm 1873) viết:
“Thi Đình Tiến sĩ bắt đầu từ đời vua Trần Duệ Tông.” (Đình thí Tiến sĩ

thủy ư Trần Duệ Tông- 庭試進士始於陳睿宗。)51 Sự kiện mà sách này
nhắc đến chính là kì thi Đình Tiến sĩ năm Giáp Dần niên hiệu Long Khánh
2 [1374] đời vua Trần Duệ Tông (ở ngôi 1373-1377). Khâm Định Việt sử
thông giám cương mục gọi sự kiện này là “Bắt đầu đặt khoa Tiến sĩ.”
(Thủy trí tiến sĩ khoa. - 始置進士科。)52 Trong những ghi chép sử sớm
hơn, các sử gia mặc dầu không ghi rõ đây là khoa thi Tiến sĩ với kì thi
49

ĐVSK, A3/2, Bản kỉ, 4/10a.
Ngô Thì Sĩ 吳時士 soạn, Ngô Thì Nhậm 吳時任 tu đính, Đại Việt sử kí tiền biên 大
越史記前編 (in xong năm 1800), A2, 4/11a. – Tham khảo bản dịch tiếng Việt của
Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1997). Cũng
xem: LTHCLC, A.1551/5, 26/2b; VSCM, A1/2, 5/5b-6a.
51
Chuyết Phu 拙夫, Cổ kim khoa thí thông khảo 古今科試通考, (1873), VHv.1297,
2/1b-2a.
52
VSCM, A1/3, 10/35a.
50

21


Unpublished Draft
Hieu Phung

Đình đầu tiên, nhưng đều lưu lại một chú thích khá chi tiết về sự kiện này.
Chẳng hạn, Đại Việt sử kí toàn thư viết:
“Theo lệ cũ, bảy năm một lần thi Thái học sinh, chỉ lấy đỗ 30 người
mà thôi. Thi [lấy đỗ] Trạng nguyên thì không có định lệ, nhưng tam

quán thuộc quan thái học sinh, thị thần học sinh, tướng phủ học
sinh, và những người có tước phẩm, đều được vào thi.”
故事,太學生七年一試,取三十人而已。狀元試無定例,然三
舘屬官太學生、侍臣學生、相府學生,及有爵者,得入試。
(Cố sự, Thái học sinh thất niên nhất thí, thủ tam thập nhân nhi dĩ.
Trạng nguyên thí vô định lệ, nhiên tam quán thuộc quan thái học
sinh, thị thần học sinh, tướng phủ học sinh, cập hữu tước giả, đắc
nhập thí.)53
Thi Thái học sinh là một khoa thi đặc trưng dưới triều nhà Trần. Có
những sử tịch đã giải thích thi Thái học sinh chính là tiền thân của thi Tiến
sĩ về sau.54 Xét lời ghi chú cùng với những thông tin ghi ở sự kiện khoa thi
1374 trong Đại Việt sử kí toàn thư, chúng ta có thể suy đoán, thứ nhất, hẳn
đã có sự thay đổi đáng kể ở khoa thi này so với thể lệ cũ để sử cần lưu lại
sự chú thích liên quan đến thể lệ như thế; sự thay đổi ấy có thể vì đây chính
là lần đầu tiên triều đình dùng danh xưng “Tiến sĩ” trong tổ chức thi cử, và
cũng có thể là lần đầu tiên hình thức Đình thí theo thể chế khoa Tiến sĩ
được thực thi. Suy đoán này có thể giải thích vì sao sách Cương mục sau
này gọi đây là năm “bắt đầu đặt khoa thi Tiến sĩ”. Thứ hai, sách Toàn thư
chép đây là việc “Đình thí Tiến sĩ”, và trong phần giải thích thêm về thể lệ
khảo thí, có đề cập đến “Trạng nguyên thí”. Trong khi đó, sách Cương mục
cũng giữ nguyên phần ghi chú của sử cũ nhưng đổi “Trạng nguyên thí”
thành “Đình thí”. Điều này dẫn đến một khả năng suy luận tiếp theo là cái
gọi là “thi Trạng nguyên” có thể chính là để chỉ kì “Đình thí”.
Như thế, nếu thi Thái học sinh là tiền thân của thi Tiến sĩ sau này,
và khoa thi lấy đỗ Trạng nguyên Đào Sư Tích năm 1374 đã sử dụng hình
thức thi Đình như “cửa ải cuối cùng” của sĩ tử trước khi được nhận ban
những danh hiệu cao quí nhất của người thi đỗ, thì sự xác định của các sử
gia triều Nguyễn rằng đây là kì thi Đình đầu tiên theo hình thức khoa Tiến
sĩ trong lịch sử khoa cử Việt Nam là xác đáng. Hiện chúng ta chưa có thêm
những nguồn tư liệu sử khác để chứng tỏ về một kì thi Đình khoa Tiến sĩ

53
54

ĐVSK, A3/2, Bản kỉ, 7/40b.
Xem: Chuyết Phu, Cổ kim khoa thí thông khảo, VHv.1297, 2/1a-b.

22


Unpublished Draft
Hieu Phung

sớm hơn năm 1374 (mặc dù sử từng dùng hai chữ “Điện thí” để ghi sự kiện
khảo thí năm 1152 như trình bày ở trên). Ngoài ra, trong những tư liệu văn
sách thi Đình còn đến ngày nay, hiện chúng ta chỉ lưu giữ được sớm nhất
là bài văn sách thi Đình của Trạng nguyên Đào Sư Tích trong khoa thi này.
Sau khoa thi ấy, trong những năm cuối triều Trần, sử sách cho biết
một vài nỗ lực của triều đình trong việc phát triển khoa cử. Chẳng hạn,
năm 1396, vua Trần Thuận Tông (ở ngôi 1389-1398) xuống một tờ chiếu
qui định cách thức khảo thí, trong đó hai trọng điểm cơ bản được nêu rõ là:
Thứ nhất, qui định việc năm trước thi Hương, năm sau thi Hội, ai trúng thi
Hội thì vua ra một đề thi “sách” để xếp bậc đỗ cao thấp. Thứ hai, qui định
dùng văn thể bốn trường, tức lần lượt từ trường nhất đến trường tư sẽ thi
các nội dung Kinh nghĩa, Thơ Phú, Chiếu Chế Biểu, và Sách.55
Sử chép về thời Lê sơ có ghi lại những hoạt động khảo thí chọn
người của triều đình ngay trong những năm ở ngôi của vua Lê Thái Tổ.
Theo nhận xét của Phan Huy Chú, cách thi cử buổi đầu nhà Lê trung hưng
“hãy còn giản dị”, các khoa thi chỉ “tùy tài chọn dùng, không bó buộc”.56
Cho đến thời gian năm Tân Hợi 1431 (tức năm Thuận Thiên 4 đời Lê Thái
Tổ), Lê Quí Đôn cho biết các hoạt động khảo thí của triều đình “vẫn chưa

lấy đỗ tiến sĩ” (thượng vị tứ Tiến sĩ - 尚未賜進士). Lê Quí Đôn sau đó
nhắc đến sự kiện năm Giáp Dần 1434 (tức năm Thiệu Bình 1 đời Lê Thái
Tông) – triều đình có bàn định về thể lệ thi tiến sĩ, nhưng cũng ghi rõ thể
thức ấy “lần hồi vẫn chưa được thi hành” (nhân tuần vị hành - 因循未
行).57 Đến tháng Tám năm Thiệu Bình 1 [1434], vua Lê Thái Tông (ở ngôi
1434-1442) xuống một tờ chiếu, chính thức qui định thể lệ khoa thi Tiến sĩ
ba năm một lần với hai cấp thi Hương và thi Hội.58 Mặc dù tờ chiếu nói rõ
bắt đầu từ năm Thiệu Bình 5 [1438] sẽ tổ chức thi Hương, sang năm kế
tiếp [1439] tổ chức thi Hội; nhưng sử chỉ bắt đầu ghi về các kì thi Hội, thi
Đình khoa Tiến sĩ theo điển chế trên từ khoa thi Đại Bảo 3 năm 1442, khoa
thi lấy Nguyễn Trực đỗ đầu.
Có thể nói, muộn nhất là từ sau khoa thi năm 1442 này, thi Đình
với tư cách cấp thi cao nhất trong hệ thống tam cấp khoa thi Tiến sĩ (từ thi
Hương, thi Hội đến thi Đình) đã được xác lập hoàn bị. Hình thức nhà vua
55

ĐVSK, A3/2, Bản kỉ, 8/26b.
LTHCLC, A.1551/5, 7b.
57
Lê Quí Đôn, Kiến văn tiểu lục, (1777), A.32, 45a.
58
Đại Việt sử kí toàn thư và Lịch triều hiến chương loại chí đều chép sự kiện và nội
dung tờ chiếu này.
56

23


Unpublished Draft
Hieu Phung


thân ra một đạo văn sách làm nội dung khảo thí cho kì thi Đình cũng trở
thành định lệ dài lâu trong khoa cử các triều đại Việt Nam. Ở những thời
gian sau, mặc dù lịch sử trải nhiều biến thiên, khi khoa cử được thực thi
với trạng thái điển hình của nó, người ta thấy sự hiện diện đầy đủ của tam
cấp khoa thi Tiến sĩ – thi Hương, thi Hội và thi Đình; văn sách luôn là nội
dung độc tôn cho kì thi Đình.
Hà Nội, ngày 18/11/2009.

24



×