Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

ĐẶC điểm HÌNH THÁI GIẢI PHẪU SINH lý hệ THỐNG ỐNG tủy NHÓM RĂNG hàm lớn hàm TRÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 50 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1984 Vertucci lần đầu mô tả các biến thể giải phẫu hệ thống ống
tủy bằng cách cho điểm và chia chúng thành 8 dạng [1]. Năm 1990, Weine đã
phân loại ống tủy chung làm 4 loại [2]. Đến năm 2005, Vertucci F.J đã chỉ ra
rằng hệ thống giải phẫu ống tủy chân răng rất phức tạp và đa dạng về hình
dạng miệng ống tủy, số lượng ống tủy chân, sự phân nhánh của các ống tủy
phụ, sự chia tách các lỗ chóp chân răng ở những răng hàm lớn, đặc biệt là hệ
thống ống tủy răng hàm lớn thứ nhất và thứ hai hàm trên [3]. Từ những năm
30, thuật ngữ điều trị nội nha ra đời với các hệ thống nguyên tắc cơ sinh học
nhằm mục đích kéo dài tuổi thọ của răng để duy trì sức nhai. Cho đến nay
nghành nội nha đã phát triển, có nhiều quan điểm mới nhưng về cơ bản vẫn
dựa trên nguyên tắc: làm sạch, tạo hình ống tủy và trám bít hệ thống ống tủy
theo không gian ba chiều. Để đạt được kết quả này các nha sỹ phải xác định
rõ cấu trúc giải phẫu sinh lý của răng cũng như hệ thống ống tủy của răng cần
điều trị.
Răng hàm lớn hàm trên là răng thường gặp trong lâm sàng điều trị nội
nha, nhưng tỷ lệ thất bại trong điều trị cũng khá cao, nguyên nhân của thất bại
thường gặp là do bỏ sót ống tủy. Với đặc điểm cấu trúc hệ thống ống tủy phức
tạp, việc nghiên cứu tìm hiểu sâu về giải phẫu sinh lý răng hàm lớn hàm trên
sẽ giúp cho các bác sỹ Răng Hàm Mặt chủ động trong việc điều trị và chắc
chắn sẽ mang lại kết quả điều trị cao.
Chúng tôi thực hiện chuyên đề này nhằm điểm lại những đặc điểm giải
phẫu chức năng của hệ thống ống tủy các răng hàm lớn hàm trên cũng như
ứng dụng của chúng trong điều trị nội nha.


2
1. Giải phẫu chức năng chung của răng
1.1. Các lớp mô cứngcủa răng [4]


- Răng được chia làm ba phần: thân răng, cổ răng và chân răng (do men,
ngà và xê măng tạo thành).
- Cấu tạo của răng gồm: men răng, ngà răng, xê măng răng và tủy răng.
Men răng
Ngà răng
Dây chằng
quanh răng

Tủy răng
Xê măng

Mạch máu
Thần kinh

Hình 1. Cấu tạo của răng [5]
1.1.1. Men răng
Men răng trưởng thành phủ mặt ngoài ngà thân răng, là mô cứng nhất
trong cơ thể. Men răng được hình thành từ ba quá trình diễn ra đồng thời
trong mỗi mầm răng. Sau khi hoàn thành quá trình tạo men răng, các nguyên
bào tạo men răng, các nguyên bào tạo men thoái hóa, men răng không được
tái tạo trong quá trình sống.
Thành phần và đặc tính của men răng: Men răng là một sản phẩm của
hoạt động tế bào, khoáng hóa và có cấu trúc tinh thể gần như thuần khiết, là
sản phẩm cuối cùng và trưởng thành từ sản phẩm ban đầu của nguyên bào là
khuôn men. Men răng trưởng thành là sản phẩm tế bào có độ khoáng hóa cao
nhất và cứng nhất trong cơ thể. Men răng gồm thành phần vô cơ và hữu cơ.


3
* Thành phần nước trong men răng [6]

Ở men răng non đang trong quá trình hình thành nước chiếm khoảng
50%, sau đó giảm trong quá trình trưởng thành.
Hầu hết thành phần nước trong men răng trưởng thành bao bọc xung
quanh các tiểu tinh thể như một vỏ hydrat và chỉ có một phần tư lượng nước
tự do trong thành phần hữu cơ của men.
* Khuôn hữu cơ
Ở men răng trưởng thành, thành phần hữu cơ chủ yếu là các protein hòa
tan và không hòa tan, cùng một lượng nhỏ carbohydrat và chất béo.
Khuôn hữu cơ nằm chủ yếu ở một phần ba trong của lớp men và thể hiện
dưới dạng búi men và lá men.
* Thành phần aminoacid của protein.
Ở men răng chưa trưởng thành trong bào thai thành phần cao nhất là
glutamic acid, proline, histidine.
Ở men răng trưởng thành là aspartic acid, serine và glycine.
Ở men răng trưởng thành, protein khuôn men ở lớp ngoài có sự khác biệt
thành phần so với lớp trong. Thành phần Protein chính của khuôn men có độ
tập trung cao ở các vùng rãnh dọc theo đường ranh giới men ngà và ở vùng
men cổ răng, ở những vùng này lượng vô cơ giảm thấp tương ứng.
* Thành phần tinh thể
Được tạo bởi: Can xi, Phosphor, Sodium, Magnesium, Chlorine,
Potassium.
- Tỉ lệ can xi/phosphor thay đổi từ 1,8/1 đến 2/1.
- Thành phần muối của men răng là hydroxyl apatite Ca10 (PO4)
6(OH)2. Các nguyên tố vi lượng gồm: Vanadium, manganese, selenium,
molybdenum, strontium ....và fluorine. Fluorine cao nhất luôn là ở năm mươi
micromet ở lớp men bề mặt ngoài cùng. Những lớp men ở sâu có hàm lượng


4
fluorine thấp hơn đến hai mươi lần. Hàm lượng fluorine thay đổi phụ thuộc

vào hàm lượng của chúng có trong nước uống, thức ăn, kem đánh răng, yếu tố
tuổi, bề mặt của răng...
- Tính chất vật lý của men răng: ở răng vĩnh viễn, lớp men có độ dày từ vài
micron ở vùng cổ răng đến hai phẩy năm mm ở vùng rìa cắn và vùng đỉnh múi.
Men răng là bộ phận cứng và giòn nhất trong cơ thể. Màu của men trong, hơi có
ánh xanh xám - vàng nhạt, màu men được quyết định bởi chiều dày lớp men,
màu vàng nhạt của ngà và màu trong của men. Men răng có một tính thấm giới
hạn, chất màu có thể ngấm từ môi trường bên ngoài vào hay từ tủy qua đường
tiếp giáp men ngà. Nó có vai trò như một màng thấm và trao đổi ion.
1.1.2.Ngà răng [6]
Là lớp chiếm khối lượng chủ yếu ở răng được bao phủ bởi men răng
thân răng và nằm trong xương ổ răng ở phần chóp. Bề dày ngà răng thay đổi
trong đời sống do hoạt động của nguyên bào ngà. Ngà răng ngày càng dày
theo hướng hốc tủy răng, làm hẹp dần hốc tủy răng.
* Cấu trúc ngà răng
- Đuôi bào tương của nguyên bào ngà trong vùng ngoại vi của tủy răng
có tác dụng giúp nâng đỡ về mặt sinh lý học cho toàn bộ lớp ngà răng bên
ngoài và đắp dày thêm lớp ngà nhờ việc tạo ngà thứ phát. Chiều dài của một
đuôi nguyên bào ngà thường là hai đến ba micromet, cũng có thể năm
micromet. Đường kính của đuôi nguyên bào ngà thay đổi giảm từ trong ra
ngoài khoảng 4 - 5micromet trước khi vào lớp tiền ngà, 1- 3 micromet ở vùng
ngà gần tủy, giảm còn 0,5 - 1 micromet ở vùng ngà xa tủy. Đuôi nguyên bào
ngà cho các nhánh bên gọi là vi nhung mao đi vào ngà gian ống. Bào tương
của các đuôi nguyên bào chứa ty lạp thể có nhiều sợi dày 5 - 8 nm và các vi
quản đường kính 20 - 25nm chạy song song theo trục của nó.


5
- Ống ngà: trong quá trình tạo ngà, các đuôi nguyên bào ngà bị kéo dài
dần, chúng nằm trong những ống dài chạy xuyên qua lớp ngà đã khoáng hóa

đó là các ống ngà. Trong lòng các ống ngà có các dịch mô. Khoảng quanh
nguyên bào ngà giữa màng bào tương có đuôi nguyên bào ngà và thành ống
ngà, khoảng này chứa dịch mô và các thành phần cấu trúc hữu cơ như sợi
collagen và chất khuôn của ngà quanh ống, nó cũng có vai trò nâng đỡ sinh lý
cho ngà răng.
* Thành phần cấu tạo
- Ngà răng là một mô cứng khoáng hóa chiếm phần lớn thể tích của răng
và mang lại hình dáng đặc trưng cho răng. Nó được che phủ ở thân răng bởi
men răng và ở chân răng bởi xê măng răng. Ngà răng bao bọc và bảo vệ tủy
răng. Ngà răng có cấu tạo tương tự như xương và xê măng nhưng hoàn toàn
khác với men răng.
- Các dạng ngà răng: ngà vỏ, ngà quanh tủy, ngà gian ống, ngà quanh ống.
- Thành phần hữu cơ: khuôn hữu cơ của ngà răng chứa 91-92% collagen
và 8-9% không collagen. Thành phần hữu cơ trong các lớp khác nhau có xu
hướng đảo ngược so với thành phần khoáng. Nó rất cao ở phần ngà vỏ và rất
thấp ở phần ngà quanh ống.
- Thành phần vô cơ: Tất cả ngà răng đều có thành phần tinh thể
phosphate calci dạng apatite. Về thể tích, các tinh thể này chiếm khoảng 90%
ngà quanh ống và 50% ngà gian ống.
Thành phần khoáng của ngà răng (các tinh thể hydroxy apatite) chứa
calci và phosphor với tỉ lệ 1: 2,3 tính theo khối lượng, các tinh thể dài khoảng
60 - 70nm, rộng 20 - 30nm, dày 3 - 4nm. Thành phần khoáng của ngà quanh
tủy tương đối đồng nhất và có tỷ lệ cao hơn so với thành phần hóa học trung
bình của ngà răng. Thành phần fluor tăng lên theo tuổi do kết quả của việc


6
hấp thu fluor sau khi răng đã mọc, thêm vào đó là thành phần fluor của ngà
thứ phát.
* Đặc tính của ngà răng

- Ngà răng mềm hơn hẳn so với men răng, nhưng cứng hơn xương và xê
măng. Độ cứng của ngà răng ở thân răng, cổ răng và chân răng tương tự nhau,
tuy nhiên tùy theo từng vùng, độ cứng của ngà có khác nhau. Ngà cứng nhất
được thấy là ở khoảng cách tủy 0,4 - 0,6nm cho tới khoảng giữa lớp ngà
(82,5kg/mm2). Ở gần tủy răng, ngà mềm hơn khoảng 30% (50-60kg/mm2).
Vùng ngà răng ở ngoại vi có độ dày khoảng 100 micromet, tương đối mềm.
Ngà xơ hóa cứng hơn hẳn so với bình thường.
- Ngà răng tự nhiên có màu vàng nhạt, có độ đàn hồi cao, ngà răng xốp
và có tính thấm. Khả năng thẩm thấu tăng khi lớp ngà mỏng và đối với các
thành phần có phân tử nhỏ, khả năng thẩm thấu giảm khi mức xơ hóa tăng.
1.1.3. Xê măng răng [6]
Là một mô liên kết không đồng nhất, khoáng hóa và bao bọc quanh chân
răng. Đây là nơi neo chặn giữ các bó sợi collagen của dây chằng nha chu vào
bề mặt chân răng.
Có loại xê măng có tế bào giống như xương và xê măng không tế bào
(có chức năng nâng đỡ răng). Xê măng luôn bồi đắp lên trên một mô cứng
khác, thường là ngà, và không có mạch máu nuôi dưỡng.
Có 4 loại xê măng về mặt hình thái học và chức năng: Xê măng không
sợi không tế bào là loại không chứa xê măng bào và không có sợi collagen, nó
là chất tạo khuôn. Xê măng sợi ngoại sinh không tế bào gồm các bó sợi
collagen ngoại sinh (sợi Sharpey). Xê măng sợi hỗn hợp có tế bào chứa xê
măng bào và cả hai loại sợi: sợi ngoại sinh và sợi collagen nội sinh.


7

* Đường nối men - xê măng
Là đường phân chia thân răng và chân răng giải phẫu. Tại đây men răng
bao phủ ngà cổ răng gặp xê măng sợi ngoại sinh không tế bào bao phủ phần
ngà chân răng.

* Quá sản xê măng
Quá sản xê măng là do xê măng sợi hỗn hợp có tế bào trở nên dày đặc và
có độ dày bất thường.
Quá sản xê măng tại chỗ được thấy dưới dạng gai hay những nốt nhô lên
trên bề mặt của xê măng thông qua sự tăng trưởng của những bó sợi nha chu
khoáng hóa một phần hoặc hạt xê măng.
Quá sản xê măng toàn thể, ảnh hưởng tới toàn bộ các răng là một quá sản
xê măng hỗn hợp có tế bào hoặc do bệnh toàn thân như rối loạn tạo xương
hay bệnh Paget.
* Thành phần của xê măng
- Thành phần hữu cơ chủ yếu của xê măng là collagen type I, thành phần
amino acid tương tự như xương và chất căn bản.
- Thành phần vô cơ có các muối khoáng: calxi, phosphor, magnesi,...
+ Hàm lượng Fluor có nguồn gốc từ nước uống.
+ Đồng, sắt, chì, kali, natri, kẽm,...
* Tính chất vật lý
- Xê măng có màu vàng nhạt
- Độ cứng kém hơn ngà răng, độ cứng Knoop là 40 ± 6 với xê măng
ngoại sinh không tế bào và 70 ± 7 đối với xê măng sợi hỗn hợp có tế bào.
* Chức năng
- Xê măng được lắng đọng trên lõi ngà của chân răng vì vậy là một thành
phần chính của chân răng.


8
- Xê măng sợi ngoại sinh không tế bào là neo giữ các răng. Các bó sợi
collagen của dây chằng nha chu nhúng một đầu vào xê măng và đầu kia vào
xương ổ răng, rồi được cố định bằng cách khoáng hóa. Tuy nhiên, sự neo giữ
này không phải là một hệ thống tĩnh mà luôn luôn có sự đổi mới.
- Xê măng sợi hỗn hợp không tế bào: ở vùng chóp chân răng góp phần

trong sự tái sinh của những mô nha chu khác thông qua sự bồi đắp thêm của
xê măng mới.
1.2. Giải phẫu chức năng tủy răng
1.2.1. Đặc điểm chức năng sinh lý của mô tủy
Tủy răng là một mô liên kết đặc biệt giàu mạch máu và thần kinh. Mô
tủy có phản ứng với các kích thích và đảm nhận chức năng sống của ngà và
toàn bộ răng.
* Đặc điểm chức năng của tủy
- Mô tủy có nguồn gốc từ nhú răng.
- Mô tủy chứa 75% nước và 25% là chất hữu cơ.
- Áp lực bình thường trong tủy là từ 8 - 15 mmHg được điều hòa bằng cơ
chế vận mạch. Khi tủy viêm áp lực có thể tăng tới 35 mmHg hoặc hơn nữa,
làm cho tủy răng bị chèn ép trong một buồng kín, cứng nên dễ bị hoại tử và
không có khả năng hồi phục.
- Chức năng của tủy:
+ Chức năng nuôi dưỡng các nguyên bào ngà, qua đó góp phần gián
tiếp tạo ngà nguyên phát và thứ phát.
+ Tủy chứa lưới thần kinh và chi phối cảm giác đau.
+ Tủy răng cũng chứa một hệ thống tế bào phòng vệ dự bị, các tế bào
này được hoạt hóa bởi quá trình viêm, bệnh lý miễn dịch hay hoại tử
tế bào. Hệ thống này cũng hỗ trợ cho quá trình tạo ngà trong ống và
ngà thứ phát thông qua hoạt động của các nguyên bào ngà.


9
+ Nhờ có một hệ thống dày đặc mạch máu đi ra và đi vào thông qua
nhiều ống tủy mà tủy răng có khả năng kéo dài sự sống, ngay cả dưới
điều kiện khắc nghiệt (sâu răng, nhiễm trùng, hình thành áp xe)
- Các dấu hiệu thoái hóa tủy:
+ Khoang tủy bị thu hẹp dần

+ Giảm từ từ nhưng đều đặn mật độ nguyên bào sợi ở tủy thân.
+ Tăng các bó sợi collagen ở tủy chân.
+ Giảm số lượng mạch máu.
+ Hình thành sạn tủy (sỏi tủy), lắng đọng bất thường các tinh thể
phosphate calci.
+ Xơ hóa tủy hay thiểu dưỡng tủy.
* Thành phần của mô tủy
Mô tủy là một mô liên kết lỏng lẻo đặc biệt chứa tế bào, khuôn gian
bào sợi oxytalan (dạng kháng acid) lưới và các sợi collagen. Tủy là một mô
giàu mạch máu và thần kinh.
- Thành phần tế bào:
+ Nguyên bào ngà: Ở tủy còn non, sau khi chân răng mới hình thành,
các nguyên bào ngà nằm thành một lớp có độ dày khác nhau ở vùng
ngoại vi của tủy, dọc theo lớp tiền ngà.
+ Nguyên bào sợi: Là loại tế bào nhiều nhất trong tủy răng. Tế bào hình
thoi dẹt, nhân lớn hình oval, các nguyên bào sợi có nhiều đuôi bào
tương, đôi khi các đuôi này rất dài và tiếp xúc với nhau bằng các thể nối.
- Các tế bào trung mô chưa biệt hóa: Được gọi là tế bào thay thế, hay còn
gọi là tế bào dự trữ.
- Các loại tế bào khác: Mô bào, bạch cầu đơn nhân, lympho bào.
* Thành phần sợi và chất căn bản
Mô tủy giàu thành phần lưới sợi, các sợi lưới có rất nhiều ở nhú răng và tủy
răng. Chất căn bản dạng gel chứa nhiều nước và nhiều Glucosaminoglycan khác
nhau. Mật độ dày đặc ở nhú răng và thấp hơn rất nhiều khi trở thành tủy răng.


10
* Mạch máu
- Phân bố: Tủy răng rất nhiều mạch máu, các mạch máu ra vào tủy qua lỗ
chóp răng và qua ống tủy phụ. Các mạch máu bao gồm: các động mạch nhỏ

hẹp và các tĩnh mạch có thành mỏng tạo nên một bó mạch chạy dọc theo
thành ống tủy chân răng lên thân răng và phân chia rộng rãi ở đó trong buồng
tủy thân răng.
* Cấu trúc
Từ các đám rối mạch dưới nguyên bào ngà, các tiểu động mạch và tĩnh
mạch đi vào trung tâm tủy răng sau đó đi về phía chóp dọc theo đường đi lên
của các động mạch. Tĩnh mạch lớn hơn động mạch.
* Điều hòa tuần hoàn
Tốc độ dòng máu phụ thuộc vào đường kính của lòng mạch. Trong tủy,
dòng máu được kiểm soát thông qua sự điều hòa co mạch của thần kinh giao
cảm. Áp lực máu ở mao mạch có thể lên tới 150 mmHg.
* Mạch bạch huyết
Mạch bạch huyết khác với mạch máu là các mạch bạch huyết có thành
nội mô rất mỏng, có van, không có màng đáy và không có hồng cầu.
* Thần kinh
- Các sợi thần kinh cũng đi vào tủy qua lỗ chóp cùng với mạch máu và
mạch bạch huyết. Có sự phân biệt giữa các sợi myelin và các sợi không myelin.
+ Các sợi không myelin: chạy dọc theo hệ thống thần kinh tự chủ, liên
quan trực tiếp tới các ống mạch, chi phối cho cơ trơn của thành mạch
và điều hòa sự co mạch.
+ Các sợi có myelin: từ thần kinh sinh ba và bao gồm các sợi cảm thụ bản
thể và các sợi nhận cảm đau hướng tâm.


11
- Các sợi trục đến từ tủy chân răng nằm trong hai hoặc ba bó sợi thần
kinh. Cắt ngang một bó sợi dạng này, thông thường thấy khoảng 150 sợi trục,
trong trường hợp đặc biệt có thể tới 1300 sợi.
1.2.2. Giải phẫu tủy răng
Tuỷ răng là một khối tổ chức liên kết mạch máu và thần kinh nằm trong

một hốc ở giữa răng gọi là tuỷ răng. Hình của tuỷ răng nói chung tương tự
như hình thể ngoài của răng. Nó gồm có tủy buồng và ống tuỷ chân răng.
Răng hàm là răng có nhiều chân. Tủy buồng của răng nhiều chân có trần tuỷ
và sàn tuỷ. Ở trần tuỷ có thể thấy những sừng tuỷ tương ứng với các núm ở
mặt nhai. Tủy buồng thông với tuỷ ống tủy chân và thông với tổ chức liên kết
quanh cuống răng bởi lỗ quanh cuống răng. Mỗi chân răng thường có một ống
tuỷ chính. Song ngoài ống tuỷ chính ra ta có thể thấy nhiều ống tuỷ chân phụ,
những nhánh phụ này có thể mở vào vùng cuống răng bởi các lỗ phụ. Mỗi
ống tủy thường cong, ít khi thẳng đơn giản. Đây cũng là một thách thức trong
việc tạo hình ống tủy [4].

Hình 2. Hình thể trong của tủy răng hàm [7]
Tuy nhiên, hình dạng ống tuỷ không phải ổn định. Từ nghiên cứu của
Hess (1945) cho tới những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng hệ thống ống
tuỷ vô cùng đa dạng và phức tạp ở hầu hết các răng với sự phân nhánh hoặc


12
nhánh nối của ống tuỷ phụ, các đoạn cong bất thường của các ống tuỷ chính
và hình thể đa dạng của hệ thống ống tuỷ trên diện cắt ngang [8].
Trong điều trị trước đây các nhà lâm sàng thường chỉ quan tâm đến ống
tuỷ chính và hàn kín ống tuỷ chính. Về mặt lâm sàng, ống tuỷ chính là ống
tuỷ có thể thăm dò và thông bằng trâm K từ số 08 trở lên.
Carms và Skidmore (1973) và Vectuci (1974) đã mô tả hình thể đặc biệt
với cấu trúc ống nối và dạng ống tuỷ dẹt của răng số 4, 5 hàm trên [9], [10].
Răng hàm lớn thứ nhất hàm trên là răng có cấu trúc phức tạp nhất trên cung
hàm. Khác với quan niệm trước đây Kulid (1990) đều đưa ra một tỉ lệ rất cao
sự xuất hiện ống tuỷ chính thứ 2 của chân răng gần ngoài [11], [12], [13], [14].
Theo Schilder, mô tủy có các đặc tính mô học quan trọng liên quan đến
bệnh lý tủy và quá trình điều trị tủy [15].

Đặc điểm mô học liên quan đến bệnh viêm tủy
- Hóa học của mô tủy: Mô tuỷ chứa 70% nước, 30% là chất hữu cơ. Áp lực
bình thường trong tủy là từ 8 mmHg đến 15 mmHg, được điều hòa bởi cơ chế
vận mạch. Theo Seltzer, khi tủy bị viêm áp lực có thể tăng tới 35 mmHg [16].
- Sự mất cân xứng giữa thể tích mô tủy và hệ thống cung cấp máu làm
cho mô tủy khó liền thương nếu bị bệnh.
- Thiếu cấu trúc tuần hoàn phụ do các lỗ cuống bên tắc dần theo quá
trình canxi hóa.
- Buồng tủy giới hạn bởi ngà cứng nên dễ bị họai tử vô mạch ngay trong
giai đoạn giãn mạch và thoát quản của quá trình viêm.
Do đặc điểm của mô học nói trên nên khi viêm tủy rất ít có khả năng hồi
phục, thường nhanh chóng hoại tử toàn bộ và tiến triển thành bệnh cuống răng
Đặc điểm mô học liên quan đến quá trình điều trị tủy.
Ranh giới xê măng - ngà là mốc rất khó có thể xác định được trên lâm
sàng. Qua nghiên cứu invivo và invitro, năm 1955 Kuttler đã xác định được


13
“mốc tin cậy” để áp dụng trong lâm sàng. Đó là điểm cách cuống răng trên
Xquang 0,5 - 1mm, điểm được coi là tận hết của hệ thống ống tủy [17].
* Định khu hốc tủy [4]
Hốc tủy gồm buồng tủy (BT) hay còn gọi là tủy thân và ống tủy (OT)
hay còn gọi là tủy chân răng, nằm trong buồng tủy là tủy buồng, nằm trong
ống tủy là tủy chân.
Theo Vertucci, thể tích hốc tủy của các răng vĩnh viễn thay đổi theo hình
dạng, kích thước từng răng, từng chân răng và theo tuổi. Tuổi càng tăng, thể
tích hốc tủy càng thu hẹp, sự thu hẹp này diễn ra nhiều ở vùng trần buồng tủy
(BT), sừng tủy và một phần sàn buồng tủy, thành bên BT. Đồng thời cũng
diễn ra sự thu hẹp đường kính ống tủy chân và lỗ cuống [3]. Chiều cao của
buồng tủy ở người hai mươi nhăm tuổi bằng một phần ba chiều cao thân răng,

khi tuổi càng tăng lên thì thể tích buồng tủy càng hẹp dần, do các tạo ngà bào
bị lớp ngà thứ phát đẩy lùi vào khoang tủy, quá trình thu hẹp khoang tủy cũng
xảy ra như vậy ở phần tủy chân răng.

Hình 3. Hình ảnh buồng tủy lúc bình thường và bị thu hẹp [18]
Ống tủy chân cũng bị thu hẹp dần. Đặc biệt, ở các chân răng dẹt, thành
gần hoặc xa của ống tủy xuất hiện gờ ngà xâm lấn vào lòng ống tủy làm cho
ống tủy bị chia làm hai hoặc nhiều ống tủy. Sự phân chia này có thể hoàn toàn
hoặc không hoàn toàn do giữa các ống tủy được phân chia có sự liên thông.


14
* Hình thái của tủy răng [4]
Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy một tỷ lệ lớn thất bại trong điều trị nội
nha gặp ở rất nhiều các bác sỹ mới vào nghề, do không nắm chắc được giải
phẫu hệ thống ống tủy. Đối với các nha sỹ có kinh nghiệm, sự thất bại trong
điều trị là do sự phức tạp của hệ thống ống tủy.
- Trần buồng tủy là giới hạn trên của buồng tủy, thường cách xa sàn ở
người trẻ và bị hạ thấp ở người già do quá trình phát triển ngà cũng như các
kích thích về cơ học, hóa học.
- Sàn buồng tủy là giới hạn dưới của buồng tủy, trên sàn buồng tủy có lỗ
vào (miệng) của các ống tủy chân. Các bác sĩ nha khoa đặc biệt quan tâm đến
hình thái sàn buồng tủy, màu sắc và đặc điểm của các lỗ vào ống tủy chân.
Các răng một chân không có sàn buồng tủy. Sàn buồng tủy không bao giờ là
một mặt phẳng, sàn thường cò những vùng gồ ngà và giữa các gồ này có rãnh
nối với nhau [19]. Trong điều trị nội nha, sàn buồng tủy phải được tôn trọng.
- Ống tủy chân: Bắt đầu từ miệng ống tủy ở sàn buồng tủy và kết thúc ở
lỗ cuống răng. Ở sàn buồng tủy, OT tương đối rộng nhưng ngay sau đó thu
hẹp lại làm cho OT có hình phễu, do vậy việc thông hết chiều dài OT là khó
trên lâm sàng. Hình thái miệng ống tủy có cấu trúc đa dạng và phức tạp liên

quan đến hình thái thân và chân răng. Khi cắt ngang qua chân răng có thể thấy
ống tủy có 7 cấu hình chung: hình tròn, hình bầu dục, hình bầu dục dài, pin
bowling, hình quả đậu, ribbon và đồng hồ cát. Hình dạng và vị trí của ống tủy
bị chi phối bởi hình dạng chân răng (ở mặt cắt ngang). Mặt cắt ngang một
chân răng có thể có hình dạng khác nhau ở các vị trí khác nhau. Ví dụ: một
chân răng tại mặt cắt ngang cổ răng có dạng hình đồng hồ cát, hình tròn, elip,
do những chân răng có hình tròn hoặc hình elip. Những chân răng có dạng
ống tủy hình tròn thường có một ống tủy, những chân răng dẹt thường có
nhiều ống tủy.


15

Hình 4.(a)(b) Hình thể ngoài của tủy răng hàm nhỏ thứ nhất hàm dưới.
(c)(d)(e). Hình thể ống tủy ở mặt cắt 1/3 trên, giữa, dưới [20]
Mặc dù hình dạng trong của ống tủy có diện cắt ngang là không cố định,
có bảy cấu hình chung: tròn, hình bầu dục, hình bầu dục dài, pin bowling, đậu
thận, ribbon, và đồng hồ cát. Hình dạng khác nhau có thể xuất hiện ở bất kỳ
cấp độ trong một ống tủy duy nhất. Ví dụ, một ống tủy có thể là đồng hồ cát
hình trong mặt cắt ngang ở một phần ba trên, thon lại một hình bầu dục ở một
phần ba giữa, và pha trộn hình bầu dục trong một phần ba chóp răng. Số
lượng và hình dạng của các ống tủy ở mỗi cấp độ sẽ thay đổi cho phù
hợp. Điều quan trọng cần lưu ý là: một ống tủy ít khi tròn ở mọi cấp độ.
Qua các nghiên cứu bằng phương pháp khử khoáng mô cứng, từ năm
1925, Hess và Zurcher đã cho thấy sự phức tạp của hình thái hệ thống ống tủy
(HTOT) [8]. Ngày nay, với sự ra đời của kính hiển vi điện tử và nhiều kỹ
thuật hiện đại khác thì sự phức tạp của HTOT càng được nhìn nhận rõ hơn.
Các đọan cong bất thường của ống tủy chính, sự phân nhánh của chúng thành
các ống tủy phụ hay các ống tủy bên, sự đa dạng của các ống tủy trên các lát
cắt ngang, sự liên thông tiếp nối giữa các ống tủy trong cùng một chân răng



16
hoặc các chân răng liền nhau… là các yếu tố gây khó khăn trong việc chuẩn
bị ống tủy và hàn kín HTOT [21], [22].
- Ống tủy phụ và ống tủy bên: cấu trúc của HTOT có thể mô tả được tỉ
mỉ, chính xác hơn, nhất là đối với các OT bên và OT phụ khi được nhìn dưới
kính hiển vi điện tử. Các OT phụ và bên được hình thành ngay từ giai đoạn
hình thành và phát triển chân răng, nên ở những người trẻ (dưới 35 tuổi) các
OT bên, OT phụ rộng và rõ nét hơn, nhưng ở độ tuổi trung niên những OT
này bắt đầu thu nhỏ lại và ở những người già thì những OT này thường bị ngà
lấp gần như kín, đặc biệt khi có kèm theo bệnh viêm quanh răng. Quan niệm
này đã tạo nên một số thay đổi trong chuẩn bị và hàn kín OT.
- Lỗ cuống răng: Nhiều nghiên cứu cho thấy: một chân răng, thậm chí
một OT cũng có thể có nhiều lỗ cuống răng. Các lỗ cuống răng này có thể gặp
ở bất kỳ vị trí nào của chân răng [19]

(a)

(b)

Hình 5. (a). Vị trí có đường kính nhỏ nhất tại điểm thắt chóp, đường ranh
giới xê măng - ngà .Chóp răng giải phẫu, chóp răng Xquang, lỗ cuống
răng của ống tủy phụ. (b): Đo chóp răng sinh lý và chóp răng giải phẫu
(chụp qua kính hiển vi độ phóng đại 40 lần [19].


17
* Phân loại hệ thống ống tủy [2]
Theo Weine, HTOT của một chân răng được phân thành bốn loại sau:

- Loại I: có một OT từ BT đến lỗ chóp chân răng
- Loại II: có hai OT tách ra từ BT, tạo thành hai OT riêng biệt nhưng gặp
nhau ở gần chóp để tạo thành một OT và ra khỏi chân răng bằng một lỗ chóp.
- Loại III: có hai OT tách ra từ BT tạo thành hai OT riêng biệt và đi khỏi
chân răng bằng hai lỗ chóp riêng biệt.
- Loại IV: một OT từ BT nhưng sau đó chia thành hai OT riêng và đi ra
khỏi chân răng bằng hai lỗ chóp riêng biệt.

Hình 6. Phân loại ống tủy theo Weine [2]
* Một số qui luật sàn buồng tủy
Theo Paul Krasner của hiệp hội Chuyên gia Nội nha Mỹ có hai loại hình
thái giải phẫu của sàn buồng tủy đã quan sát được: mối tương quan của buồng
tủy với thân răng lâm sàng và các mối tương quan của miệng ống tủy trên sàn
buồng tủy [23].
Sàn của buồng tủy luôn tối hơn so với thành ngà xung quanh. Sự khác biệt
về màu sắc này tạo ra đường giao phân biệt tại điểm các thành và sàn gặp nhau ở
buồng tủy. Khi việc mở tủy được hoàn tất, toàn bộ sàn buồng tủy sẽ bộc lộ được
(hình 6). Nếu có sự khác biệt về sự sáng tối ở sàn buồng tủy ta cần hiểu ngay
rằng cấu trúc phía trên cần được loại bỏ thêm.


18

Hình 7. Mở tủy của răng hàm lớn thứ nhất hàm trên hoàn tất [24]
Quy luật đối xứng: Ngoại trừ các răng hàm hàm trên, miệng ống tủy luôn
đối xứng qua một đường vẽ theo một hướng ở gần - xa thông qua các trung
tâm sàn buồng tủy (hình 7).

Hình 8. Thể hiện quy luật đối xứng [24]
Sự thay đổi màu: Màu sắc của sàn buồng tủy là luôn luôn đậm hơn thành

buồng tủy (hình 8).

Hình 9. Màu sắc của thành và sàn buồng tuỷ [24]


19
Quy luật vị trí của miệng ống tủy 1: miệng ống tủy luôn nằm ở đường
nối giữa thành và sàn buồng tủy (hình 9)

Hình 10. Miệng OT luôn nằm ở đường giao nhau
của các thành và sàn BT [24]
Quy luật vị trí của miệng ống tủy 2: Các miệng ống tủy được đặt ở đỉnh
của góc có cạnh là thành và sàn buồng tủy (hình 10).

Hình 11. Các miệng OT được đặt ở đỉnh của góc có
cạnh là thành và sàn BT [24]
Sau khi sàn và thành buồng tủy được nhìn thấy rõ ràng, tất cả các qui
luật của vị trí miệng ống tủy và qui luật đối xứng có thể được sử dụng để xác
định chính xác vị trí và số lượng các miệng ống tủy.
Quy luật đối xứng của vị trí miệng ống tủy được sử dụng để xác định vị
trí, số lượng của miệng ống tủy. Bởi vì tất cả miệng ống tủy chỉ có thể nằm dọc
theo ngã ba sàn buồng tủy, tại đó có thể quan sát thấy chấm đen, lõm hoặc chấm


20
trắng, những dấu hiệu này phải lưu ý để tránh làm thủng khi mở và tìm ống tủy.
Đồng thời có thể giúp tập trung vào các vị trí chính xác của miệng ống tủy.
Các đỉnh hoặc góc của hình học, hình dạng của các sàn buồng tủy sẽ xác định
cụ thể vị trí của miệng ống tủy.
Nếu các ống tủy bị vôi hóa, vị trí này sẽ chỉ ra một cách chắc chắn nơi

mà các bác sĩ lâm sàng nên bắt đầu thâm nhập với mũi khoan của mình để
loại bỏ ngà từ phần trên của ống tủy (hình11).

Hình 12. Hình ảnh sàn BT bị vôi hóa và được làm sạch [24]
Quy luật đối xứng của vị trí miệng ống tủy kết hợp với qui luật thay đổi
màu sắc sàn và thành buồng tủy thường là chỉ điểm quan trọng cho vị trí của
miệng các ống tủy, đặc biệt đối với ống tủy ngoài gần thứ hai của răng hàm
lớn thứ nhất hàm trên.
2. Giải phẫu các răng hàm lớn
2.1. Răng hàm lớn thứ nhất hàm trên (RHL1HT)
Răng hàm lớn thứ nhất (răng cối lớn 1) mọc lúc khoảng 6 tuổi, nên còn
được gọi là răng 6 tuổi (đây là răng vĩnh viễn đầu tiên trong miệng).


21
Răng hàm lớn thứ nhất hàm trên (RHLT1HT) có ba chân: hai chân ngoài
(gần ngoài và xa ngoài) và một chân trong. Nó là răng lớn nhất có vai trò lớn
trong việc nhai nghiền thức ăn và được xem như neo chặn của hàm răng trên.
Răng hàm lớn thứ nhất hàm trên còn có điểm đặc biệt nữa là sự hiện diện
của ống tủy thứ 4, ống gần trong. Có rất nhiều nghiên cứu về giải phẫu tủy
răng HLT1HT cho thấy có sự hiện diện của ống tủy thứ 4 (đặc biệt là nghiên
cứu thực nghiệm). Nhưng trên lâm sàng ít khi định vị rõ ràng được miệng ống
tủy thứ 4 cũng như việc đo chiều dài một ống tủy riêng biệt với lỗ tủy và lỗ
chóp riêng biệt [25].
- Thời gian mọc trung bình: 6-7 tuổi.
- Thời gian đóng cuống: 9-10 tuổi.
- Chiều dài trung bình: 20,8mm.
- Chiều dài của các chân răng được trình bày ở bảng dưới đây:
Bảng 1.1. Chiều dài chân răng của răng hàm lớn thứ nhất hàm trên
Tên chân răng


Ngoài gần

Ngoài xa

Trong

Trung bình

19,9mm

19,4mm

20,6mm

Dài nhất

21,6mm

21,2mm

22,5mm

Ngắn nhất

18,2mm

17,6mm

17,6mm


Lệch

3,4mm

3,6mm

3,8mm

Mức độ


22
2.1.1. Hình thể ngoài [4],[25]
- Nhìn từ mặt nhai

Hình 13. Mặt nhai của Răng hàm lớn thứ nhất hàm trên [19]
Đường viền xung quanh thường có hình thoi. Mặt nhai có hai thành
phần được phân biệt rõ là Trigon và Talon. Trigon ở phía gần, gồm ba múi là:
ngoài gần, gần trong và xa ngoài. Talon ở phía xa, gồm có một múi duy nhất
là múi xa trong và gờ bên xa
Ba múi lớn xếp thành một mẫu tiêu biểu cho răng hàm lớn hàm trên.
Chúng liên kết với nhau thành một hình tam giác mà các gờ múi ngoài là đáy,
gờ bên gần là cạnh của tam giác, gờ chéo băng qua mặt nhai là cạnh xa của
tam giác. Nếu vẽ các đường thẳng nối các đỉnh múi ngoài gần, xa ngoài và
gần trong ta sẽ được đa số là tam giác cân, đỉnh là đỉnh múi gần trong. Phần
này chính là Trigon. Phần còn lại là của bản nhai là gờ bên xa và múi trong
xa, phần Talon, đây là phần kéo ra phía xa và phía trong từ phần Trigon.
Mặt nhai được tạo bởi bốn múi nói trên. Kích thước các múi giảm dần
theo thứ tự là gần trong, ngoài gần, xa ngoài, xa trong.

Múi gần trong và ngoài gần khá lớn, chiếm khoảng hai phần ba diện tích
mặt nhai. Mào gờ bên gần và gờ bên xa là những nhô, giới hạn hai phía gần
và xa của mặt nhai. Gờ bên gần dài và lồi hơn. Gờ chéo được tạo bởi 2 gờ tam
giác gần trong và xa ngoài có thể được xem như một gờ bên phía xa của phần
tam giác. Đây là những mốc giải phẫu quan trọng được ứng dụng khi mở tủy
để điều trị nội nha cho răng hàm lớn thứ nhất hàm trên.


23
- Nhìn từ phía ngoài: Đường viền phía nhai được tạo bởi hai múi là
ngoài gần và xa ngoài, chúng được phân cách nhau bởi rãnh ngoài, rãnh này
kết thúc ở khoảng giữa chiều cao thân răng.
Nhìn từ phía ngoài, có thể thấy được ba chân răng là các chân ngoài gần,
xa ngoài và chân trong. Hai chân ngoài chia ra từ một thân chung, đoạn thân
chung chiếm khoảng một phần ba khoảng cách từ cổ răng đến chóp. Có một
rãnh dọc nông chạy từ chẽ chân răng đến điểm giữa đường cổ răng. Hai chân
ngoài như hai gọng kìm, hướng vào nhau ở phần ba chóp. Chóp răng ngoài
gần thường thẳng hàng với đỉnh múi ngoài gần. Phần phía chóp của chân
trong được thấy từ phía ngoài qua khe giữa hai chân ngoài.

Hình 14. Răng hàm lớn thứ 1 hàm trên nhìn từ phía má [26]
- Nhìn từ phía trong: Đường viền phía mặt nhai được tạo bởi hai múi,
kích thước của chúng không bằng nhau. Múi gần trong lớn, lồi nhiều, tương
đối tròn, chiếm ba phần năm kích thước gần xa thân răng. Múi xa trong thấp,
nhỏ tròn. Hai múi trong cách nhau bởi rãnh trong, rãnh này kết thúc ở khoảng
giữa chiều cao thân răng. Chân trong thường to và dài nhất.

Hình 15. Răng hàm lớn thứ 1 hàm trên nhìn từ phía lưỡi [26]



24
- Nhìn từ phía gần: Kích thước ngoài trong lớn tối đa ở vùng cổ của thân
răng. Đường viền ngoài và đường viền trong hội tụ về phía mặt nhai. Kích thước
tối thiểu của thân răng là khoảng cách hai đỉnh múi ngoài gần và gần trong. Như
vậy thân răng có dạng hình thang mà đáy lớn ở phía cổ răng. Chân răng ngoài
gần rộng theo chiều ngoài trong nhưng lại thu hẹp theo chiều gần xa.
Nhìn từ phía gần, có thể thấy được chân ngoài gần và chân trong. Chân
ngoài gần rộng không thu hẹp như khi nhìn từ phía ngoài. Trái lại, chân trong
thấy hẹp hơn so với nhìn từ phía trong và hơi giống một trái chuối, nghiêng
trong ở phần gần cổ răng rồi nghiêng ngoài ở phần chóp. Đặc điểm quan trọng
của RHL1HT là có chiều ngoài trong lớn tối đa từ chân răng trong đến chân
ngoài gần lớn hơn cả kích thước ngoài trong tối đa của thân răng

Hình 16. Răng hàm lớn thứ 1 hàm trên nhìn từ phía gần [26]
- Nhìn từ phía xa: Toàn bộ đường viền ngoài và chóp chân răng gần
ngoài đã tạo thành viền cho chân răng xa ngoài. Chân xa ngoài ngắn và hẹp
hơn, chạy thẳng theo chiều dọc, ít khi ra khỏi giới hạn của đường viền ngoài
thân răng.


25

Hình 17. Răng hàm lớn thứ 1 hàm trên nhìn từ phía xa [26]
2.1.2. Hình thể trong
Hình thể trong bao gồm buồng tủy và hệ thống ống tủy.
* Buồng tủy
Trên thiết đồ gần xa: buồng tủy có hai sừng, sừng gần ngoài và sừng xa
ngoài. Buồng tủy rất nhỏ so với toàn bộ thân răng. Hai ống tủy khá hẹp.
Trên thiết đồ ngoài trong: buồng tủy rộng hơn, sừng tủy thường nhô cao.
Thường có 3 chân với 3 ống tủy, chân trong có kích thước lớn nhất, sau đó

đến chân gần ngoài, nhỏ nhất là chân xa ngoài. Ống tủy gần ngoài ngắn hơn
ống trong,ốngtủy gần ngoài thường rất rộng và phần lớn các trường hợp có
ống tủy phụ.
Trên thiết đồ ngang qua buồng tủy ở cổ răng: hình thể buồng tủy ở vùng
cổ răng có dạng hình bình hành với góc gần ngoài nhọn, góc xa ngoài tù, hai
góc trong gần vuông. Miệng ống tủy thường có ở vị trí sàn tủy như sau: ống
tủy trong ở chính giữa phía trong, OT xa ngoài ở gần góc tù của buồng tủy,
OT gần ngoài lệch về phía gần và ra ngoài so với OT xa ngoài trong góc nhọn
của buồng tủy. Nếu có OT thứ hai của chân răng gần ngoài, miệng OT sẽ nằm
phía trong của Ot gần ngoài thứ nhất, lệch về phía gần so với đường nối
miệng OT trong và OT gần ngoài 1. Các miệng OT tạo nên một hình tam giác,
đường nối miệng OT trong và OT gần ngoài là đáy của tam giác, Ot xa ngoài
nằm gần OT trong là đỉnh của tam giác. Ống tủy xa ngoài ngắn và hướng về


×