Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

NGHIÊN cứu độc TÍNH và tác DỤNG điều TRỊ tại CHỖ của CH 1701 TRÊN mô HÌNH gây BỎNG NHIỆT THỰC NGHIỆM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.44 KB, 37 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

VI THỊ MY

NGHIÊN CỨU ĐỘC TÍNH VÀ TÁC DỤNG ĐIỀU TRỊ
TẠI CHỖ CỦA CH 1701 TRÊN MÔ HÌNH GÂY
BỎNG NHIỆT THỰC NGHIỆM

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

VI THỊ MY

NGHIÊN CỨU ĐỘC TÍNH VÀ TÁC DỤNG ĐIỀU TRỊ
TẠI CHỖ CỦA CH 1701 TRÊN MÔ HÌNH GÂY
BỎNG NHIỆT THỰC NGHIỆM
Chuyên ngành: Dược lý
Mã số: 60720120


ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. NGUYỄN THANH TÙNG
2. PGS.TS NGUYỄN TRẦN THỊ GIÁNG HƯƠNG

HÀ NỘI - 2017


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CFU

: colony forming unit (đơn vị hình thành khuẩn lạc)

E.coli

: Escherichia coli

HE

: Hematoxylin eosin

K.pneumoniae : Klebsiela pneumoniae
P.aeruginosa

: Pseudomonas aeruginosa (trực khuẩn mủ xanh)

S.aureus

: Staphylococus aureus (tụ cầu vàng)


TNF-a

: tumor necrosis factor alpha (yếu tố hoại tử u alpha)


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bỏng là chấn thương thường gặp trong cuộc sống hằng ngày. Bỏng có
thể xảy ra riêng lẻ nhưng cũng có thể trở thành thảm họa lớn.Bỏng có thể do
nhiều nguyên nhân gây ra như bỏng nhiệt, bỏng điện, bỏng do hóa chất hay
phóng xạ… Trong đó, bỏng nhiệt hay gặp nhất chiếm tới 84-94 % các trường
hợp bỏng [1]. Tùy mức độ bỏng mà ảnh hưởng tới bệnh nhân khác nhau.Nói
chung, bệnh nhân bỏng phải điều trị dài ngày, tốn kém. Nếu điều trị không tốt
có thể để lại di chứng lâu dài cho người bệnh làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ,
khả năng lao động, sinh hoạt, thậm chí gây tử vong cho người bệnh.
Hiện nay có nhiều loại thuốc để điều trị tại chỗ vết thương bỏng được
sản xuất ở trong nước hoặc nhập từ nước ngoài.Nhiều chất kháng khuẩn,
kháng sinh đang được sử dụng phổ biến trong điều trị tại chỗ vết thương bỏng
như kem sulfadiazine-bạc 1% [2], [3], [4]. Cá thuốc tây y tuy có tác dụng
tương đối tốt nhưng giá thành tương đối cao.Chính vì vậy, các thuốc có thành

phần từ thảo dược đang được nghiên cứu và sử dụng bởi hiệu quả tốt và giảm
chi phí điều trị.Ở trong nước, một số thuốc y học cổ truyền đã được nghiên
cứu cho kết quả tốt trong điều trị bỏng như nghệ, cao và mỡ Maduxin từ cây
sến, mật ong; Chitosan (dẫn xuất kitin có trong vở các loài giáp xác như tôm,
cua)…[5], [6], [7], [8].
CH1701 có hai thành phần dược chất chính là curcumin và rutin.
Curcumin là hoạt chất có nhiều trong nghệ vàng và rutin là hoạt chất chiết
xuất từ hoa hòe. Curcumin đã được chứng minh có tác dụng kháng khuẩn và
nhanh liền sẹo trên thực nghiệm [9]. Rutin là một loại vitamin P, thuộc nhóm
flavonoid, có tác dụng chống oxi hóa, chống viêm và tăng sức bền thành
mạch [10].Trên cơ sở đó, chúng tôi đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu độc tính
và tác dụng điều trị tại chỗ của CH 1701 trên mô hình gây bỏng thực nghiệm”
với các mục tiêu sau:


7

1.

Nghiên cứu độc tính và tác dụng không mong muốn của CH 1701 trên
mô hình gây bỏng nhiệt thực nghiệm.

2.

Đánh giá tác dụng điều trị tại chỗ của CH 1701 trên mô hình gây bỏng
nhiệt thực nghiệm


8


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. TÌNH HÌNH BỎNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Bỏng là chấn thương ngoại khoa thường gặp. Trên toàn cầu, trong năm
2004, tỉ lệ bỏng nặng cần chăm sóc y tế khoảng gần 11 triệu người và đứng
thứ tư trong tất cả các loại chấn thương, trong đó khoảng 300.000 trường hợp
tử vong. Tong những thập kỷ qua, do việc bảo hộ an toàn lao động tốt hơn,
kiến thức người dân được nâng cao cũng như cơ sở thiết bị y tế hiện đại hơn,
tỉ lệ bị tai nạn và tử vong do bỏng trên thế giới đã giảm đi. Tuy vậy, ở nhiều
quốc gia trên thế giới, bỏng vẫn là một chấn thương khá phổ biến. chẳng hạn, ở
Ấn Độ, mỗi năm có khoảng 1 triệu người bị bỏng mức độ vừa và nặng; tại
Bangladesh gần 173.000 trẻ em bị bỏng mỗi năm; trong năm 2008, tại Hoa Kỳ
có hơn 410.000 nạn nhân bỏng và khoảng 40.000 người cần nhập viện [1], [11].
Ở Việt Nam, tai nạn bỏng thường xuyên xảy ra trong đời sống hằng
ngày, trong lao động sản xuất, giao thông vận tải… trong 2 năm 2008-2009 có
khoảng 844.000 nạn nhân bị bỏng, trong đó 420.000 nạn nhân phải nhập viện
điều trị. Hằng năm, Viện Bỏng quốc gia nhận điều trị trên 2.500 bệnh nhân
bỏng mỗi năm; khoa Bỏng bệnh viện Xanh-pôn điều trị trên 900 bệnh nhân;
khoa Bỏng bệnh viện Chợ Rẫy điều trị hằng trăm bệnh nhân bỏng [1], [11].
1.2. BỎNG DA DO NHIỆT
Bỏng có thể do nhiều nguyên nhân gây ra như do nhiệt, hóa chất, điện
hay bức xạ…; trong đó bỏng do nhiệt là loại hay gặp nhất (84-94%) [1].
1.2.1. Tác nhân gây bỏng nhiệt
Bỏng do nhiệt được chia thành 3 loại:


9

1.2.1.1. Bỏng do nhiệt khô
Bỏng do nhiệt khô có thể nguyên nhân do lửa, tiếp xúc trực tiếp với kim

loại nóng, tia lửa điện. Nhiệt độ gây bỏng có thể từ vài trăm đến hàng nghìn độ.
Tổn thương bỏng do nhiệt khô thường nặng và sâu, khó hồi phục [1].
1.2.1.2. Bỏng do nhiệt ướt
Bỏng do nhiệt ướt thì nhiệt độ gây bỏng thường không cao như bỏng do
nhiệt khô: bỏng do nước sôi (100 oC), thức ăn nóng sôi (50-100 oC), dầu mỡ
sôi (180 oC), hơi nước từ các nồi áp suất, nồi hấp… Tuy nhiệt độ không quá
cao nhưng nếu tác dụng kéo dài trên da cũng gây bỏng sâu.
Đối với trẻ nhỏ, bỏng do nhiệt ướt là chủ yếu (67%). Còn đối với người
lớn, bỏng do nhiệt khô lại chiếm phần lớn (64,7%) [1], [12].
1.2.1.3. Bỏng do nhiệt phối hợp tác nhân khác
-

Bỏng do hoá chất: acid mạnh, kiềm mạnh…

-

Bỏng do bức xạ nhiệt: tia cực tím, tia laser…

1.2.2. Mức độ tổn thương bỏng
Mức độ tổn thương bỏng tùy thuộc vào nhiệt độ, thời gian tiếp xúc và
diện tích tiếp xúc với nhiệt.Nhiệt độ càng cao, diện tích tiếp xúc bỏng càng
rộng và thời gian tiếp xúc càng lâu thì tổn thương bỏng càng nặng.
1.2.2.1. Diện tích bỏng
Có rất nhiều phương pháp tính diện tích bỏng. Một số phương pháp hay
được sử dụng trên lâm sàng như:
* Phương pháp dùng con số 9 của Pulaski E.J., Tennison C.W. (1949)
và Wallace A. (1951) [1]:
- Đầu mặt cổ: 9% diện tích cơ thể
- Một chi trên: 9% diện tích cơ thể
- Phía trước thân (ngực, bụng): 18% (9x2) diện tích cơ thể

- Phía sau thân (lưng, mông): 18% (9x2) diện tích cơ thể


10

- Một chi dưới: 18% (đùi: 9%, cẳng chân và bàn chân: 9%)
- Bộ phận sinh dục và tầng sinh môn: 1%
Phương pháp này đơn giản, dễ sử dụng nên được dùng phổ biến để đánh
giá diện tích bỏng trên lâm sàng. Tuy nhiên, tỉ lệ các phần cơ thể thay đổi theo
tuổi nên phương pháp này không thực sự chính xác khi áp dụng ở trẻ em.
* Phương pháp sử dụng gan bàn tay của bệnh nhân của Blokhin N.N. và
Glumov I.I. (1953) [1]:
Mỗi gan bàn tay tương ứng với 1% đến 1,25% diện tích cơ thể. Phương
pháp này đánh giá chính xác hơn diện tích bỏng, tuy nhiên khó áp dụng trên
thực tế lâm sàng.
1.2.2.2. Phân loại độ sâu bỏng
Tác giả Lê Thế Trung (1965) đã phân loại độ sâu của bỏng ra 5
mức.Cách phân loại này đã và đang được áp dụng ở nhiều cơ sở điều trị bỏng
ở nước ta [1].
Bảng 1.1. Phân loại độ sâu của bỏng
Độ I
Viêm cấp
đỏ da do
bỏng

Bỏng nông
Độ III (Bỏng chân bì)
Độ II
Nông
Sâu

Tổn thương
Tổn thương
Bỏng
lớp nhú (thân
lớp lưới
biểu bì,
và nang lông,
(phần sâu
lớp đáy
tuyến mồ hôi
của tuyến
còn
còn)
mồ hôi còn)

Bỏng sâu
Độ IV

Độ V

Bỏng
toàn bộ
các lớp
da

Bỏng da và
các lớp
dưới da
(cơ,
xương)


Tùy theo mức độ tổn thương bỏng: diện tích bỏng, độ sâu bỏng, vị trí bị
bỏng và trạng thái cơ thể (người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ có thai, bệnh kết
hợp, chấn thương kèm theo…) mà phản ứng tại chỗ và toàn thân khác nhau.
1.3. SINH LÝ BỆNH BỎNG
1.3.1. Ảnh hưởng lên toàn thân của bỏng


11

Bỏng trực tiếp gây tổn thương các tế bào và tổ chức, dẫn đến rối loạn
chức phận, các phản ứng toàn thân để tự bảo vệ và phục hồi.Bỏng diễn biến
qua nhiều thời kỳ.theo tác giả Lê Thế Trung bệnh bỏng thường được chia
thành 4 thời kỳ [1]:
* Thời kỳ sốc bỏng: xuất hiện 2-3 ngày sau khi bị bỏng, gồm các phản
ứng bệnh lý cấp. Đặc trưng là trạng thái sốc bỏng. Có thể gặp các biến chứng
cấp tính trong giai đoạn này như: suy thận cấp, sốc giảm thể tích…
* Thời kỳ nhiễm trùng, nhiễm độc: xuất hiện từ ngày thứ 4-5 đến ngày
thứ 15-20 sau khi bị bỏng do hấp thu các chất độc từ vết bỏng, do hoại tử tan
rã tổ chức, do nhiễm khuẩn tại chỗ. Thời kỳ này có tỉ lệ biến chứng và tử
vong cao nhất.
* Thời kỳ suy mòn: sau khi vượt qua thời kỳ 2, thời kỳ này biểu hiện các
rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng toàn cơ thể, tại vết bỏng có các biến đổi
của bệnh lý mô hạt
* Thời kỳ hôì phục: vết bỏng liền sẹo, các chức năng dần được phục hồi.
Trên thực tế lâm sàng, các hội chứng bệnh lý thường chồng chéo, ảnh
hưởng lẫn nhau nên không có một thời kỳ nào diễn ra riêng rẽ và biểu hiện
thành hội chứng rõ rệt [13], [14].
1.3.2. Quá trình liền vết thương da
Quá trình liền vết thương bỏng là một quá trình sinh học phức tạp, gồm

ba giai đoạn chồng gối lên nhau là giai đoạn viêm cấp, giai đoạn tăng sinh sữa
chữa vết thương và giai đoạn hình thành sẹo [1], [15], [16], [17].
1.3.2.1. Giai đoạn viêm cấp
Đặc trưng của giai đoạn này là các hiện tượng viêm cấp, xuất tiết, viêm
nhiễm khuẩn có mủ, rụng hoại tử, hoạt hóa tiểu cầu và hệ thống đông máu.
Khi bị tác động bởi nhiệt, thành các vi mạch bị tổn thương, đồng thời mô tế
bào bị tổn thương tiết ra các chất gây giãn mạch như prostaglamdin, histamin,
leucotrien, gây thoát dịch qua thành vi mạch vào khoảng kẽ và hình thành


12

dịch rỉ viêm. Dịch này còn chứa các chất trung gian gây viêm, gây đau như
chất P, prostaglandin E. Tiểu cầu được kích hoạt hình thành lưới fibrin không
tan, đóng vai trò là khuôn cho nguyên bào sợi di chuyển vào vùng tổn thương.
Các tế bào tham gia vào quá trình viêm như bạch cầu đa nhân trung tính, làm
nhiệm vụ thực bào, dọn sạch các mô hoại tử. Đại thực bào có chức năng thực
bào và điều hòa chức năng của các tế bào khác trong quá trình liền vết
thương. Lympho bào có vai trò quan trọng trong quá trình sửa chữa phục hồi,
do chúng tiết ra nhiều loại lymphokin điều hòa các bước cơ bản trong quá
trình liền vết thương.
1.3.2.2. Giai đoạn tăng sinh
Đặc trưng bởi sự tăng sinh mạch máu, hình thành mô mới. Quá trình
này diễn ra sau giai đoạn viêm cấp. Sự hình thành quai mao mạch từ các tế
bào nội mô còn sót lại, cùng thời gian đó các chất nền ngoại bào được hình
thành. Chất nền này gồm 5 yếu tố chính: collagen, màng đáy, glycoprotein
cấu trúc, sợi đàn hồi và proteoglycan. Tỉ lệ tăng sinh các đại thực bào và các
nguyên bào sợi là sự phản ánh của sức đề kháng và khả năng tái tạo thuận lơi
của vết thương. Khối liên kết tân mạch với chất nền ngoại bào được gọi là mô
hạt. Mô hạt bản chất là tổ chức liên kết non và các mạch máu tân tạo. Mô hạt

đẹp: nền sạch, màu hồng bóng, đỏ tươi, biểu mô hóa từ mép. Mô hạt xấu là
mô hạt phù nề, xuất huyết, xơ hóa, hoại tử. Hiện tượng biểu mô hóa từ các tế
bào biểu mô của lớp biểu bì tăng sinh sẽ lan phủ, che kín diện tích mô hạt và
vết bỏng hình thành sẹo. nếu mô hạt không được che phủ bởi lớp biểu mô thì
việc tiến triển liền sẹo của vết thương sẽ không thuận lợi, kéo dài, mô hạt sẽ
già và trở thành một khối xơ chắc, các mạch máu giảm dần, các sợi collagen
xơ hóa.
1.3.2.3. Giai đoạn sửa chữa vết thương và hình thành sẹo


13

Là giai đoạn dài nhất của quá trình liền vết thương. Việc tạo mô liên kết
tại vết thương được điều hòa bằng việc tạo ra collagen mới do nguyên bòa sợi
thực hiện và phá hủy collagen do enzym collagenase thực hiện để đảm bảo
sẹo da bền chắc. nếu mất cân bằng trong tái lập collagen sẽ dẫn đến sẹo lồi,
sẹo phì đại. Dựa trên những hiện tượng đó, một số phương pháp được sử dụng
để đánh giá quá trình phục hồi của vết thương như quan sát bằng mắt thường
(đánh giá sự thu hẹp diện tích vết bỏng, tình trạng vết bỏng: tiết dịch, loét hay
khô) và quan sát trên kính hiển vi về sự mọc mô hạt.
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình liền vết thương
1.3.3.1. Các yếu tố tại chỗ
Tình trạng nhiễm khuẩn vết thương làm phản ứng viêm kéo dài. Tại
chỗ viêm các mô hoại tử thối rữa, ứ trệ máu tĩnh mạch, lưu thông động mạch
kém, viêm các mạng lưới mao mạch; dẫn đến thiếu oxy, giảm trao đổi chất và
làm cho quá trình liền vết thương chậm lại [16].
1.3.3.2. Một số yếu tố toàn thân
- Vitamin: vitamin C cần cho quá trình tổng hợp collagen. Vitamin A
cần cho sự tổng hợp glycoprotein và proteoglycan, tăng cường miễn dịch.
Thiếu vitamin A làm giảm quá trình tạo kháng thể do đó làm tăng khả năng

nhiễm trùng [18], [19], [20].
- Protein: thiếu sẽ dẫn đến suy giảm miễn dịch, giảm tổng hợp collagen.
- Yếu tố đông máu XIII: thiếu yếu tố này sẽ giảm hình thành mạng lưới
fibrin ổn định.
- Tình trạng thiếu máu và áp lực oxy thấp ở mô kéo dài sẽ ảnh hưởng
xấu đến quá trình liền vết thương [16].

1.4. NHIỄM KHUẨN TẠI VẾT THƯƠNG BỎNG


14

Nhiễm khuẩn là biến chứng chủ yếu tại vết bỏng, từ đó dẫn đến chậm
quá trình liền thương. Diễn biến tại chỗ của vết thương bỏng cũng như trạng
thái toàn thân của bệnh nhân có liên quan chặt chẽ với số lượng và chủng loại
vi khuẩn có mặt tại vết thương bỏng. Mặc dù hiện nay đã có nhiều tiến bộ
trong công tác điều trị bệnh nhân bỏng, nhưng nhiễm khaaunr huyết vẫn là
một trong những biến chứng nặng nhất của bệnh bỏng và là nguyên nhân tử
vong cao [21], [22], [23].
1.4.1. Điều kiện phát sinh nhiễm khuẩn bỏng
1.4.1.1. Điều kiện tại chỗ
Vết thương bỏng làm mất hàng rào bảo vệ của da, mở đường cho vi
khuẩn đang sinh sống trên da hoặc vi khuẩn từ môi trường bên ngoài vào, đặc
biệt là môi trường bệnh viện xâm nhập vào cơ thể [1], [16], [17], [24], [25].
Trong các vi khuẩn có mặt tại vết thương bỏng, P. aeruginosa có khả năng
xâm nhập sâu và nhanh vào cơ thể hơn các vi khuẩn khác [1].
1.4.1.2. Điều kiện toàn thân
Sự suy giảm miễn dịch sau bỏng làm giảm sự chống đỡ của cơ thể, tạo
điều kiện thuận lợi cho nhiễm khuẩn bỏng phát triển và lan rộng gây hậu quả
nặng nề [1], [16], [17]. Có nhiều nguyên nhân gây tình trạng suy giảm miễn

dịch sau bỏng như glucocorticoid, prostaglandin E2 tăng cao trong máu, nội
độc tố cảu vi khuẩn…[17]. Như vậy, vết thương bỏng tự nó đã giúp cho việc
bắt đầu một vòng xoắn bệnh lý nguy hiểm, làm tình trạng nhiễm khuẩn ngày
càng nặng và nguy cơ lan tràn vi khuẩn ngày càng cao [1].
1.4.2. Căn nguyên gây nhiễm khuẩn bỏng
Các loài vi khuẩn chủ yếu gây nhiễm khuẩn bỏng là trực khuẩn mủ
xanh, tụ cầu vàng và các trực khuẩn đường ruột.
- Tụ cầu vàng (S. aureus) : là nguyên nhân hàng đầu trong các tác nhân
gây nhiễm khuẩn bỏng, tỉ lệ phân lập được tại vết bỏng dao động từ 25-70%


15

[21], [26]. Chúng có nhiều độc tố và yếu tố độc lực giúp cho vi khuẩn xâm
nhập vào cơ thể và gây tác hại nghiêm trọng [27], [28].
- Trực khuẩn mủ xanh (P.aeruginosa) : là nguyên nhân hàng đầu gây
nhiễm khuẩn bệnh viện. Những nhiễm khuẩn này rất khó điều trị vì trực
khuẩn mủ xanh kháng lại hầu hết các kháng sinh thông thường với mức độ
kháng rất cao [29], [30].
- Các trực khuẩn đường ruột gây nhiễm khuẩn bỏng thường gặp là
E.coli, K.pneumoniae…[29].
Ngoài nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân bỏng có thể nhiễm nấm, hay gặp nhất
trên vết thương bỏng là Candida, trong đó Candida albicans phổ biến nhất
[1], [31].
1.5. CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG BỎNG
Hiện nay có các nhóm thuốc điều trị bỏng như sau:
- Nhóm dịch truyền nhằm bù chất điện giải, được dùng trong trường hợp
bỏng sâu, diện rộng.
- Nhóm thuốc kháng sinh, dùng khi nhiễm khuẩn nặng, nhiễm khuẩn
toàn thân.

- Nhóm thuốc điều trị tại chỗ vết thương bỏng.
- Nhóm thuốc điều trị bỏng theo kinh nghiệm dân gian.
Tổn thương bỏng là nguồn gốc của mọi rối loạn bệnh lý trong bệnh
bỏng. Dùng thuốc điều trị tại chỗ vết thương bỏng nhằm hạn chế hoặc cắt bỏ
yếu tố bệnh lý này. Hơn nữa, việc sử dụng các hoá chất, kháng sinh kéo dài đã
xuất hiện hiện tượng kháng thuốc, gây khó khăn trong điều trị. Vì vậy dùng
thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng có một vị trí rất quan trọng. Nhóm thuốc điều
trị tại chỗ vết bỏng gồm các thuốc sau:
1.5.1. Thuốc làm rụng hoại tử


16

Giúp loại trừ nhanh mô hoại tử, hạn chế nhiễm khuẩn. Nhóm này gồm
các enzyme tiêu huỷ protein. Các enzyme có nguồn gốc từ động vật (như
pepsin, Chymotripsin), từ thực vật (như men paparin từ mủ quả đu đủ), từ vi
sinh vật (như streptokinase) [1], [8].
1.5.2. Thuốc kháng khuẩn, sát khuẩn
Yêu cầu của một thuốc kháng khuẩn sử dụng trong điều trị bỏng là phải
có tác dụng với các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn vết bỏng với tỷ lệ kháng thuốc
thấp, không hoặc ít gây hoại tử mô lành và tế bào lành, không hoặc ít tác dụng
không mong muốn, có khả năng thấm sâu vào các mô. Nhóm này gồm các thuốc
điển hình như: mỡ mudaxin, acid boric, bạc nitrat, kem Chitosan 2%...
Acid boric là acid yếu, chỉ được dùng cho trường họp bỏng nhiễm trực
khuẩn mủ xanh hoặc bỏng do vôi tôi nóng và diện tích bỏng nhỏ hơn 10 %
diện tích cơ thể. Bạc nitrat chỉ dùng với bỏng nhiễm trực khuẩn mủ xanh và
diện tích bỏng nhỏ hơn 10 % diện tích cơ thể.
Mỡ mudaxin là thuốc mỡ màu nâu đen được nấu từ lá của cây sến.
Mudaxin được nghiên cứu bào chế từ năm 1990-1995 (Lê Thế Trung, Nguyễn
Liêm, Trần Xuân Vận). Đây là thuốc chữa nhiễm khuẩn vết bỏng có hiệu quả

với S.aureus, P.aeruginosa và E.coli. Thuốc còn có tác dụng kích thích biểu
mô hoá ở bỏng nông và tạo mô hạt ở bỏng sâu, thuốc có tác dụng tốt với
bỏng vôi. Nhược điểm là gây đau cho bệnh nhân, làm đen vải trải và tạo thành
vảy mỏng gây trở ngại một phần cho chẩn đoán độ sâu bỏng [5].
Theo tác giả Vũ Thị Ngọc Thanh (2003), kem Chitosan 2% được chiết
xuất từ vỏ tôm có tác dụng điều trị tại chỗ vết thương bỏng nhiệt trên thỏ thực
nghiệm do có tác dụng ức chế vi khuẩn chủ yếu gây nhiễm khuẩn bỏng và
kích thích quá trình tái tạo biểu mô [8].
1.5.3. Thuốc kích thích tái tạo vết bỏng


17

Kích thích biểu mô, tái tạo mô hạt. Trong nhóm thuốc này có nhiều
loại thuốc như: các thuốc mỡ (dầu gan cá thu, dầu gấc có chứa các vitamin A,
D), thuốc mỡ chế từ rau má, thuốc kem nghệ [33].
1.5.4. Thuốc làm se khô, tạo màng che phủ
Thành phần của thuốc có tannin tác dụng làm đông dịch vết thương,
kết tủa protein, liên kết các tơ collagen tạo thành màng. Một số thuốc nam có
tác dụng làm se khô và tạo màng thuốc như cao đặc lá sim, cao lá tràm, chè
dây. Đặc biệt thuốc bỏng chế từ vỏ cây xoan trà (B76) là thuốc được nghiên
cứu và sử dụng nhiều ở nước ta. Thuốc có nhược điểm là gây đau, xót trong
15-30 phút sau phun thuốc và không dùng được với bỏng sâu, bỏng đã nhiễm
khuẩn hoặc ô nhiễm nặng, bỏng do kiềm.
Hiện nay, tại Việt Nam sulfadiazine bạc 1% đang được dùng khá phổ
biến. Nó là sự kết hợp của ion bạc với sulfadiazine, được sản xuất từ năm
1960 dưới dạng cream 1%, có phổ kháng khuẩn rộng với nhiều loại vi khuẩn
như S.aureus, E.coli, P.aeruginosa và nấm Candida. Thuốc có nhược điểm là
ít thấm sâu vào mô hoại tử nên khó kiểm soát được nhiễm khuẩn ở vểt bỏng
sâu [2], hơn nữa do dùng phổ biến và kéo dài nên đã có thông báo về hiện

tượng nhờn thuốc của một số vi khuẩn với loại thuốc này [2]. Ở vết bỏng
thuốc có thể tách làm 2 pha, bạc và sulfadiazine phần bạc có thể tích luỹ ở
gan, thận, niêm mạc gây nhiễm độc.
1.6. TỔNG QUAN VỀ CH 1701
CH1701 là chế phẩm tổng hợp có thành phần gồm 25 g dưới dạng
Nano Sol- Gel. Thành phần dược chất gồm Curcumin: 55,3mg chiết xuất từ
nghệ vàng và Rutin: 16,8mg chiết xuất từ hoa hòe. Rutin và Curcumin trong
CH 1701 tồn tại dưới dạng sol-gel, cấu tạo hạt siêu nhỏ 5-6 nm, có thể tan
trong nước và trong dầu. Tá dược gồm Chitosan, Ethylalcohol, dầu khuynh
diệp, nước tinh khiết. CH 1701 có tác dụng:


18

* Bảo vệ da lành khỏi tác dụng phụ của tia xạ theo các cơ chế:
- Dọn sạch các gốc tự do hoặc oxi hóa
- Làm tăng hoạt động của các enzyme chống oxi hóa
- Giảm lipid peroxide – là ezym làm tổn thương một số hệ thống trao
đổi chất, đẩy nhanh quá trình lão hóa tế bào.
- Tăng sửa chữa DNA và giảm tổn thương DNA
- kiểm soát chu kỳ tế bào
* Làm lành các tổn thương ngoài da: trợt loét, ban đỏ, sẩn ngứa… theo các cơ
chế sau:
- Chống viêm và thu dọn các gốc tự do
- Thúc đẩy quá trình tái tạo biểu mô, ngăn ngừa suy giảm glutathione –
một tripeptid nội sinh có tác dụng chống oxi hóa và lão hóa rất mạnh.
- Giúp các tế bào sừng, nguyên bào sợi phục hồi sau tổn thương do oxi hóa
- Tăng sinh mạch máu mới tại các vết thương do tăng sản xuất TGF-β
* Chống viêm, giảm đau
1.6.1. Nguồn gốc, cấu tạo và vai trò của curcumin

1.6.1.1. Nguồn gốc, cấu tạo
Curcumin có nhiều trong nghệ vàng. Nghệ là cây thân thảo thuộc bộ
Zingiberales, họ Zingiberaceae, chi Curcuma, loài Curcumin longa, có nguồn
gốc ở vùng nhiệt đới Tamil Nadu, phía đông nam Ấn Độ. Trong Y học cổ
truyền, thân rễ cây nghệ được gọi là khương hoàng và rễ củ được gọi là uất
kim. Nghệ vàng (Curcuma longa L.; Zingiberaceae) gồm các thành phần
chính: chất màu (3,5 – 4%), curcumin tinh khiết (1,5 – 2%); trong đó có
curcumin I 60%, curcumin II 24%, curcumin III 14%), ngoài ra, còn
dihydrocurcumin [34], [35], [36], [37], [38], [39]


19

Hình 1.1. Công thức cấu tạo của Curcumin
1.6.1.2. Vai trò
Theo Y học cổ truyền, Nghệ vàng đã được dùng:
- Từ thời kỳ Ayurveda (1900 năm trước Công nguyên) trong nhiều bệnh ở
da, phổi, hệ tiêu hoá, đau nhức, vết thương, bong gân, rối loạn chức năng gan.
- Trung Quốc: kích thích, bổ, giảm đau, cầm máu, tăng cường chuyển
hoá, loét và chảy máu dạ dày.
- Nepal: kích thích, bổ, lọc máu.
- Các nước Đông Nam Á: bổ dạ dày, cầm máu, chữa vàng da, bệnh gan.
- Ấn Độ: giảm viêm, chữa vết thương vết loét ngoài da; dùng ngoài làm
lành vết thương nhờ làm biến đổi TGF-b (Tissue Growth Factor b).
- Hoa Kỳ: là thực phẩm chức năng ngăn chặn các ổ hốc (crypt focus) lạc
chỗ có thể gây ung thư đại – trực tràng, nhờ thúc đẩy qua con đường ty lạp
thể, nên làm giảm tổn thương tiền ung thư, thúc đẩy sự chết tế bào theo
chương trình (apoptosis).



20

- Việt Nam: theo Hải Thượng Lãn Ông, bài thuốc chứa Nghệ chữa trúng
phong bại biệt, huyết tụ đau nhói ổ bụng, đái ra máu, nhiều mồ hôi, huyết ứ,
đau vùng tim, viêm loét dạ dày – tá tràng, ợ hơi ợ chua, suy gan, viêm gan,
vàng da, đái buốt, đau kinh, kinh nguyệt không đều.
1.6.1.3. Cơ chế tác dụng của curcumin
Hơn nửa thế kỷ nay, đã chứng minh curcumin có 3 tính chất chính:
chống oxy hoá (dọn gốc tự do), chống viêm, chống ung thư [40], [41], [42],
[43], [44], [45]. Ngoài ra, curcumin còn kháng virut, vi khuẩn, có tiềm năng
chống nhiều bệnh ác tính, tiểu đường, dị ứng, viêm khớp, Alzheimer v.v…
- Về chống viêm, đã giải thích như sau:
Trong tế bào, có “yếu tố của nhân tế bào Kappa B” (Nuclear Factor
Kappa B; viết tắt: “NF - kB”). NF - kB là một phức hợp gồm “p 50 + p65” +
chất ức chế có tên là IkBα. Khi còn toàn vẹn như vậy, thì NF - kB chưa tạo
phản ứng viêm. Nhưng một khi có tín hiệu hoạt hoá NF - kB, thì khi đó chất
ức chế IkB sẽ bị phosphoryl hoá và mất tác dụng ức chế. Hậu quả là “p 50 +
p65” sẽ đi vào nhân tế bào (do đó gọi là yếu tố nhân; Nuclear Factor), gây quá
trình viêm bằng cách tạo các protein gây viêm.
Tác dụng chống viêm của curcumin là nổi trội nhất: Chống viêm dạ dày
– ruột, tụy, khớp, mắt, viêm hậu phẫu, những rối loạn thoái hóa thần kinh…
- Về tác dụng chống oxi hóa:
Curcumin có tác dụng trung hòa các gốc tự do superoxyde và hydroxyl,
vì vậy làm giảm sự peroxy – hóa lipid, bảo vệ glutathion, bảo vệ ty lạp thể và
lưới nội bào của tế bào thận để chống hủy hoại thận, còn bảo vệ não, tim, gan,
mật, hệ miễn dịch, da để chống các chất oxy hóa.
-

Về tác dụng chống ung thư
Curcumin có tác dụng loại bỏ gốc oxi hóa và các enzyme gây ung thư


trong thức ăn và nước uống hằng ngày. Với liều cao, Curcumin ức chế sự khởi


21

đầu và xúc tiến nhiều loại ung thư như ung thư niêm mạc dạ dày, đại tràng,
tuyến tụy, da, tuyến vú, ung thư máu và các bệnh lý hệ thống khác như xơ
cứng bì, vảy nến…
1.6.2. Nguồn gốc, cấu tạo và vai trò của Rutin
1.6.2.1. Nguồn gốc, vai trò
Rutin là một loại vitamin P, có tác dụng tăng cường sức chịu đựng của
mao mạch. Chữ P là chữ đầu của chữ permeabilite có nghĩa là tính thấm.
Ngoài rutin có tính chất vitamin P ra, còn nhiều chất khác có tính chất đó nữa
như: esculozit, hesperidin (trong vỏ cam)…
Ở Việt Nam, rutin được tìm thấy với tỉ lệ cao trong hoa hòe và tam giác
mạch. Hoa hòe tên khoa học Sophora japonica L. thuộc họ cánh bướm
Fabaceae (Papiionaceae).
Hoa hòe mọc hoang và được trồng khắp nơi ở nước ta, được dùng để
nấu nước uống cho mát và dùng để nhuộm màu vàng. Trong hoa hòe có từ 6 30% rutin (tutozit). Rutin là một glucozit, thủy phân cho quexitin.
Tính chất hoa hòe theo tài liệu cổ: hoa vị đắng, tính bình, quả vị đắng
tính hàn. Hoa vào 2 kinh can và đại tràng. Quả vào kinh can. có tác dụng
lương huyết, thanh nhiệt, chỉ huyết (hoa). Quả tính chất gần như hoa nhưng
có thể gây sảy thai. Dùng chữa xích bạch lỵ, trĩ ra máu, thổ huyết, máu cam,
phụ nữ băng huyết.
Hoa hòe thường được dùng cho bệnh nhân cao huyết áp mà mao mạch
dễ vỡ, đứt, để đề phòng đứt mạch máu não, xuất huyết cấp tính do viêm thận,
xuất huyết ở phổi mà không rõ nguyên nhân, còn có tác dụng với bệnh cao
huyết áp.



22

Hình 1.2. Công thức cấu tạo của Rutin
1.6.2.2. Vai trò của Rutin
Theo một nhà khoa học Ba Lan, rutin có ba tác dụng: bảo vệ mạch
máu, ngăn ngừa các tiểu cầu tập hợp và giảm tính thấm mao mạch.
Rutin có tác dụng chủ yếu là bảo vệ sức chịu đựng bình thường của
mao mạch. Thiếu chất vitamin này tính chất chịu đựng của mao mạch có thể
bị giảm, mao mạch dễ bị đứt vỡ, hiện tượng này trước đây người ta chỉ cho
rằng do thiếu vitamin C, gần đây mới phát hiện sự liên quan đến vitamin P.
Nó cũng hoạt động như một chất chống oxy hóa để ngăn chặn các tổn
thương do gốc tự do, và có thể làm giảm nguy cơ tăng huyết áp. Rutin không
những dùng để phòng đột quỵ, còn sử dụng cho những người hồi phục từ sau
cơn đột quỵ và các bệnh xuất huyết khác nhờ tác dụng tăng cường và xây
dựng lại các mạch máu bị hư hỏng.
Bằng cách tăng cường các mạch máu, đặc biệt là hầu hết các mao
mạch, bổ sung tuyệt vời này sẽ làm giảm mạnh nguy cơ bị đột quỵ lần thứ hai
hoặc bất kỳ rối loạn liên quan khác. Nó giúp giảm viêm và giữ cho các thành
của các mạch máu này dày và chắc hơn, có thể ngăn chặn nhiều dạng khác
nhau của xuất huyết, bao gồm đột quỵ.


23

CHƯƠNG 2
NGUYÊN LIỆU - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

2.1. NGUYÊN LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1.1. Thuốc nghiên cứu
CH1701 là chế phẩm dạng bôi. Mỗi tuýp có thành phần gồm 25 g dưới
dạng Nano Sol- Gel.
- Thành phần dược chất gồm Curcumin: 55,3mg chiết xuất từ nghệ vàng
và Rutin: 16,8mg chiết xuất từ hoa hòe.
- Tá dược gồm Chitosan, Ethylalcohol, dầu khuynh diệp, nước tinh khiết
2.1.2. Hóa chất và dụng cụ nghiên cứu
- Sulfadiazin- bạc 1%
- Kính hiển vi quang học
- Máy ảnh kỹ thuật số
- Máy vi tính và phần mềm tính diện tích vết thương ImageJ Basics ver 1.38.
- Máy huyết học VET ABC, sản xuất tại Ý.
- Máy sinh hóa XC 55, sản xuất tại Trung Quốc.
- Các dụng cụ, hóa chất để nhuộm tiêu bản mô bệnh học.
- Dụng cụ gây bỏng có đường kính 2,5 cm, có trọng lượng 100 gam.


24

2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Động vật thí nghiệm
Nghiên cứu
-Độc tính cấp.

Đối tượng
Chuột nhắt trắng chủng
Swiss

Tiêu chuẩn
Cả 2 giống, khỏe mạnh,

trọng lượng 18 – 22g.
Cả 2 giống,
Độc tính tại chỗ
Thỏ trắng
khỏe mạnh,
trọng lượng > 2 kg.
Độc tính toàn thân
Chuột cống trắng chúng Cả 2 giống, khỏe mạnh,
Tác dụng điều trị bỏng
Wistar
cân nặng 250-280 g
Động vật thí nghiệm được nuôi trong điều kiện đầy đủ thức ăn chuẩn
dành riêng, nước uống, độ ẩm, độ thông khí và ánh sáng thích hợp trong 7
ngày trước khi nghiên cứu và trong suốt thời gian nghiên cứu.
2.2.2. Chủng vi khuẩn mẫu quốc tế
4 chủng vi khuẩn chuẩn: Pseudomonas aeruginosa, Staphylococus
aureus, Escheriachia coli, Klebsiella pneumoniae. Các chủng này được nhập,
bảo quản, nuôi cấy tại khoa Vi sinh, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Nghiên cứu độc tính cấp
Xác đinh LD50 của CH 1701 trên chuột nhắt trắng bằng đường tiêm
dưới da theo phương pháp Litchfield - Wilcoxon [46].
Chuột nhắt trắng, cả 2 giống, trọng lượng 20 ± 2g được chia thành từng
lô, mỗi lô 10 con. Cho từng lô chuột tiêm dưới da CH 1701 với liều từ liều
cao nhất không gây chết tới liều thấp nhất gây chết 100% chuột.
Theo dõi số chuột chết trong 72 giờ đầu và tình trạng chung của chuột
trong 7 ngày sau khi tiêm thuốc về sự ăn uống, hoạt động thần kinh, đi lại, leo
trèo, bài tiết, ....
Xác định LD50 theo tỷ lệ chuột chết trong vòng 72 giờ đầu.
2.3.2. Nghiên cứu độc tính tại chỗ (khả năng gây kích ứng da)



25

Nghiên cứu khả năng gây kích ứng da của CH 1701 tiến hành dựa trên
hướng dẫn của OECD 404 và ISO 10993-10 về việc đánh giá kích ứng da
dành cho các sản phẩm dùng ngoài da [].
Trước ngày thí nghiệm, làm sạch lông thỏ ở vùng lưng đều về hai bên
cột sống một khoảng đủ rộng để đặt các mẫu thử và đối chứng (khoảng 10cm
x 15cm). Mỗi mẫu được thử trên 03 thỏ. 0,5 g thuốc thử trải trên lên miếng
gạc vô khuẩn 2,5 cm x 2,5 cm ,đắp lên da. Cố định miếng gạc bằng băng dính
trong 6 giờ. Sau đó bỏ gạc và băng dính, chất thử còn lại được làm sạch bằng
nước ấm.
Quan sát và ghi điểm phản ứng các thời điểm 1 giờ, 24 giờ, 48 giờ và
72 giờ sau khi làm sạch mẫu thử. Đánh giá phản ứng trên da ở các mức độ
gây ban đỏ, phù nề.
Bảng 2.1. Mức độ phản ứng trên da thỏ
Phản ứng
Điểm đánh giá
1. Sự tạo ban đỏ và tạo vẩy
- Không ban đỏ
0
- Ban đỏ rất nhẹ (vừa đủ nhận thấy)
1
- Ban đỏ nhận thấy rõ
2
- Ban đỏ vừa phải đến nặng
3
- Ban đỏ nghiêm trọng (đỏ tấy) đến tạo thành vẩy để
4

ngăn ngừa sự tiến triển của ban đỏ
2. Gây phù nề
- Không phù nề
0
- Phù nề rất nhẹ (vừa đủ nhận thấy)
1
- Phù nề nhận thấy rõ (viền phù nề nặng lên rõ)
2
- Phù nề vừa phải (da phồng lên khoảng 1 mm)
3
- Phù nề nghiêm trọng (da phồng lên trên 1 mm và có
4
lan rộng ra vùng xung quanh)
Tổng số điểm kích ứng tối đa có thể của mẫu thử
Đánh giá kết quả: Trên mỗi thỏ, điểm phản ứng được tính bằng tổng số
điểm ở hai mức độ ban đỏ và phù nề chia cho số lần quan sát. Điểm kích ứng
của mẫu thử được lấy trung bình điểm phản ứng của các thỏ đã thử. Điểm


×