Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

SKKN: Phương pháp dạy tiết trả bài TLV ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.27 KB, 29 trang )

Đề tài: Phương pháp dạy tiết trả bài Tập làm văn ở Trường THCS

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP DẠY TIẾT TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN Ở TRƯỜNG

1


MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. GIỚI THIỆU CHUNG
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
V. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
II. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY TIẾT TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN
1.
Đối với giáo viên.
2. Đối với học sinh
1 Về phía cha mẹ học sinh
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1.
Xác định mục tiêu
2. Để giảng dạy tiết Trả bài đạt kết quả cao giáo viên cần chuẩn
bị tốt khâu chuẩn bị.


3. Tiến hành khâu trả bài theo 6 bước.
4. Giáo án minh họa tiết “Trả bài viết tập làm văn”
IV. HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.
Kết quả đạt được
2. Bài học kinh nghiệm của những năm qua.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
II. KHUYẾN NGHỊ

22

PHẦN I . ĐẶT VẤN ĐỀ
I.

GIỚI THIỆU CHUNG
Những thập niên gần đây, vấn đề dạy Văn trong nhà trường phổ thông ngày

càng được quan tâm nhiều hơn. Không phải ngẫu nhiên mà môn Văn trong nhà
trường trở thành một vấn đề trung tâm được chú ý trong xã hội ngày nay. Năm
1963, đồng chí Tố Hữu đã nói chuyện với anh chị em giáo viên thủ đô về vấn đề
dạy học Văn. Đồng chí Phạm Văn Đồng trong buổi nói chuyện và bài viết về
2


giáo dục đã đặt ra những vấn đề tư tưởng lớn đối với việc dạy học Văn trong
nhà trường phổ thông. Việc dạy học Văn đã được sự đóng góp xây dựng của
nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu giáo dục có uy tín lớn. Các ý kiến đều thể hiện
lòng mong muốn nâng cao chất lượng của việc học Văn trong nhà trường phổ
thông. Song do kinh nghiệm cá nhân hay góc nhìn nhận vấn đề khác nhau nên

mỗi người nhấn mạnh ở một khía cạnh khác nhau.
Để có một cách nhìn toàn diện về môn Văn về việc dạy học Văn trong nhà
trường, tránh những khuynh hướng phiến diện hay những ý kiến cực đoan
chúng ta cần có một cách nhìn hệ thống về môn Văn với mối liên hệ hữu cơ với
những yếu tố bên ngoài môn Văn nhưng lại có tác động trực tiếp khá quyết định
đối với bản thân môn Văn và những người nghiên cứu giảng dạy môn này trong
nhà trường phổ thông.
Để bắt nhịp với thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thế kỷ XXI, đáp ứng
được mục tiêu giáo dục đào tạo của nước ta là đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, có sức khỏe và thẩm mĩ cao... hơn lúc nào
hết người thầy cần phải tạo được sự ham muốn học tập cho học sinh của mình.
Horaceman đã từng nói: “Một ông thầy mà không dạy cho học sinh được ham
muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi”. Vì vậy muốn tạo được
ham muốn học tập ở các em người giáo viên cần phải đào sâu suy nghĩ, tìm tòi
để tìm ra những phương pháp dạy học đạt hiệu quả cao nhất.
II.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Phân môn Tập làm văn là một môn có tầm quan trọng trong tất cả các môn học
vì chúng quyết định về nhiều mặt. Trong tất cả các môn học đều phải sử dụng
đến hành văn để làm như : Toán, Lịch sử, Địa lý…môn Tập làm văn còn có tầm
quan trọng cho đến cả sau này khi học sinh không còn học trong trường phổ
thông nữa thì môn Tập làm văn vẫn là hành trang để các em đi vào đời. Học
sinh có làm văn tốt thì giao tiếp mới lưu loát được,muốn có một bài diễn thuyết
hay, có tính thuyết phục thì phải có hành văn tốt.Vậy có thể nói môn Tập làm
văn có ảnh hưởng rất lớn trong cuộc sống.Chính điều đó mà mỗi người thầy
đứng trên bục giảng trăn trở, suy nghĩ dạy như thế nào để các em có thể lĩnh hội
3



môn này một cách tốt nhất,làm sao phát huy được khả năng của học sinh , phát
huy ngôn ngữ của học sinh đó là vấn đề mà mỗi người giáo viên cần nghiên
cứu để đạt chất lượng cao cho giờ dạy.
Như chúng ta đã biết từ năm học 2001 - 2002, nước ta đã bắt đầu áp dụng đồng
loạt cho việc dạy và học theo phương pháp mới (phương pháp dạy và học tích
cực) đến nay đã áp dụng đồng loạt cho tất cả các cấp học. Vì vậy, dạy và học
tích cực môn Ngữ Văn nói chung và phân môn Tập làm văn với tiết “Trả bài
viết” nói riêng ta sẽ dạy như thế nào cho phù hợp với phương pháp dạy và học
tích cực hiện nay. Vì trên thực tế tiết học này đã được Phòng Giáo dục, tổ
chuyên môn trong trường bàn bạc thống nhất và áp dụng từ rất lâu. Nhưng để
thực hiện giờ dạy trả bài như thế nào đạt hiệu quả cao nhất đó cũng là trăn trở
của rất nhiều giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong Trường THCS và giờ
trả bài có một vị trí rất quan trọng. Mục đích là rèn cho học sinh kỹ năng kiểm
tra, đánh giá, tự điều chỉnh bài viết của mình. Đây là kỹ năng quan trọng trong
hoạt động giao tiếp. Học sinh biết tự sửa lỗi cho mình và cho bạn, tự học tập để
luôn luôn tiến bộ.
Phân môn Tập làm văn tiếp tục phát huy kết quả học tập môn Tiếng Việt ở cấp
Tiểu học để giúp học sinh nâng cao trình độ kiến thức, kĩ năng và phương pháp
làm văn lên một bước. Tập làm văn giúp học sinh hoàn thiện bốn kỹ năng ngôn
ngữ: nghe - nói - đọc - viết. Từ đó nâng cao năng lực ngôn ngữ giúp các em
giao tiếp và tư duy đạt hiệu quả cao hơn vì sản phẩm cuối cùng của Tập làm văn
là tạo lập được văn bản theo các loại khác nhau với những đề tài và tình huống
khác nhau phục vụ cho học tập cũng như trong cuộc sống.
Tập làm văn mang tính chất thực hành và ứng dụng cao vừa là phương tiện vừa
là mục đích của quá trình tích cực hóa của các hoạt động Ngữ văn trong nhà
trường . Tập làm văn là hoạt động có khả năng rèn luyện kỹ năng diễn đạt, có
tính chất tổng hợp để học sinh sử dụng thành thạo vào trong quá trình giao tiếp.
Nhiệm vụ cơ bản là hoàn thành, phát triển năng lực và tạo lập văn bản cho học
sinh dưới hình thức nói và viết một cách tổng hợp, sáng tạo với những hình thức

đã tiếp thu được qua môn học để nói và viết theo những đề tài, yêu cầu khác
4


nhau.
Từ thực tiễn giảng dạy trong những năm tới thấy rõ được tầm quan trọng của
tiết Trả bài đó là sản phẩm mà các em đã đạt được qua quá trình lĩnh hội kiến
thức. Để tiết Trả bài các em thấy hứng thú không bị nhàm chán điều đó đã trở
thành động lực giúp tôi đi sâu nghiên cứu đề tài này.
III.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng là các tiết trả bài môn ngữ văn bậc Trung học cơ sở.

Để tiến hành nghiên cứu và viết ra sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã tìm hiểu
kĩ các tiết dạy Trả bài tập làm văn mà tôi dạy nhiều năm ở các lớp. Qua trao đổi
với đồng nghiệp và tìm hiểu kĩ để tìm ra phương pháp dạy tiết Trả bài sao cho
học sinh cảm thấy thoải mái, hào hứng mà không thấy gò bó, e ngại khi nhận
ưu, khuyết điểm trong bài làm của mình. Từ thực tế giáo dục trong những năm
qua tôi xin mạnh dạn trình bày đề xuất để các thầy cô và các bạn tham khảo.
IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sáng kiến kinh nghiệm này kết hợp các phương pháp quan sát khách quan
(dự giờ thăm lớp) phương pháp thực nghiệm giảng dạy, phương pháp điều tra cơ
bản, dùng câu hỏi trắc nghiệm, đặt ra cho một số học sinh, giáo viên trả lời
nhằm thu thập ý kiến của họ về vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp đọc tài liệu, phương pháp so sánh phân tích cũng được áp
dụng rút ra những tổng kết để viết Sáng kiến kinh nghiệm.
Lấy thực nghiệm việc giảng dạy tiết trả bài ở trên lớp để đánh giá kết quả
nhận thức của học sinh, để từ đó tìm hiểu nguyên nhân rút ra hướng rèn luyện
học sinh.

* Chất lượng trước khi thực hiện đề tài
Lớp

Bài viết số 1
G

K

TB

Y

Kém

1

8

15

5

0

%

3.4%

27.6%


51.7%

17.3%

0

SL

12

16

6

0

0

Sĩ số
9A
SL
29
9B

5


%
SL
%


35.3%
13
20.6%

47.1%
24
38.1%

17.6%
21
33.3

0
5
8

0
0
0

IV.THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Thời gian một năm học.( năm học 2016 – 2017)
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

CƠ SỞ KHOA HỌC.

Con người tồn tại và phát triển trong xã hội cần phải có một nguồn lực quan
trọng đó là nguồn lực giao tiếp. Trong các hình thức giao tiếp của con người thì

hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ là quan trọng nhất. Giao tiếp bằng ngôn ngữ
gồm có những nhân tố tham gia là mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp,
phương tiện giao tiếp, đối tượng giao tiếp, nhiệm vụ giao tiếp và hoàn cảnh giao
tiếp. Mỗi nhân tố đóng vai trò quan trọng trong quá trình giao tiếp tạo nên thành
công trong giao tiếp.
Mỗi bài viết Tập làm văn thường có một tiết Trả bài tương ứng, chương trình có
sự quan tâm và chú trọng đến tiết Trả bài. Song sự bố trí thời lượng chưa có sự
thống nhất. Hầu hết các tiết trả bài Tập làm văn đều tiến hành trong một tiết tuy
nhiên có những tiết trả bài cùng với bài kiểm tra Văn hay Tiếng Việt. Có bài
kiểm tra được bố trí tiết trả bài ,có bài không được bố trí thành một tiết mà là
lồng ghép với tiết khác.
Để đáp ứng những mục tiêu mới của giáo dục, việc kiểm tra đánh giá cũng phải
theo phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh nhằm phát triển trí thông
minh sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt kiến thức, kỹ năng
đã học vào những tình huống thực tế làm bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ thái
độ của học sinh trước những vấn đề đặt ra trong cuộc sống phức tạp hiện nay.
Kiểm tra đánh giá có vai trò ý nghĩa đối với học sinh và giáo viên vì qua kiểm
tra đánh giá sẽ giúp cho giáo viên và nhà quản lý giáo dục và bản thân người
học có những thông tin chính xác để có tác động kịp thời nhằm điều chỉnh và bổ
6


sung phương pháp trong quá trình dạy và học.
II. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY TIẾT TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN.
1. Đối với giáo viên.
- Các tiết dạy Trả bài tập làm văn không có tài liệu soạn mẫu hay mô hình bài
soạn để tham khảo, thậm chí trong các đợt tập huấn soạn giáo án mấy năm trước
đây cũng không thấy đề cập đến cách soạn.
- Chưa có sự thống nhất cách soạn giảng và chưa coi trọng thỏa đáng đến mục
tiêu hiệu quả của các tiết dạy Trả bài tập làm văn.

- Không dự giờ, đánh giá và xếp loại giáo viên đối với bài giảng tiết Trả bài tập
làm văn.
- Chưa thật sự chú trọng đến thao tác hướng dẫn học sinh tìm ra nguyên nhân và
cách sửa chữa những yếu kém trong bài viết của học sinh.
- Giáo viên vốn quan niệm “giáo án chỉ là hình thức đối phó” nên ít tìm tòi, sáng
tạo, hoặc còn xem nhẹ, không đầu tư, không quan tâm đúng mức đến tác dụng,
ý nghĩa và tầm quan trọng của việc soạn bài, không nghiên cứu kĩ và soạn qua
loa tiết Trả bài tập làm văn “ vì quan niệm do xưa nay không có ai đi dự giờ
những tiết Trả bài bao giờ cả” nên các tiết trả bài chung chung và trừu tượng.
- Tổ nhóm chuyên môn chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình nên tiết
Trả bài đạt hiệu quả chưa cao.
2. Đối với học sinh.
- Bản chất của môn Tập làm văn không phải là bắt chước máy móc.Nếu bắt
chước mãi thì sẽ không còn gì là của riêng mình thì sẽ trở thành người máy.
Như vậy phương pháp dạy học phát huy năng lực của học sinh không đạt được
hiệu quả.
- Đa số học sinh có thói quen học vẹt bài văn mẫu mà không nắm vững các kĩ
năng viết văn. Mặc dù trong chương trình học các em đã được tìm hiểu lý thuyết
cách tạo lập từng kiểu văn bản.
- Khi viết bài các em nhớ các thao tác, các bước tạo lập văn bản nhưng lại mơ
hồ trong thực hiện từng bước đó.
Qua việc chấm bài của các em tôi phát hiện ra nhiều em thường mắc lỗi về cách
7


diễn đạt về nội dung đặc biệt là lỗi hình thức thường không được khắc phục.
Nói như vậy, có nghĩa là ở bài viết Tập làm văn sau, học sinh không hề rút ra
được kinh nghiệm từ bài viết trước để khắc phục.
3. Về phía cha mẹ học sinh.
- Một vấn đề nữa đó là về phía cha mẹ học sinh có tâm lý khá phổ biến là muốn

cho con em học môn Toán và các môn tự nhiên, rất ít cha mẹ muốn cho con học
bộ môn Văn nếu không có yêu cầu của giáo viên.
- Cha mẹ học sinh cũng còn nhược điểm là ít mua sách Tập làm văn cho các em
đọc thường chiều theo ý thích của con. Rất ít gia đình xây dựng cho con tủ sách
phục vụ tốt cho việc học môn Văn.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIÊN.
1. Xác định mục tiêu.
Ở mỗi tiết trả bài cần đảm bảo những yêu cầu sau:
* Kiến thức: Học sinh nắm được những kiến thức về các kiểu văn bản thường
dùng và các tri thức tạo lập các kiểu văn bản đó với những kĩ năng phù hợp.
Phối kết hợp nhuần nhuyễn với kiến thức về văn học và cả vốn sống.
* Kỹ năng: Học sinh có kỹ năng viết Tiếng Việt thành thạo. Viết không phải chỉ
viết đẹp, đúng chính tả mà quan trọng hơn phải biết các thao tác tạo lập văn bản
với 4 bước cơ bản.
+ Tìm hiểu đề - tìm ý
+ Lập dàn ý
+ Tạo lập văn bản (viết bài)
+ Đọc và sửa chữa.
* Thái độ:
Nâng cao ý thức giữ gìn sự giàu đẹp của Tiếng Việt, có hứng thú và thái độ
nghiêm túc khoa học trong việc học tập bộ môn, ý thức và biết cách ứng xử
trong giao tiếp một cách có văn hóa, yêu quý những giá trị Chân, Thiện, Mỹ và
khinh ghét những cái xấu xa, độc ác, giả dối...
2. Để giảng dạy tiết Trả bài đạt kết quả cao giáo viên cần chuẩn bị tốt khâu
chuẩn bị.
8


Giờ trả bài tập làm văn có tầm quan trọng đặc biệt. Việc quyết định cụ thể, chặt
chẽ về giờ trả bài theo phân phối chương trình của bộ môn Ngữ văn đã thể hiện

được điều đó. Người giáo viên Ngữ văn không được phép quan niệm trả bài là
hoàn lại bài viết và công bố điểm số cho học sinh. Trả bài là hoạt động có tính
chất rút kinh nghiệm, phân tích cái hay, cái dở, chỗ mạnh, chỗ yếu trong từng
bài làm của học sinh. Giúp các em chữa những lỗi đã mắc phải về nội dung kiến
thức cũng như kĩ năng viết bài. Qua tiết trả bài các em có dịp nhìn lại quá trình
học tập của mình. Trên cơ sở đó có kế hoạch củng cố, nâng cao kiến thức, kĩ
năng viết văn của bản thân để vươn lên ở những bài sau đạt số điểm cao hơn.
Để tiến hành tiết Trả bài tập làm văn đạt hiệu quả, ngoài việc nhận thức đúng
đắn giá trị của tiết trả bài. Mỗi một người giáo viên dạy Văn phải có một sự
chuẩn bị cho giờ trả bài một cách công phu, kỹ lưỡng bằng cả lương tâm và
trách nhiệm của một người thầy đứng trên bục giảng .Giáo viên không được trả
bài một cách tùy tiện mà phải tiến hành tiết trả bài trong một tiết học theo 6
bước với một giáo án trả bài nghiêm túc. Trước khi trả bài người giáo viên cần
phải:
* Nghiên cứu đáp án, biểu điểm và phiếu tổng kết, phiếu chấm bài sau khi đã
tiến hành chấm bài làm văn để có những thông tin tương đối chính xác về bài
làm cũng như kết quả bài đã chấm của học sinh cần thiết giáo viên thống kê
được các lỗi đã mắc của học sinh, dự định được các lỗi cần chữa, những đoạn,
bài văn hay.
* Thiết kế giáo án trả bài phù hợp với đối tượng học sinh theo quan điểm tích
hợp và đổi mới phương pháp dạy học. Giáo án trả bài không đơn thuần là sắp
xếp thứ tự các tri thức cần truyền đạt. Nó phải là một kết cấu chặt chẽ, linh hoạt
các đơn vị kiến thức cần đạt của tiết trả bài. Hệ thống kiến thức đó phải được
học sinh chủ động chiếm lĩnh dưới sự dẫn dắt của giáo viên. Muốn vậy, ngay
khi thiết kế giáo án trả bài, giáo viên phải dự kiến sử dụng phương pháp, các
thao tác dạy học cụ thể để cho mỗi bước trong quá trình dạy học tiết trả bài đạt
kết quả tốt. Học sinh thấy say mê và hứng thú hơn không còn cảm giác đơn
điệu, nặng nề khi nhận kết quả học tập không được tốt.
9



Ví dụ: Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp học vui, phương pháp nêu
vấn đề với bước tìm hiểu đề, lập dàn ý, chữa lỗi, phương pháp diễn giảng trong
bước nhận xét, đánh giá bài làm của học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên cần phải
chuẩn bị hệ thống câu hỏi có tính gợi mở để học sinh suy nghĩ, trả lời trong quá
trình tiến hành các bước trả bài.
Có thể trả bài trước cho học sinh 2 đến 3 ngày với những yêu cầu cụ thể.
Yêu cầu các em chuẩn bị tốt tài liệu, đồ dùng học tập (tạp phẩm, bút dạ, bảng
phụ v.v...)
Giáo viên cũng cần yêu cầu học sinh nhận thức lại kiến thức lý thuyết về kiểu
bài, yêu cầu của đề bài và tự xây dựng dàn bài cho đề đã viết. Nếu học sinh thực
hiện tốt yêu cầu này của giáo viên việc trả bài trên lớp sẽ tiết kiệm được thời
gian, các em cũng sẽ chủ động, tích cực hơn trong việc phát biểu ý kiến xây
dựng bài học. Ngoài ra, các em còn có điều kiện đối chiếu dàn bài của mình với
dàn bài chung đã được lớp xây dựng, thống nhất dưới sự hướng dẫn của thầy cô.
Ở những trường có điều kiện cần khai thác có hiệu quả phương tiện dạy học,
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy. Cần thiết tích hợp
với kết quả của quy trình học nghề tin học luyện tập bằng phương tiện dạy học
hiện đại (các em có thể trình bày bài tập, thực hành của mình ghi trong đĩa
mềm, đọc và ghi vào đĩa CD... theo sự hướng dẫn của thầy).
Bên cạnh đó giáo viên cần chuẩn bị phiếu chấm bài cho cả lớp cũng có thể dùng
phiếu chấm bài cho từng cá nhân học sinh,mỗi bài viết là một trang phiếu.Dựa
trên phiếu này có thể theo dõi được sự tiến bộ của học sinh qua từng bài chấm
tiếp theo.
Để đánh giá được sự tiến bộ của học sinh trong suốt năm học mỗi giáo viên có
phiếu chấm bài ghim lại thành cuốn sổ theo dõi, ghi chép tóm tắt kết quả, những
ưu điểm cũng như những tồn tại của mỗi em ở từng bài làm ( Kĩ năng, bố cục,
diễn đạt, dùng từ, đặt câu, chính tả, chữ viết…)
* Ví dụ1 : 1. Trần Ngọc Tố Uyên
Bài TLV

1

Điểm
6

Ưu điểm
- Bố cục rõ ràng
10

Tồn tại
- Chính tả còn 5 lỗi


- Diễn đạt tương đối mạch lạc - Dùng từ : 3 lỗi
- Chữ viết cẩn thận.
7
2

- Đặt câu : 2 lỗi
- Chính tả: 1

- Như trên

- Dùng từ : 2

- Có tiến bộ

- Đặt câu : 1
Nhìn vào kết quả bài viết của học sinh giáo viên sẽ thấy và thấy rất rõ sự tiến bộ
nhanh hay chậm ở từng em.Từ đó giáo viên sẽ có những biện pháp thích hợp để

giúp học sinh hạn chế những lỗi mà các em hay mắc. Công việc này đòi hỏi sự
tỉ mỉ, mất thời gian hơn song chắc chắn sau năm học học sinh sẽ có tiến bộ hơn.
* Ví dụ 2: Giáo viên cũng có thể xây dựng phiếu chấm chữa cho cả lớp. Cụ
thể từng bài, điểm số,% và những ưu điểm, nhược điểm, phương hướng khắc
phục.
TRƯỜNG THCS
Tổ: Xã hội
PHIẾU CHẤM CHỮA
Bài kiểm tra số: ……Học kỳ:…..
Ngày:…..tháng…..năm 2017
Lớp :……….
GV dạy:……
Kết quả: Tổng số bài: ……..

Điểm
0 -1,5
2 - 4,5
5 - 6,5
7

Số lượng

Phần
(%)

trăm

Ghi chú

-


9,5
10
I. Ưu điểm:
……………………………………………………………………………………
11


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
II. Nhược điểm:
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
III. Phương hướng khắc phục:
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
3. Tiến hành khâu trả bài theo 6 bước.
* Bước 1: Khởi động.
Giáo viên cần phải tạo tâm thế cho học sinh tham gia tiết trả bài. Bước này cần
được tiến hành ngắn gọn. Giáo viên nên chủ động dùng lời dẫn dắt thật sinh
động, thuyết phục, gây ấn tượng để thu hút học sinh và tạo không khí thoải mái
cho giờ trả bài. Lời dẫn dắt của giáo viên cần thể hiện rõ mục tiêu, ý nghĩa của
giờ trả bài để học sinh chủ động, tập trung vào bài học tạo sự say mê hứng thú
cho học sinh.
* Bước 2: Giáo viên cần nhận xét chung bài làm của học sinh.
- Tổ chức cho học sinh tái hiện và tìm hiểu đề bài.

Giáo viên có thể chia lớp ra thành các nhóm và nêu yêu cầu thực hiện, ghi lại đề
bài của bài viết, nêu rõ đề bài yêu cầu người viết phải giải quyết vấn đề gì? Đề
bài thuộc kiểu loại văn bản gì? Cần vận dụng kỹ năng viết kiểu bài nào để giải
quyết yêu cầu của đề? Phạm vi tư liệu cần sử dụng để làm bài? (Tư liệu lấy từ
thực tế đời sống xã hội hay tác phẩm văn học nào?) Sau khi các nhóm trình bày
và nhận xét phần việc đã làm của nhóm khác, giáo viên chiếu lên màn hình đề
bài và yêu cầu của đề về 4 mặt:
+ Thể loại
12


+ Nội dung kiến thức
+ Kỹ năng làm bài.
+ Giới hạn - phạm vi tư liệu được sử dụng
- Tổ chức cho học sinh xây dựng dàn ý của bài văn.
Việc xây dựng dàn ý là giúp học sinh tìm ra các ý lớn, ý nhỏ các phần phù hợp
với đề bài của bài viết. Sau đó sắp xếp chúng thành một dàn ý có bố cục chặt
chẽ, đảm bảo tính lôgic. Việc lập dàn ý trong giờ trả bài là một dịp tốt để các em
đối chiếu, nhìn lại những ý lớn, ý nhỏ đã nêu trong bài viết, tự đánh giá mức độ
đạt, chưa đạt trong bài làm. Với những học sinh yếu đây là cơ hội để củng cố,
rèn luyện bồi đắp thêm kĩ năng lập ý. Ngoài ra, rất nhiều kiến thức về đời sống
xã hội và văn học sẽ được củng cố, khắc sâu trong học sinh nhờ bước thứ ba này
của khâu trả bài làm văn.
Việc lập dàn ý cần được tiến hành tuần tự từ mở bài đến thân bài và kết bài, giáo
viên cũng có thể chia lớp thành các nhóm để làm việc. Sau khi các nhóm báo
cáo kết quả làm việc, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, nhận xét, bổ
sung để đi đến một dàn bài thống nhất.
Để học sinh thực hiện việc dàn ý cho các phần giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi
mở, hướng dẫn. Ví dụ về văn nghị luận, với mở bài cần nêu được vấn đề phải
nghị luận. Trong bài viết, dự kiến nêu vấn đề đó theo cách trực tiếp hay gián

tiếp. Với thân bài cần trả lời được các câu hỏi:
+ Thân bài có mấy ý lớn, là những ý gì?
+ Mỗi ý lớn đó cần được cụ thể hóa thành các ý như nào?
+ Ở mỗi ý nhỏ dùng lý lẽ, dẫn chứng nào để phân tích, chứng minh làm rõ
+ Thứ tự sắp xếp các ý như thế nào?
Ở phần kết bài, cần tổng kết một cách ngắn gọn, khái quát về vấn đề đã nghị
luận, thể hiện suy nghĩ liên hệ của người viết về đời sống từ vấn đề nghị luận.
Chọn cách nào để kết bài? (khái quát, tóm lược hay vận dụng, mở rộng phát
triển hay liên tưởng).
Trong quá trình hướng dẫn học sinh lập ý, giáo viên cần tôn trọng và khuyến
khích những ý tưởng độc đáo, sáng tạo của học sinh đề xuất. Điểm nào giáo
13


viên thấy chưa hợp lý, thiếu cơ sở cũng cần cho học sinh tranh luận, đối thoại,
sau đó giáo viên tổng kết các ý kiến và đưa ra kết luận có tính thuyết phục, tránh
áp đặt.
- Giáo viên nhận xét đánh giá chung về bài làm của học sinh.
Bước này giúp học sinh nhận ra và nắm được tình hình bài làm của mình, của
các bạn trong lớp. Đây là bước chuẩn bị tiếp theo cho việc phân tích, chữa lỗi
trên các bài làm của học sinh. Những nhận xét đánh giá của giáo viên về bài làm
của học sinh chỉ thực sự có cơ sở và sức thuyết phục khi giáo viên làm tốt.
- Tổng kết bài chấm trong khâu chấm bài.
Giáo viên đưa ra bảng tổng hợp đã nêu ở trên màn hình hoặc bảng phụ để học
sinh quan sát và phát biểu ý kiến của mình sau đó giáo viên mới đánh giá về
tình hình bài viết của các em trên những phương diện như tinh thần, thái độ viết
bài, những ưu nhược điểm chính, những hiện tượng đáng chú ý, có tiến bộ,
những cá nhân đáng biểu dương, kết quả chung của cả lớp...khi nhận xét, giáo
viên cần nêu những ví dụ cụ thể để học sinh rút kinh nghiệm, học hỏi ở bạn
mình.

* Bước 3: Công bố kết quả chung của lớp.
- Giáo viên công bố điểm số (điểm số chung, tính tỉ lệ %), điểm cao nhất và
điểm thấp nhất, những em tiến bộ và những em chưa tiến bộ.Phần này dựa vào
bảng điểm tổng kết.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh và bình bài văn hay nhất, đoạn văn học sinh
viết tốt.
Việc đọc và bình một bài văn hay, một đoạn văn tốt giúp học sinh được tham
khảo những cách dùng từ độc đáo, sáng tạo, những cách mở bài ấn tượng hấp
dẫn, những kết bài hay ....
Việc làm bài này cũng khiến học sinh đối chiếu, so sánh ngầm giữa bài viết của
mình và của bạn, nhận ra cái hay của bạn, cái dở của mình. Từ đó được học tập,
vận dụng vào việc viết bài của mình sau này.
Để thực hiện được bước này trong khâu trả bài, giáo viên phải sàng lọc, lựa
chọn để tìm ra được những bài văn hay, đoạn văn thực sự chuẩn mực. Đồng thời
14


phải chọn được một em đọc tốt, nếu cần thiết, chính giáo viên phải đọc các bài,
các đoạn văn đó. Sau khi đọc, giáo viên tổ chức cho học sinh phát biểu cảm
nhận, bình giá về đoạn văn bài văn đó (bình giá về hệ thống ý của bài, cách
dùng từ, đặt câu, dùng phép liên kết, chuyển ý, thể hiện cảm xúc...) Giáo viên
cũng cần chuẩn bị lời bình đích đáng cho các bài các đoạn văn như thế để học
sinh nhận thấy ưu điểm của mình.
* Bước 4: Chữa lỗi điển hình chung cho cả lớp.
Đây là bước không thể thiếu trong tiết trả bài tập làm văn. Công việc này giúp
học sinh nhận ra các lỗi đã mắc trong bài viết của mình. Quan trọng hơn, các em
sẽ biết cách sửa chữa để không tái phạm trong những bài viết sau. Việc phân
tích và chữa lỗi về nội dung của bài viết sẽ củng cố những kiến thức về văn học
và đời sống còn việc phân tích chữa lỗi về hình thức của các bài viết sẽ củng cố
những kiến thức của phân môn Tiếng Việt, giúp nâng cao khả năng sử dụng

ngôn ngữ trong giao tiếp của học sinh.
Trong tiến trình thực hiện giờ Trả bài trên lớp đây là bước cần dành nhiều thời
gian nhất. Tuy nhiên với 45 phút cho một tiết trả bài chúng ta cần phải có cách
phân tích, chữa lỗi sao cho phù hợp và hiệu quả. Giáo viên nên hướng dẫn để
học sinh tập trung phân tích, chữa các lỗi điển hình, phổ biến chung của cả lớp,
tránh tình trạng chữa lỗi tràn lan nhiều mà không chắc, không rộng mà không
sâu khiến học sinh có thể thắc mắc lại các lỗi đó trong những bài viết sau. Trong
bước này giáo viên phải phát huy hết tính chủ động, tính tích cực của học sinh.
Chính học sinh là người nhận ra lỗi đã mắc của mình và đề xuất các phương án
sửa chữa theo hướng dẫn của giáo viên. Chúng ta không thể làm thay việc này
cho các em.
Giáo viên tổng hợp các lỗi học sinh đã mắc chia ra các loại lỗi điển hình. Sau đó
cho học sinh chữa lỗi điển hình trên lớp: Việc chữa lỗi nên tập trung vào các
mặt sau đây:
a. Lỗi về nội dung và phương pháp làm bài.
+ Lỗi lạc đề: chưa hiểu đề nên sai lạc về nội dung và phương pháp.
+ Lỗi lệch đề: Chưa xác định đúng trọng tâm yêu cầu bài làm.
15


+ Lỗi lậu đề: Bỏ sót một số yêu cầu cần thực hiện trong đề bài.
b. Lỗi về hình thức bài làm.
+ Nhóm lỗi về dùng từ, lỗi chính tả.
+ Nhóm lỗi về viết câu văn, diễn đạt ý.
+ Nhóm lỗi về đoạn văn, bố cục
+ Nhóm lỗi về trình bày bài làm...
Giáo viên chữa chung trên bảng lớp: Học sinh có lỗi lên chữa, lớp nhận xét, bổ
sung. Mỗi tiết trả bài giáo viên nên chữa bốn lỗi: 2 lỗi nội dung và 2 lỗi hình
thức.
Giáo viên có thể tiến hành như sau:

Ghi tổng hợp các lỗi học sinh đã mắc trên bảng phụ hoặc màn hình, chia nhóm
để học sinh hoạt động với hệ thống câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề của giáo viên.
Để thực hiện chúng ta cho các em quan sát các lỗi trên bảng thống kê đã chuẩn
bị. Tiếp theo cho học sinh phát hiện các lỗi (lỗi dùng từ, đặt câu, sử dụng phép
liên kết, lỗi sắp xếp ý...) và đề xuất các cách sửa chữa. Nên tạo cơ hội cho các
em mắc lỗi tự nhận thức về loại lỗi, nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa. Sau khi
các nhóm phát biểu, thảo luận, giáo viên thống nhất cách sửa. Tất nhiên trong
quá trình này, giáo viên luôn phải luôn phải ở bên cạnh các em bằng những gợi
ý. Ví dụ sửa lỗi về câu, giáo viên nên định hướng nhìn vào cấu trúc đặt câu này
trong mối liên hệ với câu trước để xác định lỗi học sinh đã mắc. Với lỗi đó có
những phương án sửa chữa nào? Phương án nào ưu việt hơn?
Để giờ dạy sinh động hào hứng, giáo viên có thể chuyển thành hình thức học
vui. Tổ chức trò chơi “Thi tuyển biên tập viên của lớp”.
+ Viết các lỗi ra giấy làm đề thi.
+ Lần lượt cho các đội thi sửa lỗi và tính điểm hoặc giáo viên tổ chức
cho

học sinh trò chơi “Hái hoa dân chủ.” .

* Bước 5: Trả bài, ghi điểm vào sổ.
Giáo viên trả bài cho học sinh đọc và xem lại những nhận xét của giáo viên, giải
quyết thắc mắc của học sinh và lấy điểm vào sổ điểm của lớp.
- Việc trả bài không nên thực hiện vào đầu giờ bởi học sinh sẽ mải xem bài của
16


mình, được đọc những lời nhận xét của giáo viên với nhiều trạng thái cảm xúc
khác nhau. Lúc này, các em cũng sẽ được nhìn lại một cách toàn diện bài viết
của mình trong sự đối chiếu với những gì cả lớp đã thực hiện trong suốt tiết học
dưới sự hướng dẫn của thầy. Những thắc mắc của các em về bài làm của mình,

về sự đánh giá của giáo viên cũng nảy sinh từ bước này. Vì thế trước khi phát
bài, giáo viên cần làm tốt công tác tư tưởng với học sinh để tránh những phản
ứng tiêu cực khi trực tiếp đối diện với con điểm xấu như bôi xóa điểm xấu, xé
bài, tỏ thái độ bất bình...
Đồng thời cần tạo không khí thoải mái để học sinh mạnh dạn trao đổi những
điều còn thắc mắc và chuẩn bị tâm thế để trả lời những thắc mắc đó. Giáo viên
cần trực tiếp phát bài cho học sinh để thể hiện sự quan tâm với các em và có
điều kiện quan sát thái độ, phản ứng của học sinh. Trên cơ sở đó có những cách
ứng xử thích hợp. Giáo viên yêu cầu học sinh lưu bài viết, giữ gìn bài làm cẩn
thận để đọc lại, tự đối chiếu và sửa chữa những lỗi đã mắc.
* Bước 6: Học sinh tiếp tục sửa lỗi trong bài làm của mình dưới sự hướng
dẫn của giáo viên.
Bước này nhất thiết phải có trong tiết trả bài. Bước này được thực hiện sau bước
4 là hợp lý vì các em sẽ vận dụng cách chữa lỗi chung vào việc sửa lỗi riêng
trong bài làm của mình. Trong bài làm giáo viên đã ghi rõ lỗi bên lề theo quy
ước, các em cứ theo đó mà sửa lỗi ra ngoài lề. Trong khi các em tự sửa, giáo
viên đi từng bàn để giúp các em sửa. Đây là bước học sinh tự làm việc, tự động
não suy nghĩ để tìm cách sửa lỗi. Vì vậy, giáo viên phải hết sức quan tâm tới
bước này. Trong tiết trả bài, nếu học sinh chưa sửa hết lỗi trên lớp, yêu cầu các
em về nhà sửa tiếp cho hoàn chỉnh bài.
Giáo viên sẽ kiểm tra việc tự sửa lỗi, tự bổ sung để hoàn thiện bài viết của học
sinh, việc kiểm tra này có thể thực hiện ngay trên lớp hoặc giờ học sau. Việc
kiểm tra này không nhất thiết phải tiến hành với 100% học sinh của lớp nhưng
rất cần thực hiện để rèn luyện tinh thần tự giác cho các em. Ở khâu “hậu trả bài”
này giáo viên cũng có thể dùng điểm đó thưởng cho những học sinh tích cực đạt
kết quả tốt trong việc sửa lỗi và đạt hoàn thiện viết lại bài viết của mình.
17


Ví dụ: Qua kiểm tra, nếu thấy học sinh đạt kết quả tốt trong việc chữa, hoàn

thiện bài, giáo viên có thể cộng trừ 0,5 đến 1,0 điểm cho bài viết tiếp theo hoặc
tạo điều kiện cho kiểm tra thêm để cải thiện điểm số quá xấu cho môn học.
Trước khi kết thúc giờ học, bước củng cố, dặn dò giáo viên cần lưu ý những nội
dung sau:
+ Củng cố cho học sinh về phương pháp thực hiện kiểu bài.
+ Nhấn mạnh những yêu cầu quan trong trong việc tạo lập văn bản.
+ Tổng kết các lỗi sai phổ biến, cơ bản để rút kinh nghiệm.
Tóm lại: Trong tiết trả bài cần đạt hai yêu cầu chính:
- Học sinh phải nhận ra được ưu, khuyết điểm của mình trong bài làm và hướng
khắc phục tiến lên.
- Học sinh phải tự sửa chữa những lỗi trong bài làm của mình.
Căn cứ vào 2 yêu cầu trên thì bước 2, 4, 6 là ba bước quan trọng nhất. Bước 1,
3, 5 là những bước cần thiết để động viên tâm lý học sin
4. Giáo án minh họa tiết “Trả bài viết tập làm văn”.
Ngày soạn: .........
Ngày dạy:..........
Tiết 115: TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 5
(Văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí)
I. Mục tiêu:
Giúp học sinh:
- Củng cố kiến thức; nhận thấy được nguyên nhân của những ưu, nhược điểm
trong bài viết Tập làm văn số (các kĩ năng tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý; cách
dùng từ, đặt câu, dựng đoạn văn; bố cục và trình bày).
- Tiếp tục rèn luyện các đoạn kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận về một vấn đề tư
tưởng, đạo lí; kỹ năng tự sửa chữa và rút kinh nghiệm cho các bài viết sau.
- Có ý thức học hỏi và phấn đấu, thi đua lành mạnh trong học tập.
II. Chuẩn bị:
- GV: Chấm bài, tổng hợp chất lượng bài viết; soạn giảng.
- HS: Xem lại phần lý thuyết văn bản nghị luận về một số vấn đề tư tưởng, đạo
18



lí.
III. Tiến trình dạy - học:
1. Ổn định lớp:
(Lớp trưởng báo cáo sĩ số và tình hình chuẩn bị bài ở nhà của các bạn)
2. Dạy bài mới:
* GV giới thiệu mục đích yêu cầu của tiết trả bài.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG BÀI HỌC
Hoạt động 1: Tìm hiểu các yêu cầu của bài viết
* Thao tác 1: Tìm hiểu đề bài
- HS nhắc lại đề bài; GV chép đề
bài lên bảng và hướng dẫn tìm hiểu
đề.
- GV:
? Hãy nhắc lại kết quả tìm hiểu đề
của em (cấu tạo của đề)? Từ đó, em
hiểu được như thế nào về yêu cầu
của đề bài?
- HS nhắc lại kết quả tìm hiểu đề
(...)
- GV nhận xét, bổ sung, sửa chữa

* Đề bài: Suy nghĩ về đạo lí "Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây".
- Dạng đề: Nghị luận về một vấn đề tư
tưởng, đạo lí.
- Yêu cầu của đề bài: Phân tích, chứng
minh làm sáng rõ một tư tưởng, đạo lí

tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
- Phạm vi tư liệu: Kiến thức sách vở và
vốn sống

về cách tìm hiểu đề của HS.
* Thao tác 2: Tìm ý
- GV: ? Em hãy nhắc lại cách tìm ý- Giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng:
của mình?

+ Nghĩa đen: "Ăn quả" là ăn những trái

? Em đã tìm được những ý nào để cây chín, thơm, ngọt, bùi; "người trồng
xây dựng bài văn?

cây" là người vun trồng, chăm bón cây,

- HS nhắc lại cách tìm ý và những ý trái.
đã tìm được (...)

+ Nghĩa bóng: hưởng thụ thành quả của
những người đi trước đã tạo ra.
- (? Tại sao ăn quả phải nhớ người trồng
cây?): "Ăn quả nhớ người trồng cây" thể
19


hiện được truyền thống đạo lí tốt đẹp của
cha ông ta và là nền tảng để hình thành,
phát triển và hoàn thiện nhân cách con
người.

- (Người trồng cây ở đây có thể hiểu là
những ai?): tổ tiên, ông bà, cha mẹ,
người nông dân, người công nhân, thầy
cô, các anh hùng liệt sĩ,...
- GV nhận xét, bổ sung, sửa chữa
về cách tìm ý của HS.

- (? Nhớ người trồng cây, ta phải làm
như thế nào, làm ra sao?): chúng ta phải
có những hành động và việc làm đúng
đắn với những người đã tạo ra thành quả

- HS lắng nghe và rút kinh nghiệm

- (? Suy nghĩ gì về lời dạy của câu tục
ngữ trên?): Câu tục ngữ là một lời dạy
đúng đắn, phù hợp với mọi thời đại
trong việc bồi dưỡng và rèn luyện nhân
cách con người

* Thao tác 3: Làm dàn ý
- GV:

1. Mở bài:

? Nhắc lại cách làm dàn ý của em? - Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống
? Các ý trong phần thân bài đượccoi trọng đạo đức tốt đẹp được xây dựng
em lựa chọn sắp xếp theo trình tự ra trên nền tảng của tư tưởng nhân nghĩa
sao? Vì sao?


- Suốt mấy ngàn năm nhân dân ta nhắc

- HS nhắc lại cách làm dàn ý củanhở nhau sống theo đạo lý : "Ăn quả nhớ
mình (...)

kẻ trồng cây"
2. Thân bài:
2.1. Giải thích từ: "ăn quả", "kẻ trồng
cây"
- "Ăn quả": Ăn những trái cây chín,
thơm, ngọt, bùi
20


- "Người trồng cây": người vun trồng,
chăm bón cây, trái
® Phải biết ơn khi hưởng thụ thành quả
của những người đã tạo ra. Đó là hành
động thể hiện truyền thống đạo lí tốt đẹp
của cha ông ta và là nền tảng để hình
thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách
con người...
2.2. Người trồng cây ở đây có thể hiểu là
tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người nông dân,
người công nhân, thầy cô, các anh hùng
- GV nhận xét, bổ sung, sửa chữaliệt sĩ,...
về cách lập dàn ý của HS:

2.3. Nhớ người trồng cây nghĩa là bây


+ Bố cục

giờ chúng ta phải có những hành động

+ Cách sử dụng và cách sắp xếp các và việc làm đúng đắn với những người
ý trong từng phần của bài văn.

đã tạo ra thành quả...
2.4.Các thế hệ sau không chỉ hưởng thụ
mà còn phải biết giữ gìn, vun đắp,phát

- HS lắng nghe và rút kinh nghiệm. triển những thành quả do thế hệ trước
tạo dựng.
2.5. Không thể chấp nhận lối sống "ăn
cháo đá bát", "vong ơn bội nghĩa"...
3. Kết bài:
- Lòng biết ơn là một tình cảm cao
quý,thiêng liêng.
- Câu tục ngữ là bài học đạo đức nhẹ
nhàng mà sâu sắc, thấm thía
- Phấn đấu làm người trồng cây cho thế
hệ sau.
21


- Lòng biết ơn tạo nên vẻ đẹp tinh thần
truyền thống của nhân dân Việt Nam.
Hoạt động 2: Chữa và đọc bài
* Thao tác 1: Chữa bài
- GV: Trả bài viết cho HS


* Ưu điểm:

- GV: Từ kết quả thống kê được sau - Xác định được các yêu cầu của đề bài
khâu chấm bài, trước khi đi vào sửa- Bố cục cân đối, mạch lạc
lỗi, GV chú ý nêu những ưu điểm- Một số bài có cách diễn đạt trôi chảy,
trong bài viết của các em; sau đógiàu

hình

ảnh

(Bạn

Hằng,

Lam,

mới sửa các lỗi hình thức (lỗi nộiHuy,Ly...)
dung đã chữa đan xen ở hoạt động* Nhược điểm:
1) mà các em mắc phải thường là- Viết tắt, viết số, dùng kí hiệu tùy tiện:
các lỗi:

+ "Câu TN". Sửa: Câu tục ngữ;

+ Viết tắt, viết số, dùng các kí hiệu + "... là một bài học về cách làm người".
tùy tiện

Sửa; ... là một cách làm người;


+ Lỗi chính tả: dấu ngã, hỏi; phụ Þ câu tục ngữ khuyên chúng ta...".
âm ch/tr, r/x, d/gi,...

Sửa: Như vậy câu tục ngữ khuyên chúng

+ Lỗi dùng dấu câu: dấu chấm, dấu ta...
phẩy, dấu ngoặc đơn, ngoặc kép... + ...
+ Lỗi dùng từ thiếu trong sáng, câu- Sử dụng dấu câu chưa chính xác, chưa
văn sai ngữ pháp

hợp lý:

+ Lỗi xây dựng và liên kết đoạn + "cha ông ta" đút rút kinh nghiệm..."
văn,...

Sửa: cha ông ta đúc rút kinh nghiệm...

- HS nhận bài và lắng nghe, tự rút+ "Câu tục ngữ ăn quả nhớ kẻ trồng
kinh nghiệm.

cây là lời dạy bổ ích khiến cho chúng ta

GV: Tổ chức cho hs chơi trò chơi : phải suy nghỉ...". Sửa: Câu tục ngữ "Ăn
Hái hoa dân chủ.

quả nhớ người trồng cây" là lời dạy bổ

- Chuẩn bị: một số câu hỏi ghi sẵn ích khiến cho chúng ta phải suy nghĩ...;
trên những bông hoa nhỏ và yêu+ ...
cầu các em lên hái hoa và trả lời- Viết câu chưa đúng:

22


+ "Qua câu tục ngữ nhắc nhở mọi
người..." Sửa: Qua câu tục ngữ, cha ông
ta nhắc nhở mọi người...
+ "Trong cuộc sống của con người.
Chúng ta nên ghi nhớ và thực hiện tốt lời
dạy..." Sửa: Trong cuộc sống, chúng ta
nên ghi nhớ và thực hiện tốt lời dạy...
câu hỏi trên đó.

+ ...

- Cử 1 Hs làm người dẫn chương- Dùng từ không mang giá trị biểu cảm
trình và 1 Hs làm biên tập viên hệ cao.
thống những câu hỏi mà bạn trả lời+ "Một số thanh niên ngày nay không
đúng.

những đua đòi, không lo lắng học tập,

- Gv: Nhận xét, biểu dương những lao động. Họ còn chưa tôn trọng với cha
hs tích cực tham gia chữa lỗi.

mẹ đẻ ..." Sửa: Một số thanh niên ngày
nay không những đua đòi, không lo lắng
học tập, lao động, mà còn có một số
hành động đi ngược lại đạo hiếu đối với
cha mẹ...
+ Câu tục ngữ có một ý nghĩa rất là

hay... Sửa: câu tục ngữ có một ý nghĩa
sâu sắc
+ ...

* Thao tác 2: Đọc bài
- GV thống kê chất lượng chungLớp
của cả lớp (có thể đối chiếu với các 9A
9B
lớp cùng khối)
- GV chọn 03 bài viết (khá giỏi,
trung bình, yếu kém) cho HS đọc to
trước lớp.
? Em có nhận xét gì về nội dung và
23

Khá giỏi TB
14/29
13/29
32/34
2/34

Yếu kém
2/29
0/34


hình thức diễn đạt của các bài viết
vừa đọc?
- HS trao đổi và nêu nhận xét của
mình.

- GV biểu dương, khích lệ HS.
Hoạt động 3: Đọc tham khảo
- GV chuẩn bị và tổ chức cho HS đọc một số đoạn văn tham khảo, sau đó,
hướng dẫn tìm hiểu trình tự lập luận của đoạn văn.
* Đoạn mở bài tham khảo:
(1) Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu quý, tôn trọng đạo lí. (2) Để
nhắc nhở, giáo dục con cháu về lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước đã làm
nên thành quả cho đời sau hưởng thụ, cha ông ta có một kho tàng tục ngữ
phong phú, sâu sắc. (3) Đáng chú ý nhất là câu "Ăn quả nhớ người trồng
cây".
(Trình tự lập luận: Câu (1) nêu mục đích, xuất xứ của vấn đề ® Câu (2) xác
định và báo trước vấn đề cần nghị luận ở thân bài ® Câu (3) trích dẫn phần
nêu của đề bài.)
* Đoạn kết bài tham khảo:
(1) Tóm lại, câu tục ngữ trên đã đưa ra một bài học đạo đức nhẹ nhàng mà
sâu sắc, thấm thía. (2) Trong cuộc sống, đối với bản thân em, em sẽ luôn lễ
phép, ngoan ngoãn, chăm chỉ, chịu khó học tập tu dưỡng rèn luyện đạo đức
và lao động tốt trở thành người có ích để đền đáp và ghi nhớ công lao sinh
thành, nuôi dưỡng của cha mẹ ông bà, công ơn dạy dỗ của thầy cô..., đồng
thời luôn cố gắng phấn đầu làm "người trồng cây" tạo ra thành quả lao động
cho người khác.
(Trình tự lập luận: Câu (1) tác dụng của vấn đề ® Câu (2) liên hệ bản thân,
thực hiện tốt vấn đề)
* Đoạn thân bài tham khảo:
(1) Để nêu lên được bài học đạo lí, câu tục ngữ mượn hai hành động gần gũi
"ăn, nhớ" và hai hình ảnh quen thuộc "quả, kẻ trồng cây". (2) "Ăn quả" là ăn
24


những trái cây chín, thơm, ngọt, bùi; "kẻ trồng cây" là người vun trồng,

chăm bón cây phát triển và đơm hoa kết trái. (3) Từ đó, suy rộng ra, ta ngầm
hiểu "ăn quả" là hưởng thụ thành quả vật chất cũng như tinh thần, "kẻ trồng
cây" là người tạo ra thành quả đó. (4) Rõ ràng, câu tục ngữ khuyên dạy
chúng ta khi hưởng thụ thành quả lao động thì luôn phải nhớ và biết ơn
những người đã tạo ra thành quả đó.
(Trình tự lập luận, xây dựng đoạn: Câu (1) dẫn dắt câu tục ngữ ® Câu (2)
giải thích nghĩa đen ® Câu (3) giải thích nghĩa bóng ® Câu (4) chốt lại vấn
đề cần nghị luận (câu nên luận điểm)
IV. Rút kinh nghiệm và hướng dẫn về nhà:
- GV tổ chức cho HS rút kinh nghiệm chung về bài viết Tập làm văn
- HS xem lại bài, sửa chữa những lỗi mắc phải và tự rút kinh nghiệm cho bài
viết lần sau; đọc và chuẩn bị bài mới.
V. HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Kết quả đạt được:
Qua thời gian giảng dạy và áp dụng các phương pháp, kinh nghiệm nói trên,
trong những năm qua tôi nhận thấy đa số HS đều rất hứng thú học tập và giờ trả
bài luôn đạt kết quả tốt. Đa số HS đã có chuyển biến tích cực, cụ thể. Từ chỗ HS
sợ tiết học này, thờ ơ với việc phát hiện và sửa lỗi trong bài văn đến nay các em
đã rất hăng hái phát biểu ý kiến của mình.
- Đã hình thành được thói quen tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý.
- Bài viết của các em có đảm bảo tính định hướng, bố cục cân đối chặt chẽ, các
ý tương đối đầy đủ, rõ ràng, trình bày mạch lạc.
- Đặc biệt là các em viết sạch, đẹp, khoa học, không mắc lỗi về câu, về lỗi chính
tả.
- Nếu như trước đây, các em nêu ý kiến của mình một cách ấp úng, nét mặt
gượng gạo thì nay đã hết sức hào hứng, lưu loát và lộ rõ vẻ thích thú. Tiết học
thật vui, nhẹ nhàng.
Và đặc biệt hơn nữa tôi nhận được sự tin yêu từ phía HS. Các em không chỉ
mạnh dạn đóng góp, trao đổi ý kiến trong tiết Trả bài TLV mà còn ở tất cả các
25



×