Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

GIÁ TRỊ VĂN HÓA - QUYỀN LỰC ĐƯỢC ĐÁNH DẤU QUA HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ TRONG GIAO TIẾP GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.3 KB, 13 trang )

GIÁ TRỊ VĂN HÓA - QUYỀN LỰC ĐƯỢC ĐÁNH DẤU QUA HÀNH ĐỘNG
NGƠN TỪ TRONG GIAO TIẾP GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT
Ths. Lương Thị Hiền (K.Văn- ĐHSPHN)

I. MỞ ĐẦU
Mỗi nền văn hố có một hệ thống giá trị văn hóa riêng. Dựa trên kết
quả điều tra các doanh nghiệp đa quốc gia (IBM) ở 64 nước, giáo sư
Geert Hofstede (1991) thuộc trường Đại học Limburg tại Maastricht, Hà
Lan đã đưa ra 5 tiêu chí nhằm chỉ ra sự khác biệt văn hóa giữa các quốc
gia, bao gồm: 1- Khoảng cách quyền lực gần hay xa trong các thứ bậc. 2Chỉ số cá nhân/ tập thể chỉ mức độ phụ thuộc và độc lập của cá nhân đối với
tập thể. 3- Tính nam và tính nữ liên quan đến sự phân bố vai trị giới trong
xã hội. 4- Tính cẩn trọng chỉ mức độ lo lắng, hồi hộp mà các thành viên
trong nền văn hóa cảm thấy khi bị đe dọa bởi các tình huống khơng rõ
ràng hoặc khơng chắc chắn. 5- Định hướng dài hạn gắn với sự bền chí và
tính tiết kiệm; và định hướng ngắn hạn gắn với sự tôn trọng truyền thống,
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ xã hội và giữ thể diện.
Những kết quả nghiên cứu của G. Hofstede được sử dụng làm khung
cho những nghiên cứu về ứng xử ngôn ngữ trong các ngữ cảnh giao tiếp
văn hóa và giao tiếp giao văn hóa. Vận dụng thước đo của G. Hofstede,
trong phạm vi ngữ liệu hội thoại gia đình người Việt, chúng tơi tập trung
vào giá trị văn hóa- xã hội thường được nói đến với tư cách tiêu chí đầu
tiên: sự phân cấp về quyền lực (power hierachy). Theo G. Hofstede , sự
phân cấp quyền lực chỉ mức độ phân bố và chấp nhận quyền lực theo
định chế trong các tổ chức có thứ bậc như: gia đình (bố mẹ và con cái),
trường học (thầy và trò), nơi làm việc (chủ và thợ), các hình thức tổ chức
chính trị tập trung hoặc phân chia quyền lực… Sự bất bình đẳng quyền
lực là nhân tố nền tảng trong bất cứ xã hội nào, và các mối quan hệ quyền


lực khác nhau trong xã hội đã điều chỉnh các quyết định lựa chọn các
phương tiện ngôn ngữ ở những cách thức và mức độ khác nhau.


Trong phạm vi bài viết, chúng tôi bước đầu xem xét các hành động
ngôn từ trong mối quan hệ với giá trị văn hóa – quyền lực ở phạm vi
hội thoại gia đình người Việt. Số lượng cuộc thoại được khảo sát là 114,
dựa trên một số quan hệ cơ bản như ông, bà- cháu; cậu, mợ, dì...- cháu;
bố, mẹ- con; vợ- chồng… trong các tác phẩm văn học, bao gồm “Tuyển
tập Nam Cao” - tập 1, tập 2, NXB Văn học, H. 2004, “Nguyễn Công
Hoan- truyện ngắn chọn lọc”- NXB Văn học, H, 2004, và tiểu thuyết “Số
đỏ” của Vũ Trọng Phụng, NXB Văn học, H, 2004.
Về quan điểm để nhận diện “hành động ngôn từ”, chúng tôi đồng ý
với tác giả Mai Xuân Huy (2005) cho rằng: Để nhận diện các hành vi
ngơn ngữ nói chung, cần phải nhận ra được đích giao tiếp hay đích ngơn
trung của lời nói. Nói cách khác, chính đích ngơn trung hoặc mục đích
giao tiếp của lời nói khi phát ra có một giá trị xác định đặc điểm và bản
chất, hay “danh tính của hành vi ngôn ngữ”.
Về quan hệ quyền lực trong giao tiếp gia đình, xét dưới góc độ lý
thuyết, chúng tơi cho rằng có thể phân chia thành ba loại tương quan chủ
yếu căn cứ vào nguồn gốc của quyền lực- vị trí của nhân vật giao tiếp
trong tổ chức gia đình, họ tộc: (1) Giao tiếp với người trên quyền (Con với bố,
mẹ; cháu với ông, bà, chú, bác...), (2) Giao tiếp với người bằng quyền (vợ và
chồng), (3) Giao tiếp với người dưới quyền (bố, mẹ với con; ông, bà với
cháu…).
Giá trị của tham biến quyền lực trong việc lựa chọn các hành động
ngôn từ được hiểu như là sự huy động các nguồn lực ngôn từ của các chủ
thể giao tiếp nhằm tạo những ảnh hưởng đến đối tượng giao tiếp, cụ thể là
gây ra sự tác động, thay đổi, biến chuyển, chỉ đạo… hành động hay thái


độ của đối tượng giao tiếp. Nhằm thiết lập một tương quan quyền lực phù
hợp với vị trí của mình, người tham gia hội thoại phải tiến hành lựa chọn
các hành động ngơn từ thích hợp để xây dựng chiến thuật giao tiếp,

hướng tới một mục tiêu giao tiếp nhất định.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi hoạt động của các hành động ngôn từ
Thống kê sự xuất hiện của các hành động ngôn từ trong phạm vi 114
cuộc thoại giao tiếp gia đình, chúng tơi nhận thấy có một sự biến thiên đi
từ cực này đến cực khác, từ “khơng” đến “có”. Mức chênh lệch trong sử
dụng hành động ngôn từ của các nhân vật giao tiếp thuộc địa vị quyền lực
khác nhau: ơng, bà- cháu; cậu, mợ, dì..- cháu; bố, mẹ- con; vợ- chồng…
là điều dễ dàng nhận ra. Cụ thể là:
1. Có những hành động ngơn từ xuất hiện cả trong lời nói của nhân vật
giao tiếp ở giao tiếp với người trên, giao tiếp với người dưới và giao tiếp
ngang bằng: Bàn, Cam kết, Cảm thán, Đe dọa, Đốn, Đồng ý, Giải thích,
Gọi, Kể, Khen, Khoe, Nhận xét, Phàn nàn, Phủ nhận, Thông báo, Thuyết
phục, Đề nghị.
2. Có những hành động ngơn từ chỉ xuất hiện trong giao tiếp với người
trên mà không xuất hiện trong giao tiếp với người dưới: Giải trình, Mách,
Thanh minh, Thỉnh cầu, Van lạy, Xin phép, Xin lỗi.
3. Có những hành động ngôn từ chỉ xuất hiện trong giao tiếp với người
dưới mà không xuất hiện trong giao tiếp với người trên: Cấm, Cảnh báo,
Cho phép, Chê, Chế giễu, Chửi, Chỉ đạo, Khuyên can, Mắng, Mắng
“yêu”, Mỉa, Nhắc nhở, Ra lệnh, Rủa, Sai bảo, Trách, Yêu cầu.
4. Có những hành động ngôn từ chỉ xuất hiện trong giao tiếp vợ chồng:
Thách thức, Tố cáo; ngược lại có những hành động ngơn từ hoàn toàn


khơng có mặt trong giao tiếp vợ chồng: Cho phép, Xin phép, Giải trình,
Mách, Rủa.

Như vậy, trong số các hành động ngơn từ xuất hiện ở 114 cuộc thoại
gia đình được khảo sát, một số nhóm hành động ngơn từ có phạm vi hành

chức rất hạn chế. Thơng thường những hành động ngôn từ này chỉ xuất
hiện trong những tương quan quyền lực dường như được dành riêng cho
chúng. Sự có mặt của chúng ở địa hạt khác sẽ làm biến đổi hồn tồn tính
chất mối quan hệ quyền lực giữa các nhân vật giao tiếp. Điều này cho
thấy sự lựa chọn các nhóm hành động ngơn từ trong giao tiếp gia đình
chịu một tác động mang tính năng động của áp lực quyền lực; tuy nhiên,
tác động đó khơng đồng đều. Yếu tố quyết định sự có mặt hay vắng mặt
của một số hành động ngôn từ là do sự thay đổi tương quan quyền giữa
chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp.
Căn cứ vào áp lực quyền lực đối với các hành động ngơn từ và tính
loại biệt, đặc trưng của từng hành động ngôn từ trong hội thoại gia đình,
chúng tơi tạm phân thành hai loại:
• Hành động ngơn từ được đánh dấu;
• Hành động ngơn từ không được đánh dấu.
Trong một số trường hợp, khi chủ thể giao tiếp thực hiện hành động
ngôn từ nào đó, ngay lập tức tương quan quyền lực của chủ thể giao tiếp
và đối tượng giao tiếp được xác lập, chúng ta có “các hành động ngơn từ
được đánh dấu”. Ngược lại, các hành động ngơn từ khơng có tính loại
biệt, đặc trưng cho bất kì tương quan quyền lực nào được gọi là “các
hành động ngôn từ không được đánh dấu”. Với loại hành động ngôn từ
này cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố ngôn ngữ khác mới có thể đưa ra
kết luận cuối cùng được.


Chúng tôi quan tâm đến các hành động ngôn từ được đánh dấu. Đây
là các hành động ngôn từ chỉ xuất hiện trong một quan hệ giao tiếp nhất
định, trong tương quan quyền lực một chiều (người dưới với người trên;
hoặc người trên với người dưới) có thể coi là “hằng số” của trường giao
tiếp. Nó cho thấy bản chất hay “bản sắc” của những quan hệ bất bình
đẳng về quyền lực.

2. Phân loại các nhóm hành động ngơn từ đánh dấu quyền lực
Các nhóm hành động ngơn từ được chúng tôi nhận diện, miêu tả và
phân loại sau đây là những hành động ngôn từ được đánh dấu điển hình,
có giá trị như là những “hằng số” ln ln đúng trong những tương quan
quyền lực đặc trưng của nó. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng có tính
chất tương đối nhằm phục vụ cho mục đích khoa học. Sự chuyển dịch từ
phạm vi “hành động ngôn từ không được đánh dấu” sang “hành động
ngôn từ được đánh dấu” và thế cân bằng động của các nhóm hành động
ngơn từ dưới áp lực quyền lực bất bình đẳng chưa phải là vấn đề được
bàn đến trong bài viết này.
Các nhóm hành động ngôn từ đánh dấu tương quan quyền lực bất
bình đẳng có thể phân thành hai nhóm lớn:
• Nhóm hành động ngơn từ đánh dấu quyền lực cao;
• Nhóm hành động ngơn từ đánh dấu quyền lực thấp.
2.1. Nhóm hành động ngơn từ đánh dấu quyền lực cao
Nhóm hành động ngôn từ đánh dấu tương quan quyền lực cao trong
các cuộc thoại gia đình có thể phân thành 7 tiểu nhóm dựa trên cơ sở tính
chất gần gũi về ngữ nghĩa, bao gồm:


- Nhóm Cầu khiến 1
Nhóm hành động ngơn từ Cầu khiến 1 bao gồm các hành động
ngôn từ: ra lệnh, yêu cầu, sai bảo, chỉ bảo. Điểm đồng nhất về đích ngơn
trung của tất cả các hành động ngơn từ này là: SP1 buộc SP2 phải làm
việc gì đó. Trong hội thoại gia đình, SP1 đóng vai trị là người trên, ở vị
thế cao hơn như bố, mẹ, ông, bà, cậu, dì…
Ví dụ: (1) Bố: Chúng mày có im cả khơng, chó ra bây giờ thì mất ăn
(Nam Cao). Ơng bố ra lệnh cho đám con của mình buộc phải im lặng
không được tiếp tục tranh cãi nhau. Bố rõ ràng có quyền lực lớn với các
con.

- Nhóm Chửi mắng
Nhóm hành động ngôn từ Chửi mắng bao gồm các hành động ngôn
từ: trách, mắng, chửi, rủa. Người mắng chửi (SP1) là người cho quyền
phán xét hành vi của người bị chửi (SP2). Trong hội thoại gia đình, SP1
đóng vai trị là người trên, ở vị thế cao hơn như bố, mẹ, ơng, bà, cậu…
Ví dụ: (2) Cậu: Thơi tơi xin quan ơng, quan bà đừng nói khéo. Đồ
đểu! Tao thề rằng từ nay tao khơng họ hàng gì với vợ chồng nhà mày nữa
(Nguyễn Công Hoan). Với phát ngôn này, chủ thể giao tiếp gán cho vợ
chồng SP2 lỗi vu khống, đổ tội ăn cắp và tội bất kính với cậu ruột. Kết
luận hàm ẩn là SP2 là người không có nhân cách đạo đức, khơng xứng
đáng có bất cứ với mối liên hệ nào với SP1. Vị thế SP1 cao hơn.
-

Nhóm Cảnh báo, Cấm

Điểm đồng nhất về đích ngơn trung của tất cả các hành động ngôn
từ này là: SP1 buộc SP2 khơng được phép làm việc gì đó. Tuy nhiên,
mức độ áp đặt trong lời nói chứa các hành động ngơn từ trên thì gia tăng


từ “cảnh báo” đến “cấm”. Trong hội thoại gia đình, SP1 đóng vai trị là
người trên, ở vị thế cao hơn như bố, mẹ, ơng, bà, cậu…
Ví dụ: (3) Mẹ: Ai cho mày chơi với những con nhà đểu ấy! Tao cấm
chỉ chơi với những quân ấy rồi chẳng khỏi mánh du côn (Nguyễn Công
Hoan). Người mẹ cấm con gái mình chơi với con người nhà hàng xóm.
Người mẹ ở vị thế cao hơn có quyền áp đặt cách cư xử cho con mình.
- Nhóm Khun
SP1 đưa ra một ý kiến giải pháp nào đó có tính chất để SP2 tham
khảo. SP1 là là người trên, ở vị thế cao, thường là người nhiều tuổi và
nhiều kinh nghiệm hơn những thành viên khác trong gia đình.

Ví dụ: (4) Bố: Ta chỉ cần một ông thầy thuốc làm bộ hay cho đơn
thuốc mạnh hoặc là hay khệnh khạng, là đủ giết chết nổi cụ via nhà ta rồi
(Vũ Trọng Phụng). SP1 – người cha – đưa ra lời khuyên nên mời thầy
thuốc thế nào để thực hiện được mục đích khiến cho cụ tổ chóng chết,
chứng tỏ mình là người hiểu biết, có kinh nghiệm. SP1 có vị thế cao hơn.
- Nhóm Chê, Chế giễu, Mỉa
SP1 khơng thích một hành vi hay một đặc điểm nào đó thuộc về SP2
và bày tỏ thái độ đó. Trong hội thoại gia đình, SP1 đóng vai trị là người
trên, ở vị thế cao hơn như bố, mẹ, ơng, bà, cậu…
Ví dụ: (5) Mẹ: Gớm, vợ chồng anh dạo này nhiều cái văn minh quá
(Vũ Trọng Phụng). Bà mẹ mỉa mai sự học đòi lối sống văn minh phương
Tây của vợ chồng con trai; bởi vì chính sự cổ vũ Âu hóa của vợ chồng
anh ta là nguyên nhân dẫn đến sự hư hỏng của một thành viên khác trong
gia đình – cơ Tuyết em gái. SP1 bàn luận một điều vói thái độ châm chọc
mỉa mai và vì thế SP1 ỏ vị thế cao hơn.


- Nhóm Tuyên bố, Kết tội
SP1 dùng lời nói khép SP2 vào tội vi phạm chuẩn đạo đức, pháp lý.
Hành vi kết tội này luôn đúng như một hằng số. SP1 có quyền lực cao
hơn SP2 xét ở quyền được quy kết và tun bố. Trong hội thoại gia đình,
khơng chỉ người ở vị thế cao mới được sử dụng hành động ngôn từ này,
mà cả vợ (hoặc chồng) cũng sử dụng trong một số tình huống căng thẳng
để giành lấy ưu thế về quyền lực trước người kia.
Ví dụ: (6) Vợ: Cái sung sướng của tôi chỉ là cái vỏ, cũng như chiếc áo
lụa mầu này, ai biết đâu gói chặt một tấm thân nát bét. Chữ “ tử tế” của
ơng bêu lên cho mọi người giá viết nó thành “bắt bí”, mà đọc là “bóp
nặn” thì đúng hơn. Tơi cứ nói. Rồi tơi đi khắp chỗ quen thuộc bạn bè với
ông, báo với họ rằng: “Mười mấy lần, bà phủ ngủ với trai ngay trong
buồng quan phủ.” (Nguyễn Cơng Hoan). SP1- với vị trí người vợ- khép

tội “bắt bí”, “bóp nặn” cho ơng chồng, nhằm giành lấy ưu thế trong cuộc
tranh cãi, sau khi bị ông này bắt quả tang bà ta đang ngoại tình. SP1 có
quyền lực cao hơn SP2 (xét ở quyền được kết tội).
- Nhóm Cho phép
SP1 có quyền bỏ qua hay khơng bỏ qua cho phép hay khơng cho
phép SP2 làm việc gì đó. Trong hội thoại gia đình, SP1 đóng vai trị là
người trên, ở vị thế cao hơn như bố, mẹ, ông, bà, cậu…
Ví dụ: (7) Mẹ: Con muốn đi thì cứ đi. Hôm nay bu dễ chịu (Nam
Cao). Người mẹ cho rằng đứa con muốn đi chơi nhưng không dám đi vì
chưa được sự cho phép của mẹ. Ý kiến của mẹ có tác động đến sự lựa
chọn, hành vi của đứa con. Tương quan quyền lực trong quan hệ mẹ con
là khơng bình đẳng, tiếng nói quyết định phụ thuộc vào người mẹ. Đây
khơng phải là áp lực mang tính cưỡng chế của một thể chế pháp luật,


nhưng là áp lực văn hóa truyền thống mà các nhân vật giao tiếp trong gia
đình buộc phải tuân theo. Mặc dù, nếu xét một cách bình đẳng về quyền,
thì người con cũng có tự do cá nhân, được phép làm những điều mà nó
muốn.
2.2. Nhóm hành động ngơn từ đánh dấu quyền lực thấp
Nhóm hành động ngơn từ đánh dấu tương quạn quyền lực thấp trong
các cuộc thoại gia đình có thể được phân chia thành 3 tiểu nhóm dựa trên
cơ sở tính chất gần gũi về ngữ nghĩa. Bao gồm:
- Nhóm Cầu khiến 2
Nhóm Cầu khiến 2 bao gồm các hành động ngôn từ: Đề nghị, Thỉnh
cầu, Xin phép, Van nài. Điểm đồng nhất về đích ngơn trung của tất cả các
hành động ngôn từ này là: SP1 cần một cái gì đó ở SP2 (một sự quyết
định, một sự giúp đỡ, một sự tán đồng…). Nhu cầu của SP1 có thể là sản
phẩm vật chất hoặc sản phẩm hữu hình.
Ví dụ: (8) Con: Mợ ơi! Mợ khấn cậu về nữa đi… (Nguyễn Công

Hoan). SP1- đứa bé mồ cơi- đang nài xin mẹ khấn mời bố nó về chơi
cùng nó. SP1 ở địa vị thấp về khả năng thực hiện hành động.
- Nhóm Thưa gửi
Nhóm Thưa gửi cho thấy chủ thể giao tiếp kém đối tượng giao tiếp
về tuổi tác. Trong văn hóa người Việt, những người nhỏ tuổi hơn phải
biểu lộ được sự kính trọng trong lời nói với người cao tuổi hơn thơng qua
những nghi thức ứng xử “đi hỏi về chào”, trước khi trình bày ý kiến cá
nhân phải “thưa, bẩm, gửi”… Nếu không sẽ bị đánh giá về văn hóa ứng
xử, vi phạm tính lễ phép lịch sự.


- Nhóm Thanh minh, Giải trình
SP1 bị coi là có lỗi và SP1 phải làm rõ bản chất sự việc cho SP2
biết.
Ví dụ:
(9)

Mẹ: Mày lấy đâu ra được cái này?
Con: Con mua
Mẹ: Đừng nói thiên nói thẹo
Con: Chứ chẳng mua thì ai cho? Mợ xem. (Nguyễn Cơng

Hoan)
SP1 đang cố thanh minh để thuyết phục SP2 tin rằng mảnh gương là
do SP1 mua. Cịn quyền tin hay khơng tin, tán đồng hay không tán đồng
lại thuộc về SP2. Như vậy, do SP1 bị lệ thuộc, SP1 có vị thế thấp.
Như vậy, có những nhóm hành động ngơn từ đặc trưng cho từng loại
tương quan quyền lực. Khi nhân vật giao tiếp lựa chọn hành động ngôn từ
nào là ngay lập tức tương quan vị thế với đối tượng giao tiếp được bộc lộ.
Nhân vật giao tiếp vị thế cao đặc trưng cho những thay đổi, giành được

cái nó muốn cịn nhân vật giao tiếp ở vị thế thấp đặc trưng bởi sự lệ
thuộc, bị ảnh hưởng, bị chi phối. Các hành động ngôn từ đánh dấu tương
quan quyền lực cao xuất hiện trong giao tiếp của của ông, bà, cậu, mợ với
cháu; bố mẹ với con; vợ với chồng hoặc chồng với vợ (tùy theo các ngữ
cảnh cụ thể). Các hành động ngôn từ đánh dấu tương quan quyền lực thấp
thường chỉ bắt gặp trong phát ngôn của các nhân vật giao tiếp thuộc bậc
em, con, cháu với người bậc trên ông, bà, bố, mẹ...


Khi thực hiện các hành động ngôn từ này, mức độ quyền lực cao hay
thấp của SP1 được tạo nên từ sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố. Áp
lực của quyền lực trên thang bậc tuổi tác, thế hệ trong họ tộc (vốn luôn
tồn tại trong hội thoại gia đình như một bất biến thể) lại được gia tăng
thêm sức mạnh do các nhân tố ngoại phát ngôn (ngữ cảnh – tình huống,
trạng thái tâm lý của đối tượng giao tiếp, mối quan hệ của đối tượng giao
tiếp với hiện thực được nói tới...). Chẳng hạn, vị thế thấp của SP1 còn là
do quan hệ lệ thuộc của SP1 vào SP2. SP2 là người có tiềm năng và
quyền hạn đáp ứng nhu cầu của SP1; còn SP1 buộc phải thực hiện hành
động ngơn từ đạt được mục đích thỏa mãn nhu cầu: một sự cho phép, một
sự giúp đỡ (Nhóm cấu khiến 2), một sự minh oan, một sự tán đồng, một
sự thơng cảm (Nhóm Thanh minh)… Cịn vị thế cao là do quyền chủ
động thuộc SP1, SP1 là người nắm giữ chân lý, đạo đức (Nhóm Chửi
mắng) người có nhiều kinh nghiệm (Nhóm Khuyên), người có phẩm chất
cá nhân hơn đối tượng giao tiếp (Nhóm Chê mỉa)… Hoặc SP2 là người
mắc lỗi, làm phương hại đến SP1 nên trước SP1 trở nên yếu thế.
Các hành động ngôn từ mang tính loại biệt này có giá trị đánh dấu
những tương quan quyền lực đặc thù do phạm vi hoạt động hạn chế của
nó. Nhờ đó, ta có thể đưa ra những nhận định bước đầu về vị thế, thứ bậc
của các nhân vật giao tiếp trong phạm vi gia đình.
III. KẾT LUẬN

Mức độ quyền lực mà một nhân vật giao tiếp nắm giữ là một trong
những nhân tố quy định sự có mặt hoặc vắng mặt của các hành động ngôn
từ trong hệ thống hành động ngôn từ mà mỗi nhân vật giao tiếp sử dụng.
Hồn tồn có thể coi sự lựa chọn các hành động ngôn từ của các nhân vật
giao tiếp là những biến thể hình thành dưới áp lực của tương quan quyền
lực. Những biến thể đó phản ánh các thay đổi thái độ của chủ thể giao


tiếp về địa vị, tư cách và chiến lược giao tiếp; tạo ra các biến động về
hình ảnh cá nhân người nói và người nghe. Thật vậy, mỗi loại tương quan
sẽ có những “hằng số”: đó là nhóm hành động ngôn từ được đánh dấucông cụ và phương tiện hiện thực hóa quan hệ giữa các nhân vật giao
tiếp.
Như vậy, sự có mặt hay vắng mặt các hành động ngơn từ trong hệ
thống hành động ngôn từ nối kết với giá trị văn hóa- xã hội: nhận thức về
tính tầng bậc ở tầm sâu quá trình giao tiếp. Dù hiện diện dưới dạng áp lực
hay chỉ là những dấu tích thì yếu tố quyền lực vẫn là một trong những
tham biến văn hóa đặc thù và điển hình, tạo nên các khác biệt trong sử
dụng ngôn từ của các chủ thể văn hóa (hay nhân vật giao tiếp) trong giao
tiếp gia đình người Việt.
CHÚ THÍCH
SP1: Người nói thứ nhất; SP2: Người nói thứ hai
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hịa, Khía cạnh văn hóa của phân tích diễn ngơn, Ngơn ngữ.2005.- Số 12.- Tr.16-25.
2. Hofstede G. H, Cultures and organizations: Software of the mind, New
York : McGraw-Hill , 1991.
3. Mai Xuân Huy. Ngôn ngữ quảng cáo (dưới ánh sáng của lý thuyết giao
tiếp). NXB Khoa học xã hội. H. 2005.
4. Lương Văn Hy (chủ biên), Ngơn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn
tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, H, 2000.
5. Phan Huy Lê (chủ biên), Các nhà Việt Nam học nước ngoài viết về Việt

Nam (2 tập), NXB Thế giới, H, 2002.


Chúng tơi tạm gọi “nhóm cầu khiến 1” chỉ xuất hiện trong giao tiếp người trên
với người dưới, để phân biệt với “nhóm cầu khiến 2” chỉ xuất hiện trong giao
tiếp người dưới với người trên ở mục.2. 2
(Source: Hội thảo Khoa học Trẻ I - khoa Ngữ văn )



×