Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiêu luận triết học Vận dụng phép biệnchứng duy vật vào trong quản trị nhân sự tại Chi nhánh Văn phòng Đăng kýđất đai thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.22 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Phép biện chứng duy vật nói riêng, triết học mác xít nói chung có vị trí hết
sức quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Những tri thức của các khoa học triết
học đem lại, đang là công cụ tư duy sắc bén để con người nhận thức và cải tạo thế
giới hiện thực vì nhu cầu con người; nó đang được các lĩnh vực hoạt động của con
người vận dụng, ứng dụng có hiệu quả.
Quản trị nhân sự là một quá trình kết hợp giữa chủ quan và khách quan nên
không thể không có phương pháp tư duy đúng đắn mà dẫn đến thành công được;
cũng như vậy, sẽ là hết sức sai lầm khi sử dụng phương pháp tư duy siêu hình trong
quản lý nói chung, quản trị nhân sự nói riêng. Ph.Ăngghen đã nhận định: "Phương
pháp tư duy ấy (siêu hình – B.T) mới xem thì có vẻ hoàn toàn có thể chấp nhận
được, bởi vì nó là phương pháp của cái mà người ta gọi là lý trí lành mạnh của con
người..., tuy là một người bạn đường rất đáng kính..., nhưng chóng hay chầy nó
cũng sẽ gặp phải một ranh giới mà nếu nó vượt quá thì nó trở thành phiến điện, hạn
chế, trừu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể nào giải quyết được". Chính
vì lẽ đó, vận dụng những nội dung phép biện chứng duy vật vào trong thực tế quản
trị nhân sự mang một ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
2. Tính cấp thiết
Trong hoạt động thực tiễn, nhất là trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay, mỗi người cần thiết phải trang bị cho mình những tri thức
về thế giới quan và phương pháp luận khoa học của triết học Mác-Lênin. Chỉ có
nắm vững được vũ khí tư tưởng ấy, chúng ta mới tránh được những sai lầm đáng
tiếc và có thể giành được thắng lợi trong hoạt động thực tiễn nói chung, quản lý
doanh nghiệp nói riêng. Vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn để chỉ
đạo sản xuất, điều hành doanh nghiệp thể hiện rất nhiều khía cạnh cụ thể khác
nhau của khoa học triết học, khoa học quản lý kinh tế, quản lý con người, văn hoá,
đạo đức,… tạo ra sức mạnh tổng hợp,trong đó mỗi khoa học là một chuyên đề khá
lý thú. Trong phạm vi đề tài, nhóm thực hiện bài tiểu luận “Vận dụng phép biện
chứng duy vật vào trong quản trị nhân sự tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương". Được tiến hành trong thời gian từ


tháng 10/2018 đến tháng 12/2018 với mục tiêu nắm vững cơ sở lý luận, nội dung,
1


bản chất cũng như những nguyên tắc luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và nêu một số ý kiến về việc vận dụng phép biện chứng duy vật vào quản lý
nhân sự trong doanh nghiệp và hiệu quả của nó.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Thời gian thực hiện đề tài: từ 20/10/2018 đến
12/12/2018.
Phạm vi không gian: Đề tài được thực hiện tại “Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương”
Địa chỉ trụ sở chính: Khu phố 5, Thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Tel: 0274 3656 469.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu có sử dụng các phương pháp: Thu thập thông
tin số liệu; Thống kê; Tổng hợp; Phân tích; So sánh và Phương pháp chuyên gia.
5. Bố cục của đề tài:
Ngoài Lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo Nội dung chính
của bài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỚI
QUẢN TRỊ NHÂN SỰ TRONG CƠ QUAN.
Chương 2: VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀO NGUỒN
NHÂN LỰC TẠI CHI NHÁNH VĂN PHÒNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI THỊ XÃ
TÂN UYÊN - TỈNH BÌNH DƯƠNG.

2


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỚI QUẢN TRỊ
NHÂN SỰ TRONG CƠ QUAN
1. Phép biện chứng duy vật – Phương pháp luận nhận thức khoa học
và thực tiễn:
1.1. Khái niệm:
Thuật ngữ “biện chứng” có gốc từ tiếng Hy Lạp là dialektica (với nghĩa là
nghệ thuật đàm thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh
luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối
phương và nghệ thuật bảo vệ những lập luận của mình. Người Hy Lạp cổ đại cho
rằng, đã là tri thức đúng thì không thể có mâu thuẫn trong tri thức đó và quá trình
đi tới chân lý là quá trình giải quyết những mâu thuẫn trong lập luận.
Trong triết học Mác,thuật ngữ “biện chứng”được dùng đối lập với “siêu
hình”. Đó là lý luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên
hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát
tirển không ngừng.
Phương pháp đó không chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy mối
quan hệ lẫn nhau giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả
sự sinh thành và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy
cả trạng thái động của sự vật; không chỉ thấy “cây” mà còn thấy cả “rừng” .
Phương pháp đó vừa mềm dẻo, vừa linh hoạt, thừa nhận trong những trường hợp
nhất định, bên cạnh cái “ hoặc là… hoặc là”, còn có “cả cái này lẫn cái kia” nữa.
Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong
mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự
nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên
lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được khái quát và luận giải trên cơ
sở khoa học. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự
phát đến tự giác.
1.2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Các phạm trù, các quy luật cơ bản của

phép biện chứng duy vật là sự cụ thể hoá các nguyên lý trên.
3


1.2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật:
1.2.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt
giữa các sự vật, hiện tuợng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan, tính có
hạn của sự vật hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối
liện hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức và vai trò
khác nhau.
a. Các tính chất của mối liên hệ:
Tính khách quan: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng; nó
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Tính phổ biến: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ không gian
nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với sự vật và hiện tượng khác.
Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố
nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác.
Tính đa dạng, phong phú: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không
gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Sự
phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối. Mỗi loại mối liên hệ trong
từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ
hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự vật.
b. Ý nghĩa phương pháp luận: Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại,
chuyển hoá, qui định lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng và các mối liên hệ mang
tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét
phiến diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên
hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong
sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và

mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
1.2.1.2. Nguyên lý về sự phát triển:
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận
động đi lên từ thấp đến cao,từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện
tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân. Động
4


lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện
tượng. Phát triển đi theo đường “xoáy ốc”, cái mới dường như lặp lại một số đặc
trưng, đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức
tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
a. Tính chất của sự phát triển:
Tính khách quan: nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản than sự
vật, vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con
người.
Tính phổ biến: tính phổ biến được hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự
nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan.
Tính đa dạng, phong phú: tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian
khác nhau, sự vật phát trểin sẽ khác nhau.
b. Ý nghĩa phương pháp luận: Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức,
khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm
trong khuynh hướng chung là phát triển. Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển
còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn.
Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm
thúc đẩy sự tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuỳ theo sự
phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống con người. Quan điểm phát triển
góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn.

1.2.2. Những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật:
1.2.2.1. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất:
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định.
Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính lập lại trong nhiều
sự vật, nhiều hiện tượng. Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những
đặc điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật,
hiện tượng khác. Giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối liên hệ biện
chứng nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng,
ngược lại, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, bao hàm cái chung
cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng

5


sâu sắc hơn cái riêng, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong
quá trình vận động và phát triển của sự vật.
1.2.2.2. Nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện
tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định.
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một
sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Giữa nguyên nhân
kết quả có mối liên hệ qua lại, quy định nhau. Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả
nên luôn có trước kết quả, sau khi xuất hiện, kết quả có ảnh hưởng tích cực trở lại
đối với nguyên nhân. Sự phân biệt nguyên nhân, kết quả có tính tương đối. Một sự
vật, hiện tượng ở trong mối quan hệ này là nguyên nhân nhưng lại là kết quả trong
mối quan hệ khác và ngược lại tạo nên chuổi nhân-quả vô tận. Do vậy, nguyên
nhân, kết quả bao giờ cũng ở trong mối quan hệ cụ thể.
1.2.2.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên:
Trong khi phản ánh hiện thực khách quan, con người nhận thức được tính
không một ý nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau của sự

vật, hiện tượng nên phân chia chúng thành nhóm các mối liên hệ nhất định phải
xảy ra đúng như thế và nhóm các mối liên hệ có thể xảy ra, cũng có thể không xảy
ra, cũng có thể xảy ra thế này hay thế khác. Tất nhiên do mối liên hệ bản chất, do
những nguyên nhân cơ bản bên trong của sự vật, hiện tượng quy định và trong
những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu
nhiên do mối liên hệ không bản chất, do những nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài
quy định, có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện thế này hoặc
có thể xuất hiện thế khác. Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có mối liên hệ biện chứng
với nhau.
1.2.2.4. Nội dung và hình thức:
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố, sự vật của hiện tương.
Giữa nội dung và hình thức có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau, trong đó nội
dung giữ vai trò quyết định. Nội dung đòi hỏi phải có hình thức phù hợp với nó. Khi
nội dung thay đổi thì hình thức cũng phải thay đổi theo. Tuy nhiên, hình thức cũng
6


có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại nội dung. Khi hình thức phù
hợp với nội dung, nó là động lực thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi không phù
hợp, hình thức cản trở sự phát triển của nội dung. Cùng một nội dung, trong quá
trình phát triển, có thể thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình
thức có thể phù hợp những nội dung khác nhau.
1.2.2.5. Bản chất và hiện tượng:
Để nhận thức đúng sự vật từ các hiện tượng phong phú nhiều vẻ, con
người đi sâu nghiên cứu bản chất của sự vật. Bản chất là tổng hợp tất cả những
mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại,
vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng là những biểu hiện bên ngoài, bề
ngoài của sự vật. Giữa bản chất và hiện tượng có mối liên hệ biện chứng nhau.

Bản chất và hiện tượng thống nhất nhau: bản chất thể hiện thông qua hiện tượng,
còn hiện tượng là sự thể hiện của bản chất. Bản chất tương đối ổn định, ít biến đổi
hơn, còn hiện tượng “động” hơn, thường xuyên biến đổi hơn.
1.2.2.6. Khả năng và hiện thực:
Khi đã nhận thức được bản chất và những mâu thuẫn vốn có của sự vật,
hiện tượng, chúng ta có thể phán đoán được sự vật, hiện tượng sẽ biến đổi theo
hướng nào, nghĩa là chúng ta có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả
năng biến đổi của sự vật, hiện tượng. Khả năng là cái hiện chưa xảy ra, nhưng sẽ
xảy ra khi có các điều kiện thích hợp. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực
sự. Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật. Trong hiện thực bao giờ cũng chứa những
khả năng nhất định; ngược lại, khả năng lại nằm trong hiện thực và khi đủ điều
kiện sẽ biến thành hiện thực mới.
1.2.3. Một số quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Bên cạnh các cặp phạm trù, phép biện chứng duy vật còn bao hàm ba quy
luật phổ biến về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.2.3.1. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến
những sự thay đổi về chất và ngược lại:
Chất là tính quy định khách quan, vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu
cơ giữa các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác. Lượng là tính

7


quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận
động, phát triển của sự vật.
Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng. Những thay đổi về
lượng của sự vật chưa gây ra những thay đổi căn bản về chất được gọi là độ. Những
thay đổi về lượng quá giới hạn độ sẽ làm cho chất của sự vật biến căn bản. Điểm mà
tại đó sự thay đổi căn bản về chất được thực hiện gọi là điểm nút. Bước nhảy là

bước thay đổi căn bản về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất còn có chiều ngược
lại. Nắm được nội dung quy luật này sẽ tránh nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, đồng
thời tránh tư tưởng tuyệt đối hoá sự thay đổi về lượng, không kịp thời chuyển những
thay đổi về lượng sang những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hoá
sang những thay đổi mang tính cách mạng và ngược lại không biết sử dụng chất mới
để thúc đẩy lượng tiếp tục phát triển.
1.2.3.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Đây là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra nguồn gốc, động
lực của sự phát triển. Theo phép biện chứng, mặt đối lập là những mặt có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau. Sự tác động giữa chúng tạo thành mâu thuẫn bên
trong của sự vật. Các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. Trong
đó, thống nhất là tương đối, tạm thời; đấu tranh là tuyệt đối, vĩnh viễn. Sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, sự
phát triển. Quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong việc phát hiện
và phân tích mâu thuẫn của sự vật cũng như tìm ra con đường đúng đắn để giải
quyết mâu thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển.
1.2.3.3. Quy luật phủ định của phủ định:
Phủ định biện chứng là quá trình khách quan,tự thân, là quá trình kế thừa
cái tích cực đã đạt được từ cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của
sự vật, hiện tượng mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình phủ định của phủ định tạo
thành sự vận động, phát triển không ngừng mang tính chu kỳ của thế giới khách
quan. Trải qua một số lần phủ định, sự vật, hiện tượng dường như lặp lại những
giai đoạn đã qua trên cơ sở mới, cao hơn và như vậy, phát triển không đi theo
đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Quy luật này có một ý nghĩa phương pháp
luận to lớn trong quá trình thay thế cái củ bằng cái mới. Nó đòi hỏi phải xuất phát
8


từ những điều kiện khách quan cho phép, phải tạo điều kiện, tiền đề cho cái mới

chiến thắng cái cũ, phải biết kế thừa và phát triển sang tạo những cái tích cực đã
đạt được từ cái cũ, đồng thời phải thấy được tính chất quanh co, phức tạp trong
quá trình ra đời cái mới.
1.3. Phép biện chứng duy vật với quản trị nhân sự
Một số nội dung của phép biện chứng duy vật được vận dụng trong quản
trị nhân sự ở doanh nghiệp:
1.3.1. Người quản lý phải xuất phát từ con người cụ thể để tìm ra phương
pháp quản lý, phương pháp giao tiếp thích hợp:
Trong doanh nghiệp, giao việc phải tuỳ theo khả năng,trình độ từng người
cụ thể mà giao việc. Mặt khác cũng phải xem xét đến những nhu cầu tâm-sinh lý
của mỗi nhân viên để giao nhiệm vụ.
Vấn đề quản lý con người cụ thể còn phải chú ý đến cá tính của họ. Trong
thực tiễn quản lý doanh nghiệp, có một số cá tính thường gặp biểu hiện thông qua
hành vi của người lao động là:
Tính bướng bỉnh và hay có thái độ chống đối: Những người này thường
không thích quyền lực, hay ngang tàng, gây gổ. Do vậy, người quản lý phải có
phương pháp quản lý thích hợp (thậm chí đôi lúc phải độc tài) để thu phục và chế ngự
tính khí ngang bướng đó, hướng năng lực của họ vào những mục tiêu mong muốn.
Làm việc không tự chủ được: Đây là những người luôn thiếu ý chí và
nghị lực. Người quản lý phải có thái độ và biện pháp cứng rắn nhằm giúp cho họ
có niềm tin mới.
Có tinh thần vì tập thể, vì cái chung: Những người này sẽ phát huy năng
lực cao nhất nếu người quản lý biết áp dụng phương pháp dân chủ. Họ luôn muốn
hợp tác với nhiều người và sẵn sàng giúp đỡ người khác vì cái chung, họ luôn tự
giác,tự chủ trong công việc, vừa có tinh thần hợp tác, luôn luôn đi đúng hướng và
cần rất ít sự quản lý.
Có tính tự giác cao trong công việc: Họ là những người không thích nói
nhiều, khong thích nhắc nhở. Người quản lý chỉ nhắc nhở họ khi thật cần thiết. Họ
sẽ phát huy năng lực cao nhất khi được quản lý bằng phương pháp khoa học để họ
tự do hoạt động.


9


Điềm tĩnh, không thích giao tiếp: Đây là cá tính của những người không
thích quan hệ tình cảm với người khác trong doanh nghiệp. Điều này có nhiều
nguyên nhân: có thể đây là một tâm trạng thù ghét ngấm ngầm; cũng có thể là một
căn bệnh tâm lý, hoặc họ không có khả năng giao tiếp. Dù là nguyên nhân gì đi
nữa, họ là những người chỉ muốn làm việc một mình. Cho nên phương pháp tự do
hoạt động trong quản lý là phù hợp, tạo điều kiện tốt cho họ làm việc và phát huy
tối đa khả năng.
Như vậy, nếu xuất phát từ con người cụ thể để giao việc thì năng suất sẽ
lên cao, đồng thời sẽ có lợi khi công việc hợp với thể chất và tài năng của từng
người thì họ hăng hái, phấn khởi làm việc và tiến bộ hơn.
1.3.2. Quản lý con người phải bằng biện pháp cụ thể, trong trạng thái động
chứ không phải tĩnh:
Chỉ có thông qua hoạt động của con người, người quản lý mới có cơ sở
khách quan để đánh giá năng lực của người lao động. Trong quản lý doanh nghiệp
chỉ có giao việc cụ thể, nghĩa là để cho người lao động tự giải quyết mâu thuẫn của
chính họ trong việc làm mới có cơ sở đánh giá chính xác trình độ, mới phát hiện
được khả năng phát triển của người lao động và cũng từ đấy giúp cho người quản
lý có kinh nghiệm nhiều hơn trong công tác quản trị nhân sự. Bản thân sự vận
động đã chứa đựng tính mâu thuẫn biện chứng, Ăngghen viết: “Ngay khi sự di
động một cách máy móc và đơn giản sở dĩ có thể thực hiện được, cũng chỉ là vì
một vật trong cùng một lúc vừa ở nơi này, lại vừa ở nơi khác, vừa ở cùng một chỗ
lại vừa không ở chỗ đó. Và sự nảy sinh thường xuyên và việc giải quyết đồng thời
mâu thuẫn này – đó cũng chính là sự vận động”.
1.3.3. Quản lý, đánh giá nhân viên phải gắn họ với điều kiện, hoàn cảnh,
không gian và thời gian cụ thể:
Người quản lý muuốn đánh giá năng lực làm việc của nhân viên phải gắn

việc làm của họ vào điều kiện, hoàn cảnh, không gian và thời gian cụ thể. Mọi sự
tách rời những cái đó đều rơi vào quan điểm duy tâm trong quản lý. Người lao
động khi tiến hành công việc không thể tách rời với công việc trước đó, hoặc việc
làm sắp tới và cả những công việc của người bên cạnh. Nghĩa là chính không gian
là hình thức tồn tại của công việc mà người lao động đang làm, nó là điều kiện cơ
bản làm cho các công việc trong doanh nghiệp tồn tại. Còn thời gian là điều kiện
10


cơ bản làm biến đổi các công việc trong doanh nghiệp “dưới hình thức cái nọ nối
tiếp cái kia”. Mối liên hệ hữu cơ giữa không gian với sự tồn tại các công việc của
người lao động, giữa thời gian với sự biến đổi của các công việc mà người lao
động đang làm, cho phép người quản lý doanh nghiệp giải thích được bản chất sự
thống nhất và sự khác biệt giữa các công việc khác nhau của người lao động.
1.3.4. Trạng thái tâm lý của người nhân viên đều xuất phát từ những điều
kiện khách quan:
Người quản lý phải quan tâm tìm hiểu nguyên nhân của trạng thái vui
buồn, bi quan,…không phải ngay chính bản thân người lao động mà từ những
quan hệ khách quan như công việc, gia đình, đồng nghiệp.. và cũng xuất phát từ
trạng thái đó mà giao việc phù hợp cho họ. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chính sự tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Vì vậy, chìa khoá để
giải thích nguồn gốc của những trạng thái tâm lý của người lao động chính là ở
những điều kiện vật chất của họ. V.I Lênin chỉ rõ: "Ý thức con người không phải
chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan”. Chính vì
vậy, người quản lý phải biết quan tâm đến những điều kiện cần thiết nào làm ảnh
hưởng lớn đến tâm lý của người lao động chẳng hạn: Chọn lựa người làm việc hợp
với sở thích, hợp với sức khoẻ. Chú ý đến sự đào tạo tại chỗ, hoặc bố trí cho người
lao động được học thêm. Thay đổi điều kiện làm việc thích hợp:ánh sáng, tiếng ồn,
màu sắc,… Có chế độ lương, thưởng, hợp lý. Quan tâm, giúp đỡ họ khi gặp hoàn
cảnh khó khăn.

1.3.5. Người lao động trong doanh nghiệp luôn gắn với nhiều mối quan hệ
khác nhau, chứ không chỉ gắn với một quan hệ duy nhất:
Mối quan hệ giữa người và người trong doanh nghiệp có rất nhiều hình
thức khác nhau. Có mối quan hệ trực tiếp, gián tiếp, bản chất và không bản chất,
trong đó mối quan hệ bản chất vạch ra bản tính con người. Vì vậy, để nhận thức sự
vật, hiện tượng, quá trình phép biện chứng duy vật yêu cầu phải tìm ra mối quan
hệ bản chất trong sự vật đó và giữa chúng với nhau. Muốn vậy thì phải xét sự vật
một cách toàn diện, giải thích rõ mối quan hệ nào quy định sự tồn tại đó.
Phép biện chứng duy vật cho chúng ta biết trong một sự vật có nhiều chất
tuỳ theo mối quan hệ. Chính vì lẽ đó, người quản lý doanh nghiệp khi tiến hành
công việc quản trị nhân sự phải chú ý đến những quan hệ khác nhau của người lao
11


động, từ đó phân loại các mối quan hệ nhằm tác động vào những điều kiện thích
hợp giúp cho người lao động hăng hái làm việc, tăng năng suất lao động. Đặc biệt
không nên cô lập các mối quan hệ của họ để xem xét và đánh giá nhân viên.
1.3.6. Nhìn nhận người lao động trong doanh nghiệp phải thấy được chiều
hướng phát triển, đi lên của họ
Người lao động trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng tồn tại trong xu
hướng phát triển, họ không muốn bị người khác phê phán. Do vậy người quản lý
phải thấy được nguồn gốc, động lực của sự phát triển ở người lao động, giúp họ
giải quyết được mâu thuẫn trong tư duy, trong việc làm, giúp họ biết cách phân
tích mâu thuẫn, biết cách giải quyết mâu thuẫn. Người quản lý phải chỉ cho họ
cách thức phát triển bằng cách tạo cho họ điều kiện để tích lũy kiến thức chuyên
môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, tư cách phẩm chất người lao động, tức là tạo cho
ai cũng có cơ hội thăng tiến, tăng thu nhập, vững tay nghề, vị thế xã hội được đề
cao. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc làm cho họ có sự thay đổi về chất về những
tư cách người lao động.
1.3.7. Quản trị nhân sự suy cho cùng là giải quyết những mâu thuẫn nội tại

trong bản thân hoạt động của người lao động
Trong doanh nghiệp tồn tại rất nhiều mâu thuẫn, nhưng biểu hiện rõ nét
nhất có ba mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa chủ và thợ; mâu thuẫn giữa thợ với thợ;
mâu thuẫn giữa nhu cầu khách hàng đặt ra và sự đáp ứng nhu cầu đó của công
nhân, viên chức. Người quản lý doanh nghiệp phải xác định được mâu thuẫn nào
là mâu thuẫn cơ bản để tạo điều kiện tốt nhất và đầu tư đúng đối tượng nhằm thúc
đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Vì chính mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quyết
định sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Trong các mâu thuẫn trên
thì mâu thuẫn giữa nhu cầu khách hàng đặt ra và sự đáp ứng nhu cầu đó của công
nhân, viên chức là mâu thuẫn cơ bản của doanh nghiệp. Vì rằng, bất kỳ doanh
nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển, trước hết phải xác định nhu cầu khách hàng
có hay không có, và khả năng của công nhân, viên chức, máy móc trong doanh
nghiệp có đáp ứng được hoặc đáp ứng ở mức độ nào của nhu cầu khách hàng. Hơn
nữa, sự tồn tại của doanh nghiệp chính là ở chỗ người quản lý phải giải quyết mâu
thuẫn đó liên tục không ngừng suốt trong thời gian vận động của doanh nghiệp.
Chỉ có thông qua việc giải quyết các mâu thuẫn đó giám đốc mới hiểu rõ năng lực
12


và trạng thái tâm lý của người lao động, giúp cho người quản lý tìm ra được nhưng
biện pháp quản lý phù hợp, thúc đẩy khả năng đóng góp cho doanh nghiệp.
Người lao động làm việc luôn ở trong trạng thái muốn tiến bộ và có nhiều
lo lắng, trăn trở trước công việc chung của xí nghiệp, nếu người quản lý giỏi là
phải hướng những lo lắng đó đi cùng với mục đích của doanh nghiệp. Thomas H.
Melon trao đổi với các nhà quản trị rằng: "Nhân viên của bạn đang lo lắng. Họ lo
lắng sâu sắc về bản thân, về gia đình, về tiến bộ nghề nghiệp và về đời sống lao
động hàng ngày của họ. Nếu bạn có khả năng khơi dậy được nguồn suối đó cho
chảy theo những mục đích của doanh nghiệp của bạn thì bạn sẽ đạt được những
kết quả thật sự làm cho bạn phải chóng mặt".


13


Chương 2
VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀO NGUỒN NHÂN
LỰC TẠI CHI NHÁNH VĂN PHÒNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI THỊ XÃ
TÂN UYÊN - TỈNH BÌNH DƯƠNG
2. Tổng quan về Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Tân
Uyên
2.1. Lịch sử hình thành
Năm 2005, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên trực
thuộc Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Dương được thành lập theo Quyết
định số 262/2005/QĐ-UBND ngày 01/12/2005 của UBND tỉnh Bình Dương.
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên là đơn vị sự nghiệp
chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp, toàn diện của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh
Bình Dương, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên là đơn vị
hạch toán theo cơ chế phụ thuộc vào Văn phòng Đăng ký đất đai
2.2. Cơ cấu tổ chức
GIÁM ĐỐC

Phó giám đốc

Phó giám đốc

Tổ Kỹ thuật đo
đạc và bản đồ

Tổ Đăng ký
và cấp GCN


Tổ Lưu trữ

Tổ Tổng hợp –
Hành Chính
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã
Tân Uyên gồm có:
- Lãnh đạo gồm có: Giám đốc và các Phó Giám đốc.
- Các tổ chuyên môn gồm:
+ Tổ Tổng hợp - Hành chính
+ Tổ Đăng ký và cấp Giấy chứng nhận
+ Tổ Kỹ thuật đo đạc và bản đồ
14


+ Tổ Lưu Trữ
2.3. Chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai
thị xã Tân Uyên:
2.3.1. Chức năng của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thị xã
Tân Uyên
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên thực hiện đăng ký
đất đai và tài sản khác gắn liền với đất; xây dựng, quản lý, cập nhật, chỉnh lý thống
nhất hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai; thống kê, kiểm kê đất đai, cung cấp
thông tin đất đai theo quy định, thực hiện một số dịch vụ chuyên môn kỹ thuật về
đất đai và đo đạc bản đồ.
2.3.2. Nhiệm vụ của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thị xã Tân
Uyên:
- Thực hiện việc đăng ký đất được Nhà nước giao quản lý, đăng ký quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho đối tượng là
hộ, gia đình cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.

- Thực hiện việc cấp lần đầu, cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho đối tượng là hộ,
gia đình cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được
sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam
- Thực hiện việc đăng ký biến động đối với đất được Nhà nước giao quản
lý, đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
cho đối tượng là hộ, gia đình cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
- Thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật cho đối
tượng là hộ, gia đình cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
- Lập, chỉnh lý, cập nhật, lưu trữ và quản lý hồ sơ địa chính trên địa bàn
giao quản lý
- Cập nhật, chỉnh lý, đồng bộ hóa, khai thác dữ liệu đất đai; xây dựng quản
lý hệ thống thông tin đất đai.
15


- Cung cấp hồ sơ, bản đồ, thông tin , số liệu đất đai. Nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất cho các cá nhân.
- Tổ chức, thực hiện hoạt động dịch vụ đo đạc và bản đồ.
- Cung cấp thông tin đất đai từ hồ sơ địa chính.
- Thực hiện công tác tuyển dụng, quản lý, đào tạo bồi dưỡng, khen
thưởng, kỷ luật, chế độ chính sách và các công tác khác có liên quan đoối ới viên
chức người lao động.
- Thực hiện thu phí, lệ phí cấp Giấy chứng nhận, đăng ký biến động đất
đai, đăng ký giao dịch bảo đảm, cung cấp thông tin đất đai, trích đo địa chính thửa
đất, trích lục bản đồ đại chính
- Quản lý và chịu trách nhiệm về tài chính, tài sản thuộc Chi nhánh Văn

phòng Đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên.
- Thực hiện chế độ báo cáo theo quy định hiện hành và thực hiện nhiệm vụ
về các lĩnh vực công tác được giao.
2.4. Thực trạng quản lý nhân sự của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai thị xã Tân Uyên.
Ban Lãnh đạo Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên đã
xem xét khả năng, trình độ, điều kiện, nhu cầu tâm sinh lý của từng người để giao
nhiệm vụ cho phù hợp cụ thể như sau:
Hiện tại, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên tất cả 78
người trong đó:
- Ban Giám đốc gồm có 3 người: 01 Giám đốc và 02 Phó Giám đốc.
- Tổ Tổng hợp - Hành chính gồm có 22 người thực hiện các nhiệm vụ:
Tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả đối với tổ chức và công dân đến liên hệ công tác; hồ
sơ thực hiện theo quy trình ISO 9001:2008, thực hiện các nghiệp vụ về sử dụng và
quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, tổng hợp báo cáo
hàng tuần, tháng, quý, năm cho cơ quan, công tác văn thư, lưu trữ, quản lý và sử
dụng con dấu, công tác tài chính, kế toán.
- Tổ Đăng ký và cấp Giấy chứng nhận gồm có 11 người thực hiện các
nhiệm vụ: Thực hiện việc cấp lần đầu, cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đăng ký biến động
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đăng ký
16


giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất theo quy định của pháp luật cho đối tượng là hộ, gia đình cá nhân,
cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn
liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
- Tổ Kỹ thuật đo đạc và bản đồ gồm có 31 người thực hiện các nhiệm vụ:
Thực hiện hoạt động dịch vụ đo đạc và bản đồ theo Giấy phép hoạt động đo đạc và

bản đồ số 1066 do Cục đo đạc và Bản đồ Việt Nam cấp cho Văn phòng Đăng ký
đất đai tỉnh Bình Dương ngày 05/8/2015 phù hợp với năng lực theo quy định và
trên phạm vi địa bàn được giao quản lý.
- Tổ Lưu Trữ gồm có 11 người thực hiện các nhiệm vụ: Lập, chỉnh lý, cập
nhật, lưu trữ và quản lý hồ sơ địa chính; đồng bộ hóa, khai thác dữ liệu đất đai,
xây dựng, quản lý hệ thống thông tin đất đai; cung cấp thông tin đất đai từ hồ sơ
địa chính.
2.5. Kết quả đạt được:
- Cơ cấu tổ chức, bộ máy thường xuyên được rà soát, kiện toàn cho phù
hợp đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao hàng năm
- Công tác sắp xếp, bố trí và đào tạo nhân sự được quan tâm thường
xuyên, trình độ cán bộ, công chức, viên chức được nâng cao qua các năm
- Doanh thu hoạt động năm sau cao hơn năm trước, đời sống cán bộ, công
chức, viên chức được cải thiện rỏ rệt.
- Các trang thiết bị văn phòng, máy móc kỹ thuật chuyên dụng được đầu
tư trang bị kịp thời theo công nghệ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
2.6. Định hướng phát triển
Việc thành lập Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thuận tiện cho việc
giải quyết các thủ tục hành chính, cho công tác cập nhật chỉnh lý biến động, cho
công tác quản lý và sự phối hợp hoạt động giữa các Văn phòng đăng ký cấp tỉnh
và cấp huyện.
2.7. Ứng dụng phép biện chứng duy vật vào quản trị nhân sự tại Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên
2.7.1. Ứng dụng hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
2.7.1.1. Ứng dụng nguyên lý “Mối liên hệ phổ biến”

17


Trong thế giới vật chất, có vô vàn các sự vật, hiện tượng nhưng tất cả các

sự vật hiện tượng đều có mối liên hệ với nhau và thống nhất ở tính vật chất.
Lãnh đạo một đơn vị là cả một nghệ thuật, vì cùng một lúc cần giải quyết
một cách hài hòa nhiều mối quan hệ trong quá trình điều hành công việc. Muốn
giải quyết tốt mối quan hệ trên, người lãnh dạo cần tránh lối tư duy siêu hình
(không có mối liên hệ với nhau) mà phải nhìn nhận mọi sự vật hiện tượng theo lối
tư duy biện chứng (tức là có mối liên hệ với nhau).
Nhiệm vụ quan trọng nhất của người lãnh đạo là phải đảm bảo hiệu quả
công việc cao nhất. Muốn đạt được điều này, người lãnh đạo cần phải có trong tay
độ ngũ cán bộ giỏi, trung thành và tâm huyết với công việc. Chất lượng của đội
ngũ cán bộ công chức, viên chức, người lao động sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của đơn vị và ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển đơn vị. Do vậy, công tác
tuyển dụng, bố trí và đào tạo nhân sự không thể theo cảm tính, chủ quan mà phải
xuất phát từ thực tiễn công việc của đơn vị.
Mối liên hệ giữa hiệu quả công việc với công tác tuyển chọn, bố trí và đào
tạo nhân sự mà tốt thì sẽ tìm được những người tài giỏi và như vậy hiệu quả công
việc sẽ tăng lên, ngược lại thì hiệu quả công việc sẽ thấp, điều này được thể hiện
qua bảng sau:

Bảng 1. Mối quan hệ giữa trình độ với doanh thu của Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai
Năm

2015

2016

2017

Đại học trở lên


67%

83%

95%

Cao đẳng, trung cấp

30%

15%

5%

Phổ thông

3%

2%

0%

Trình độ

Tổng doanh thu

10.549.366.437
11.787.424.872 20.543.738.129
(Nguồn: CN VPĐKĐĐ thị xã Tân Uyên)


Khi đã tuyển dụng được đội ngũ nhân sự có chất lượng thì người quản lý
cần phải tạo một môi trường làm việc tốt, đánh giá đúng năng lực của từng cá
nhân và đặc biệt là phải làm sao nâng cao đời sống của người lao động. Những
điều này sẽ giúp cho người lao động luôn gắn bó với đơn vị và yên tâm công tác.
18


2.7.1.2. Ứng dụng nguyên lý về “Sự phát triển”
“Phát triển” là một khuynh hướng của vận động theo chiều hướng đi lên
của sự vật, hiện tượng.
Trong công tác quản lý của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã
Tân Uyên chúng ta thấy rằng xu hướng phát triển là chủ đạo. Vì vậy, đối với công
tác nhân sự chúng ta có thể thấy tổng số nhân sự ngày càng tăng vì khối lượng
công việc ngày càng lớn và càng ngày càng phức tạp. Do đó trong cơ cấu nhân sự
thì số lượng nhân sự có trình độ cao cũng ngày càng tăng.
Bảng 2: Bảng cơ cấu nhân sự các năm 2015 đến 2017
Năm

2015

2016

2017

(Người)

(Người)

(Người)


Đại học trở lên

48

63

72

Cao đẳng, trung cấp

20

10

6

Phổ thông

3

2

0

Tổng cộng

71

Trình độ


75
78
(Nguồn: CN VPĐKĐĐ thị xã Tân Uyên)

Trong 02 bảng số liệu ta thấy đối với công tác tuyển chọn nhân sự yêu
cầu ngày một khó hơn. Trình độ đại học trở lên năm 2015 là 48 người đến năm
2017 lên đến 72 người. Đối với doanh thu của Văn phòng cũng ngày càng tăng,
năm 2015 doanh thu chỉ khoảng 10 tỷ đồng nhưng đến năm 2017 doanh thu đã đạt
đến con số 20 tỷ đồng (gấp đôi doanh thu năm 2015). Điều này phù hợp với quy
luật phát triển chung.
2.7.2. Ứng dụng ba quy luật của phép biện chứng duy vật
2.7.2.1. Ứng dụng quy luật “Chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại”
“Chất” là tính qui định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất
hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác.
“Lượng” là tính quy định khách quan vốn có của sự vật biểu thị số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như các
thuộc tính của nó.
Như vậy, “Chất” của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã chính là
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chi nhánh; còn “Lượng” ở đây chính là số
19


lượng phòng ban, số lượng nhân sự, số lượng máy móc thiết bị, số lượng hồ sơ
công việc mà Văn phòng đã giải quyết, doanh thu qua các năm.
Trong thời gian từ năm 2016 đến 2018 ta thấy “lượng” về nhân sự ngày
càng tăng, điều này được thể hiện thông qua bảng 2 kết quả là theo thông tư liên
tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV, Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình
Dương đã giao nhiệm vụ cho Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã đó là:
thực hiện đăng ký đất đai và tài sản khác gắn liền với đất; xây dựng, quản lý, cập

nhật, chỉnh lý thống nhất hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai; thống kê, kiểm
kê đất đai, cung cấp thông tin đất đai theo quy định, thực hiện một số dịch vụ
chuyên môn kỹ thuật về đất đai và đo đạc bản đồ…Điều này thể hiện rõ mối quan
hệ về sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ngược lại, khi đã được
giao thêm nhiệm vụ thì Văn phòng đã tuyển dụng thêm một số nhân lực có trình
độ cao để phục vụ cho công việc. Điều này thể hiện khi chất thay đổi cũng sẽ tác
động ngược trở lại và làm cho lượng có sự thay đổi theo (lượng đổi, chất đổi).
2.7.2.2. Ứng dụng quy luật “Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập”
“Mặt đối lập” là những mặt có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau.
Mọi sự vật đều có những mặt đối lập nhau.
“Sự thống nhất của các mặt đối lập” là những mặt đối lập tạo thành những
mâu thuẫn và đồng thời cũng tạo thành bản thân các sự vật và hiện tượng.
“Đấu tranh giữa các mặt đối lập” là sự tác động lẫn nhau, sự bài trừ, phủ
định và chuyển hóa lẫn nhau.
Trong quá trình phát triển, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã có
thể có 2 xu hướng là “phát triển” hoặc “trì trệ”. Đây chính là hai mặt đối lập của
quá trình phát triển. Hai mặt đối lập này là tổng hòa các mặt đối lập khác như:
muốn phát triển thì cần đào tạo, tuyển dụng nhiều nhân sự có trình độ cao, mà lao
động nhiều và trình độ cao thì lương, thưởng phải trả cho người lao động cũng
cao. Như vậy, sẽ ảnh hưởng đến quỹ lương và ngân sách của đơn vị nhưng công
việc sẽ hiệu quả từ đó sẽ tăng nguồn thu cho đơn vị và làm cho đơn vị ngày càng
phát triển, còn nếu như không đào tạo, không tuyển dụng thì công việc sẽ trì trệ và
làm cho đơn vị ngày càng đi xuống.

20


Như vậy, sự phát triển hay trì trệ luôn tồn tại trong quá trình phát triển, nó
mâu thuẫn với nhau nhưng lại thống nhất trong quá trình phát triển. Vì vậy, người

lãnh đạo cần nắm rõ những mâu thuẫn trong công việc để có thể tìm ra biện pháp
giải quyết phù hợp.
2.7.2.3. Ứng dụng quy luật “Phủ định của phủ định”
“Phủ định” là sự thay thế, chuyển hóa giữa các sự vật và hiện tượng của
thế giới khách quan nói chung.
“Phủ định biện chứng” là sự phủ định do việc giải quyết những mâu thuẫn
bên trong các sự vật, hiện tượng làm xuất hiện cái mới, trong đó yếu tố kế thừa là
tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại và phát triển cái mới.
Như vậy, có thể hiểu ngắn gọn sự phủ định là quá trình cái mới phủ định
cái cũ; còn “phủ định của phủ định” tức là cái mới này lại bị cái mới sau phủ định.
Những lần phủ định như vậy sẽ tạo ra một khuynh hướng phát triển từ thấp đến
cao theo hình xoắn ốc.
Trong quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai thị xã đã nhiều lần thực hiện cải cách thủ tục hành chính và quy trình
nghiệp vụ. Thủ tục mới, quy trình làm việc mới chính là sự phủ định cái cũ nhưng
cái mới sinh ra không phủ định sạch trơn cái cũ mà vẫn lưu giữ những mặt tích
cực của cái cũ và chỉ loại bỏ những mặt hạn chế, những mặt không còn phù hợp
của cái cũ. Điều này được thể hiện thông qua bảng sau:
Bảng 3. So sánh quy trình đo đạc trước và sau năm 2017
Bướ

Quy trình cũ

Quy trình mới

Bước

c
1


Nộp hồ sơ

Nộp hồ sơ

1

2

Kiểm tra nội nghiệp

Kiểm tra nội nghiệp

2

3

Tổ đo đạc

Tổ đo đạc

3

4

Kiểm tra thực tế

Kiểm tra thực tế

4


5

Lập hồ sơ bản vẽ

Lập hồ sơ bản vẽ

5

21


6

Tổ phó tổ kiểm tra nghiệm thu

7

Tổ trưởng tổ kiểm tra nghiệm Tổ trưởng tổ kiểm tra nghiệm

7

8

thu
thu
Đội trưởng đội kỹ thuật nghiệp

8

9


vụ
Lãnh đạo văn phòng

Lãnh đạo văn phòng
(Nguồn: CN VPĐKĐĐ thị xã Tân Uyên)

Qua bảng trên ta thấy quy trình cũ gồm 9 bước nhưng quy trình mới chỉ
còn 7 bước. Như vậy, quy trình mới đã bỏ được 2 bước (bước 6 và 8) của quy trình
cũ vì hai bước này không còn phù hợp nữa nhưng 6 bước còn lại vẫn được giữ
nguyên trong quy trình mới, đây là sự kế thừa những mặt tích cực trong quy trình
cũ. Hiệu quả của quá trình này là đã rút ngắn thời gian thực hiện từ 7 ngày xuống
còn 6 ngày làm việc. Như vậy, hiệu quả công việc sẽ cao hơn, người dân sẽ được
giải quyết công việc nhanh hơn. Để được như trên Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai thị xã phải có một đội ngũ nhân sự có hiều kinh nghiệm và thêm những
nhận sự trợ giúp để hoàn thành tốt công việc.
2.7.3. Ứng dụng sáu cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật
2.7.3.1. Ứng dụng phạm trù “Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất”
“Cái chung” là cái chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ
giống nhau được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
“Cái riêng” là cái chỉ một sự vật, hiện tượng hay một quá trình riêng lẻ của
hiện thực khách quan.
“Cái đơn nhất” là cái chỉ những mặt, những thuộc tính chỉ riêng có ở trong
sự vật, hiện tượng hay một quá trình riêng lẻ.
Từ khái niệm nêu trên và đối chiếu với thực trạng Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai thị xã Tân Uyên thì:
- Cái chung của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã chính là chức
năng, nhiệm vụ, lịch sử và định hướng phát triển của Văn phòng.
- Cái riêng chính là từng phòng ban (Tổ Tổng hợp - Hành chính, Tổ Đăng
ký và cấp Giấy chứng nhận, Tổ Kỹ thuật đo đạc và bản đồ và tổ Lưu Trữ), từng

con người cụ thể trong đơn vị, từng máy móc…
22


- Cái đơn nhất chính là nhiệm vụ của từng phòng ban (vì đối với từng
công việc cụ thể thì chỉ có một phòng ban có thể thực hiện hoặc được giao nhiệm
vụ); mỗi phần mềm chuyên ngành được viết ra cũng chỉ giải quyết một nhiệm vụ
cụ thể mà phần mềm khác không giải quyết được hoặc là giải quyết được nhưng
phức tạp hơn nhiều (ví dụ như phần mềm Microstation thành lập bản đồ địa chính,
Mapinfo thành lập bản đồ chuyên đề…) hay như là có những công việc mà chỉ
một người duy nhất trong cơ quan có thể thực hiện (báo cáo thuế, bình sai GPS…)
những người này cũng chính là những cái đơn nhất.
Như vậy, trong công tác quản trị nhân sự, người lãnh đạo cần dựa vào
những triết lý mang tính biện chứng, nghĩa là phải biết khai thác cái đơn nhất, cái
riêng (cụ thể như những thế mạnh của từng cá nhân, đồng thời phải rèn luyện cho
cá nhân có tinh thần phối hợp với đồng nghiệp để đạt được hiệu quả của cái chung
(cụ thể là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ). Mặt khác, để đạt được cái chung,
người lãnh đạo cần phải chăm lo, đầu tư cho cái riêng, phải có những chế độ ưu
đãi cho cái đơn nhất…
Nhìn chung, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã đã ứng dụng
được phạm trù “Cái chung, cái riêng và cái đơn nhất” vào tình hình hoạt động của
đơn vị. Lãnh đạo Chi nhánh đã đầu tư, trang bị máy móc, thiết bị; áp dụng tất cả
các phần mềm chuyên ngành đất đai vào quản lý và dựa vào thế mạnh của từng cá
nhân để phân công nhiệm vụ rõ ràng, đúng trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
chuyên môn hóa phù hợp quy định và tình hình thực hiện nhiệm vụ thực tế của cơ
quan đơn vị. Tổ chức họp chấm điểm, xếp loại đánh giá viên chức và người lao
động hàng tháng; hàng quý tổ chức sơ kết một lần, biểu dương các cá nhân và tập
thể tiêu biểu, đồng thời đóng góp xây dựng những cá nhân thực hiện nhiệm vụ còn
thiếu sót. Qua đó đã giúp Lãnh đạo cơ quan điều hành công việc đạt chất lượng và
hiệu quả cao đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính của Nhà nước.

2.7.3.2. Ứng dụng phạm trù “Nguyên nhân và kết quả”
“Nguyên nhân” là sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện
tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định.
“Kết quả” là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt
trong một sự vật, hiện tượng với nhau.

23


Đối với người lãnh đạo một cơ quan, hiệu quả công việc (tức kết quả)
chính là cái đích mà người lãnh đạo cần ngắm đến. Từ năm 2015 đến 2017 doanh
thu của Văn phòng đã liên tục tăng qua các năm (từ 10 tỷ 549 triệu năm 2015 lên
11 tỷ 787 triệu năm 2016 và lên 20 tỷ 543 năm 2017), đây chính là kết quả của quá
trình điều hành cơ quan một cách hiệu quả trong đó nguyên nhân không thể thiếu
để có được kết quả trên phải kể đến là việc quản trị tốt nhân sự và chất lượng
nguồn nhân lực.
Từ phân tích trên ta thấy, nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau. Một kết quả nhưng có thể có nhiều nguyên nhân trong đó có những
nguyên nhân chủ yếu (con người) hay nguyên nhân thứ yếu (máy móc, thiết bị…).
Như vậy, để đạt được những kết quả nêu trên lãnh đạo Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai thị xã đã ứng dụng tốt được phạm trù “Nguyên nhân và kết quả”, cụ thể
đã tìm ra những nguyên nhân dẫn đến kết quả, đồng thời phân tích những hạn chế
của giai đoạn trước để có thể tác động vào những nguyên nhân tốt và hạn chế
những nguyên nhân xấu.
2.7.3.3. Ứng dụng phạm trù “Tất nhiên và ngẫu nhiên”
“Tất nhiên” là cái do những nguyên nhân bên trong của sự vật quyết định
và trong những điều kiện nhất định thì nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác
được.
“Ngẫu nhiên” là cái không do mối liên hệ bản chất, mối liên hệ bên trong
quyết định mà do các nhân tố bên ngoài quyết định.

Thị xã Tân Uyên là một trong những địa phương trên địa bàn tình Bình
Dương có tốc độ phát triển khinh tế cao trong những năm gần đây, kéo theo đó dân
số tăng cao, vì vậy nhu cầu sử dụng đất ngày càng lớn, điều này dẫn đến yêu cầu
của công tác quản lý nhà nước về đất đai cũng phải ngày càng hiệu quả hơn. Như
vậy, cái tất nhiên ở đây chính là “phải tìm ra các biện pháp hiệu quả để đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của công việc” như: tăng cường tuyển chọn những nhân
viên lành nghề, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, đội ngủ kỷ sư giỏi để đáp ứng được
nhu cầu công việc; quản trị nhân sự tốt để bộ máy hoạt động hiệu quả và hợp lý.
Trong công tác lãnh đạo, có những công việc mà người lãnh đạo phải thực
hiện mặc dù mình không muốn hoặc không nghĩ nó sẽ xảy ra, đó là những cái
ngẫu nhiên của quá trình điều hành công việc ví dụ như: cán bộ nhân viên giỏi,
24


nắm bắt và giải quyết công việc tốt xin chuyển công tác, đây là một việc ngẫu
nhiên mà người lãnh đạo không mong muốn; hoặc máy móc thiết bị bị hỏng hóc
đột ngột hay phầm mềm chuyên dụng bị lỗi đều là những việc ngẫu nhiên mà
người lãnh đạo không thể lường trước được; hay như là thiên tai bão lụt, hỏa hoạn,
biến động đất đai (hiện tượng nhà đất đóng băng)…làm cho doanh thu bị giảm sút,
đó cũng là những cái ngẫu nhiên không thể lường trước được.
Như vậy, trong công tác quản lý nhân sự ngoài việc tuyển chọn những
nhận sự tốt có chuyên môn người lãnh đạo còn phải đặt vấn đề đào tạo nhân sự
gắn với nhu cầu công việc, cần phải dựa vào những cái tất nhiên để thực hiện
nhiệm vụ của mình nhưng phải tìm hiểu vô vàn những cái ngẫu nhiên để có thể có
được định hướng sự phát triển cho công việc của mình và của đơn vị.
2.7.3.4. Ứng dụng phạm trù “Nội dung và hình thức”
“Nội dung” là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình
tạo nên sự vật, hiện tượng.
“Hình thức” là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Giữa nội dung và hình thức có mối liên hệ qua lại với nhau trong đó, nội

dung giữ vai trò quyết định hình thức, còn hình thức có tính độc lập tương đối.
Đối với một cơ quan như Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã thì
nội dung của nó chính là những chức năng, nhiệm vụ, lịch sử phát triển, định
hướng phát triển…; Còn hình thức chính là những biểu hiện như: cơ cấu tổ chức,
cách thức bố trí nhân sự, cách thức bố trí sản xuất, cách thức bố trí phòng ốc làm
việc, nơi làm việc….
Như vậy, để quản lý tốt cơ quan thì người lãnh đạo cần nắm rõ chức năng,
nhiệm vụ, lịch sử phát triển, định hướng phát triển để từ đó tuyển chọn nhân sự
hợp lý, xây dựng cơ cấu tổ chức, bố trí nhân sự trong cơ cấu tổ chức hợp lý, bố trí
phòng làm việc người làm việc và nơi làm việc một cách hợp lý từ đó hiệu quả
công việc và chất lượng công việc sẽ ngày càng cao. Điều này thể hiện rằng “nội
dung” quyết định “hình thức”.
Ngược lại, hình thức lại có sự độc lập tương đối, tức là có những hình thức
không có sự tác động đến nội dung ví dụ như: cách bố trí nơi nhân sự làm việc
không ảnh hưởng đến lịch sử phát triển. Tuy nhiên, hình thức cũng có sự tác động

25


×