Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Thực trạng chăm sóc sản khoa các sản phụ nhiễm HIVAIDS đẻ tại 3 bệnh viện tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.04 KB, 69 trang )

1

1

ĐẶT VẤN ĐÊ

HIV/AIDS tuy mới xuất hiện từ đầu những năm 1980 nhưng đã nhanh
chóng lan rộng, trở thành đại dịch nguy hiểm, là mối đe dọa lớn nhất đến sức
khỏe con người và ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển kinh tế, xã hội của
mỗi quốc gia trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO),
trên toàn thế giới có khoảng hơn 33 triệu người nhiễm HIV,với khoảng 16
triệu phụ nữ và 2,5 triệu trẻ em dưới 15 tuổi [1].
Ở Việt Nam, kể từ trường hợp nhiễm HIV được phát hiện đầu tiên tại
Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1990, tính đến tháng 6 năm 2015, số người
nhiễm HIV còn sống được báo cáo là 227.144 người, trong đó có 71.115
người đã chuyển sang giai đoạn AIDS, và đã có 74.442 người tử vong do
HIV/AIDS. Đại dịch HIV đã có mặt ở 100% số tỉnh, thành phố, 99,8% số
quận, huyện và hơn 80,3% số xã, phường, thị trấn [2]. Tỷ lệ phụ nữ lây nhiễm
ngày càng cao do đó việc lây nhiễm sang trẻ em cũng tăng lên theo. Tỷ lệ phụ
nữ lây nhiễm HIV đã tăng từ 13,7% năm 2000 lên 31,5% năm 2012[3]. Tỷ lệ
phụ nữ mang thai nhiễm HIV/AIDS tăng 0,03% năm 1995 lên 0,37% vào
năm 2008. Các em bé sinh ra từ những bà mẹ nhiễm HIV đứng trước nguy cơ
lây nhiễm từ 2% ở các nước phát triển cho đến 30% ở các nước đang phát
triển[4],[5]. Tuy nhiên, nguy cơ lây truyền mẹ con có thể được giảm đến dưới
2% nếu người phụ nữ được áp dụng những can thiệp thích hợp[6].
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng để tìm ra các
phác đồ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con theo hướng nâng cao hiệu
quả. Các phác đồ dựphòng lây truyền mẹ con (PLTMC) được WHO khuyến
cáo cũng thay đổi nhiều lần theo hướng ngày càng hiệu quả hơn. Tại Việt
Nam, chương trình PLTMC được bắt đầu từ năm 1999 và cho đến nay các



2

2

phác đồ PLTMC đã liên tục được cập nhật theo khuyến cáo của WHO, đặc biệt
trong những năm gần đây. Các can thiệp toàn diện cho phụ nữ mang thai nhiễm
HIV ở nước ta ngày càng được mở rộng theo hướng can thiệp ngày càng sớm
hơn đã góp phần đáng kể cải thiện các dịch vụ PLTMC[7],[8].
Theo thống kê của Cục phòng chống HIV/AIDS - Bộ Y tế, Thái Nguyên
là tỉnh đứng thứ 3 toàn quốc về tỷ lệ nhiễm HIV với khoảng 610 người trên
100.000 dân. Đứng thứ 4 trong số các tỉnh, thành phố có số người nhiễm HIV
còn sống cao nhất cả nước sau Tp Hồ Chí Minh, Hà Nội và Hải Phòng với
khoảng 7000 người nhiễm[3]. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu chính thức
nào đối với các bà mẹ nhiễm HIV/AIDS và lây truyền HIV từ mẹ sang con tại
địa bàn tỉnh. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: “Thực trạng
chăm sóc sản khoa các sản phụ nhiễm HIV/AIDS đẻ tại 3 Bệnh viện tỉnh
Thái Nguyên”với các mục tiêu sau:
1.

Mô tả một số đặc điểm của các sản phụ nhiễm HIV/AIDS đẻ tại 3

2.

Bệnh viện tỉnh Thái Nguyên trong 5 năm (2011-2015).
Nhận xét điều trị dự phòng LTMC ở các sản phụ nhiễm HIV/AIDS
đẻ tại 3 Bệnh viện tỉnh Thái Nguyên trong 5 năm (2011-2015).


3


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về HIV/AIDS
1.1.1. Khái niệm
HIV (Human Immunodeficiency Virus) thuộc họ Retrovirus nhóm
Lentivirus (nhóm virus nhân lên chậm) là virus gây suy giảm miễn dịch ở
người, có giai đoạn tiềm tàng không triệu chứng kéo dài.
AIDS (Acquired Immuno Deficiency Syndrome) - Hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải là biểu hiện nặng ở giai đoạn cuối của quá trình nhiễm
HIV[9],[10],[11].
1.1.2. Lịch sử phát hiện HIV/AIDS:
Tháng 6 năm 1981, tại trung tâm kiểm soát bệnh tật ở Atlanta (Mỹ)
bác sỹ Michael Gottlieb đã phát hiện những trường hợp đầu tiên bị hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, dựa trên cơ sở phát hiện 5 trường hợp
nam giới đồng tính ở Los Angeles bị viêm phổi do Pneumocystic carinii.
Vài tháng sau, ở California Friednam Alvin thấy một số người đồng tính
luyến ái bị ung thư kiểu sarcoma Kaposi và đều bị chết. Tất cả những
người này đều được chẩn đoán ban đầu là GRID (Gay Related
Immumodeficiency Disease - bệnh suy giảm miễn dịch liên quan đến người
đồng tính luyến ái) rồi đổi tên thành AIDS - Hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải[11],[12],[13].
Tháng 5 năm 1983, nhóm nhà khoa học Pháp ở viện Pasteur - Paris
(L.Montagnier, I.Barre) và năm 1984, nhóm tác giả của Viện Ung thư
Quốc gia Bethes, Hoa Kỳ (M.Popovic, P.C.Gallo) đã phân lập được virus
từ bệnh nhân AIDS. Những virus này có bộ gen cơ bản giống nhau và là
tác nhân gây AIDS[10],[14],[15].
Năm 1986, Hội nghị quốc tế về phân loại virus đã thống nhất đặt tên



4

4

loại Virus gây bệnh AIDS là HIV (Human Immunodeficiency Virus)[11],
[16].
1.1.3. Đặc điểm virus học
1.1.3.1. Cấu trúc: gồm 3 lớp:

Hình 1.1. Cấu trúc virus HIV


Lớp vỏ ngoài: là màng lipid kép, có kháng nguyên chéo với màng sinh chất
tế bào và các gai nhú gắn lên, đó là các phân tử glycoprotein có trọng
lượng phân tử 160 kilodalton. Gồm 2 phần: gp 120 - Glycoprotein màng
ngoài, kháng nguyên dễ biến đổi, gây khó khăn cho phản ứng bảo vệ cơ

thể; gp 41 - Glycoprotein xuyên màng[14].
• Lớp vỏ trong (vỏ capsid) gồm 2 lớp protein:
+ Lớp ngoài: hình cầu, có cấu tạo bởi protein có trọng lượng phân tử 17


5

5

kilodalton với HIV-1 và p18 với HIV-2.
+ Lớp trong: hình trụ không đều, cấu tạo bởi các phân tử protein p24, là kháng



nguyên quan trọng để chẩn đoán HIV/AIDS sớm và muộn.
Lõi của HIV: là Genom và các Enzym, gồm 2 phân tử ARN đơn, là bộ gen di
truyền của HIV (Genom), gồm 3 gen cấu trúc và 6 gen điều hòa.
+ Gen cấu trúc:
- Gag: kháng nguyên đặc hiệu nhóm, hoặc protein capsid.
- Pol (Polymearase):
 RT (Reverse transcriptase): là enzym sao mã ngược. RT được
ứng dụng trong phương pháp PCR, giúp chẩn đoán HIV ở


giai đoạn cửa sổ hoặc bệnh nhi ≤ 18 tháng tuổi.
Protease (p12): tách polyprotein đã được mã hóa thành các

phân tử hoạt động.
 Endonuclease: tích hợp ADN của virus vào tế bào chủ.
- Env: các glycoprotein của gai nhú.
+ Gen điều hòa (Tat, Rev, Nef, Vif, Vpu, Vpr) giúp quá trình tăng tạo
virus[11],[14].
1.1.3.2. Phân loại:
Có 2 type: HIV-1 và HIV-2 đều gây nên AIDS qua đường lây hoàn toàn
giống nhau và bệnh cảnh lâm sàng không phân biệt được[17].
1.1.3.3. Sức đề kháng.
HIV dễ dàng bị bất hoạt bởi: các yếu tố hóa chất và nhiệt độ.
+ Trong dung dịch bị phá hủy ở nhiệt độ 56ºC trong 20 phút.
+ Ở dạng đông khô bị bất hoạt.
+ Với các hóa chất khử khuẩn, virus nhanh chóng bị bất hoạt. Nước Javen bất hoạt
HIV trong 20 phút. Cồn 70º diệt HIV trong 3 -5 phút. Các hóa chất có Chlor tiêu
diệt HIV trong 15 - 20 phút. PH kiềm, toan diệt HIV nhanh.

+ Tia cực tím và tia gamma ít có tác dụng tiêu diệt HIV[17].
1.1.3.4. HIV và hệ thống miễn dịch cơ thể
Sự né tránh hệ thống miễn dịch: HIV lẩn trốn bằng cách:
+ HIV đột biến trong quá trình sao chép, gây biến dị kháng nguyên, thường xảy



6

6

ra ở lớp vỏ ngoài.
+ Đại thực bào, Monocyte nhiễm HIV di chuyển tới các vị trí tránh được đáp
ứng miễn dịch.
+ HIV có thể tồn tại ở dạng tiền virus
+ HIV đánh vào các tế bào miễn dịch, đặc biệt Lympho T có kháng nguyên bề

-

mặt CD4(+)(TCD4) và đại thực bào[17].
Các rối loạn của đáp ứng miễn dịch:
Miễn dịch tế bào:
Lympho T giảm, đặc biệt là TCD4, tỷ lệ TCD4/TCD8 bị đảo ngược.
Giảm chức năng của tế bào miễn dịch, giảm đáp ứng quá mẫn muộn, giảm

-

khả năng phân bào và khả năng tiêu diệt của Lympho T gây độc[17].
Miễn dịch dịch thể.
Tăng gamma globulin máu, chủ yếu là IgM và IgG.

Giảm đáp ứng kháng thể với kháng nguyên lần đầu xâm nhập vào cơ thể.
Tăng phức hợp miễn dịch, tăng các tự kháng thể và một số protein trong huyết


-

thanh[15],[18].
Cơ chế gây rối loạn miễn dịch.
Giảm bộc lộ một số thụ thể bề mặt có vai trò trong hình thành đáp ứng miễn

-

dịch.
Giảm số lượng TCD4 và chức năng nhiều loại tế bào miễn dịch: Lympho B,

-

monocyte, đại thực bào… dẫn tới suy giảm miễn dịch.
Gây tự miễn dịch do kháng nguyên chéo giữa màng tế bào và lớp vỏ ngoài



của virus.
1.1.4. Dịch tễ học
1.1.4.1. Nguồn bệnh: là người nhiễm HIV, bệnh nhân AIDS[19],[20].
1.1.4.2. Đối tượng cảm thụ:
Mọi người đều có thể bị bệnh, không phân biệt tuổi, giới, điều kiện tự
nhiên-xã hội. Nhưng tỷ lệ mắc khác nhau ở từng khu vực, tùy theo lối sống,
hành vi, phong tục, tập quán và tệ nạn xã hội ... Nhóm nguy cơ cao là những
người nghiện ma túy tiêm chích, gái mại dâm, người có quan hệ tình dục bừa

bãi, bệnh nhân mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, người truyền máu


7

7

nhiều lần không được sàng lọc kỹ [20].
Trong những năm gần đây, HIV/AIDS có xu hướng lan rộng ra cả nhóm
người nguy cơ thấp như thanh niên tân binh, phụ nữ có thai [21].
1.1.4.3. Đường lây truyền:
HIV có thể tìm thấy ở mọi mô và dịch cơ thể, tập trung nhiều nhất trong
máu và dịch tiết của cơ quan sinh dục.
Xác định được 3 phương thức lây truyền : đường tình dục, đường máu và
mẹ truyền cho con.


Lây truyền qua quan hệ tình dục:
Là con đường làm lây nhiễm HIV nhiều nhất trên thế giới (chiếm 80%)[9],
có thể qua quan hệ tình dục nam và nữ, hoặc đồng giới (nam-nam, nữ-nữ). Nguy
cơ lây nhiễm tăng lên khi quan hệ tình dục với nhiều người, có viêm nhiễm ở bộ
phận sinh dục, có vết sây sát, có chảy máu khi giao hợp[20].



Lây truyền theo đường máu:
Do truyền máu hoặc các sản phẩm của máu, ghép tạng không kiểm
soát được HIV hoặc lấy qua các dụng cụ xuyên chích qua da không được
vô trùng[20].




Lây truyền từ mẹ sang con:
Có thể xảy ra trong thời kỳ mang thai qua bánh rau, qua máu và dịch âm
đạo trong khi chuyển dạ đẻ hoặc qua sữa mẹ khi cho con bú[19],[20].
1.1.5. Chẩn đoán nhiễm HIV/AIDS[22]
Theo quy định của Bộ Y tế Việt Nam, chẩn đoán nhiễm HIV ở người lớn
dựa trên cơ sở tìm kháng thể kháng virus HIV. Một người được chẩn đoán
nhiễm HIV khi mẫu huyết thanh của họ phát hiện kháng thể dương tính cả ba


8

8

lần xét nghiệm bằng ba loại sinh phẩm khác nhau với nguyên lý phản ứng và
phương pháp chuẩn bị kháng nguyên khác nhau.
Ở người nhiễm HIV không có biểu hiện lâm sàng, chẩn đoán chủ yếu
dựa vào xét nghiệm. Vì vậy trước một người có hành vi nguy cơ cao nên tư
vấn làm xét nghiệm chẩn đoán.Người nhiễm HIV không có biểu hiện trên lâm
sàng, chẩn đoán chủ yếu dựa vào xét nghiệm.
1.1.5.1. Các phương pháp xét nghiệm:


Xét nghiệm gián tiếp:
Là phương pháp phát hiện kháng thể kháng HIV để xác định tình
trạng nhiễm HIV. Kháng thể kháng HIV có thể được phát hiện trong máu
bệnh nhân từ 1 -3 tháng sau khi nhiễm virus.
Tùy thuộc vào mục đích xét nghiệm các nhóm đối tượng, điều kiện kinh
tế của từng quốc gia, các xét nghiệm nhiễm HIV được tiến hành theo những

phương cách khác nhau:
Phương cách I (thường sử dụng trong an toàn truyền máu): Mẫu máu
được coi là dương tính với phương cách 1 khi cho phản ứng dương tính với
một trong các thử nghiệm như ELISA hay các thử nghiệm nhanh khác.
Phương cách II (thường sử dụng trong giám sát dịch tễ): mẫu máu được
coi là dương tính với phương cách II khi có kết quả dương tính với cả hai lần
thử nghiệm bằng hai loại sinh phẩm với nguyên lý hoặc cách chuẩn bị kháng
nguyên khác nhau.
Phương cách III (thường sử dụng trong chẩn đoán nhiễm virut HIV ở
người lớn và trẻ em trên 18 tháng tuổi): mẫu máu đựơc coi là dương tính khi
có kết quả dương tính với cả ba lần xét nghiệm bằng ba lọai sinh phẩm với
nguyên lý hoặc cách chuẩn bị kháng nguyên khác nhau.


9

9



Xét nghiệm trực tiếp: phát hiện HIV[4],[11]
Phương pháp phát hiện trực tiếp tác nhân gây bệnh (hay còn gọi chung là
xét nghiệm virus học): kháng nguyên virus, các axit nucleic, hoặc phân lập virus.
Phương pháp xét nghiệm trực tiếp được dùng để phát hiện nhiễm HIV ở
trẻ dưới 18 tháng tuổi, thường dùng là xét nghiệm PCR (Polymerase Chain

-

Reaction).
Xét nghiệm phản ứng chuỗi Polymerase(PCR): phát hiện DNA tiền virus

nằm trong tế bào nhiễm hoặc RNA trong huyết tương và tính được nồng độ
virus. Có độ nhạy cảm cao, có giá trị quan trọng trong chẩn đoán, đánh giá
hiệu quả điều trị, theo dõi tiến triển của bệnh. Nhưng cần tuân thủ quá trình
xét nghiệm nghiêm ngặt, đề phòng lây nhiễm chéo.
-Phương pháp nuôi cấy phân lập virus rất đặc hiệu nhưng giá thành
cao và chỉ được thực hiện tại các phòng xét nghiệm có đủ trang bị kỹ thuật
cần thiết.
1.1.5.2. Khẳng định nhiễm HIV:



Người lớn hoặc trẻ em trên 18 tháng tuổi: được khẳng định là nhiễm HIV khi
kết quả xét nghiệm huyết thanh HIV dương tính cả 3 lần xét nghiệm với 3 loại
sinh phẩm với nguyên lí và chuẩn bị kháng nguyên khác nhau(phương cách III:



xét nghiệm ELISA, Serodia, và test nhanh)[9],[10],[23],[24].
Trẻ em dưới 18 tháng tuổi sinh ra từ mẹ nhiễm HIV: chỉ khẳng định HIV
dương tính nếu được làm xét nghiệm tìm p24, PCR.
Xét nghiệm PCR có thể xác định trẻ nhiễm HIV ngay sau sinh là 50%,
sau 1 tháng là 75% và sau 6 tháng là 100%. Theo khuyến cáo hiện nay để xác
định tình trạng nhiễm HIV nên làm xét nghiệm tại thời điểm 1 tháng, 4 - 6
tháng và 18 tháng tuổi[25],[26].
Ở Việt nam hiện nay phổ biến là xét nghiệm phát hiện kháng thể. Các xét
nghiệm tìm HIV chỉ có ở các trung tâm xét nghiệm hiện đại.


10


10

1.1.5.3. Chẩn đoán bệnh nhân AIDS:
-

Có bất kỳ bệnh lý nào thuộc giai đoạn lâm sàng 4(chẩn đoán lâm sàng hoặc

-

xác định) và/ hoặc
Số lượng CD4 <200 TB/ mm3 hoặc tỷ lệ < 15% (đối với trẻ < 6 tuổi).
Trẻ em: Nhiễm HIV ở trẻ em được chia là 3 giai đoạn. Trẻ em có các
bệnh lí lâm sàng giai đoạn III được coi là AIDS. Trường hợp không làm được
xét nghiệm virus, trẻ dưới 18 tháng tuổi sinh ra từ mẹ HIV dương tính được
chẩn đoán là AIDS khi có xét nghiệm huyết thanh dương tính và có các bệnh
chỉ điểm AIDS[9].
1.2. HIV/AIDS và thai nghén.
1.2.1. Phương thức lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV có khả năng lây truyền HIV cho con
mình. Đây là đường lây truyền dọc mẹ - con hay lây truyền chu sinh nghĩa là
từ mẹ sang thai hay từ mẹ sang sơ sinh. Nếu không được dự phòng, tỷ lệ lây
truyền HIV từ mẹ sang con có thể lên tới 25% - 40%. Hiện tượng lây truyền
dọc HIV từ mẹ sang con có thể xảy ra qua 3 giai đoạn[13],[27],[28].
1.2.1.1. Giai đoạn thai nằm trong tử cung(5 - 10% số trẻ của bà mẹ nhiễm HIV)
Phụ nữ bị nhiễm HIV có thể truyền HIV cho con mình qua bánh rau khi
thai còn nằm trong tử cung, gọi là lây truyền dọc mẹ - con. Lây truyền theo
kiểu này có thể ở 20% - 30% số trẻ sinh ra bị nhiễm từ bà mẹ bị nhiễm HIV.
Tỷ lệ lây truyền theo cách này ở châu Phi cao hơn ở châu Âu. Sự lan truyền
có thể xảy ra sớm, kéo dài trong suốt thời gian mang thai. Người ta đã tìm
thấy HIV trong gan, thận, não của những bào thai 13 tuần tuổi. Người ta thấy

tỷ lệ lây truyền cao khi thai trên 18 tuần. Cơ chế lây truyền dọc HIV không do
một cơ chế đơn thuần nào mà phối hợp nhiều cơ chế như do sự di chuyển của
nhiều virus tự do hoặc virus kết hợp với tế bào hoặc do nhiễm virus bánh rau.
Rất nhiều đường lây truyền được mô tả, song những yếu tố liên quan đến


11

11

đường lây truyền khá phức tạp và chưa rõ ràng. Có thể giải thích sự lây truyền
qua bánh rau của HIV xảy ra trong một đợt nhiễm virus máu của mẹ hoặc qua
-

trung gian của các tế bào mẹ bị nhiễm virus[13].
Virus có thể qua thai dưới dạng tự do hoặc bị thực bào bởi các đại thực bào

-

của bánh rau trong những trường hợp đặc biệt.
Virus có thể qua thai do nhiễm khuẩn đặc biệt của bánh rau, xảy ra trong 3

-

tháng đầu hay 3 tháng giữa của thời kì thai nghén.
Virus thường qua rau muộn hơn ở nửa sau của thời kì thai nghén do bề dày

-

của lớp hội bào mỏng đi.

Tỷ lệ lây truyền qua bánh rau tăng lên nếu:
Tuổi của mẹ tăng lên.
Bị sơ nhiễm HIV trong khi có thai, khi đó nồng độ HIV trong máu rất cao.
Kháng nguyên p.24 trong máu mẹ dương tính.
Người mẹ bị nhiễm HIV giai đoạn muộn, đã có triệu chứng lâm sàng của
AIDS.
Nhưng dù sao cấu trúc của bánh rau, hệ thống miễn dịch dịch thể và tế
bào của bánh rau rất phát triển tạo ra một hàng rào bảo vệ có hiệu quả chống
lây nhiễm virus cho thai. Vì thế có gần đến 80% số trẻ sinh ra từ bà mẹ bị
nhiễm HIV mà không bị nhiễm HIV[13].
1.2.1.2. Giai đoạn thai đi qua đường sinh dục của người mẹ lúc chuyển
dạ(15% số trẻ của bà mẹ bị nhiễm HIV).
Rất nhiều người cho rằng sự lây truyền HIV thường xảy ra muộn, quanh
thời kì chuyển dạ vì đứa trẻ bị lây khi nó đi qua đường sinh dục hay do sự trao
đổi máu mẹ - con xảy ra trong khi chuyển dạ. Đứa trẻ bị lây nhiễm do tiếp
xúc với chất dịch âm đạo của người mẹ, nhất là khi ối đã vỡ. Người ta đã
phân lập được HIV trong chất nhầy CTC. Cơn co tử cung có thể đẩy máu mẹ
mang theo HIV vào tuần hoàn thai nhi. Các thương tổn ở bánh rau và gai rau
trong lúc chuyển dạ cũng tạo điều kiện cho HIV đi vào thai. Đồng thời thai có
thể nuốt HIV có sẵn trong máu mẹ, trong dịch âm đạo. Nguy cơ lây truyền
tăng lên trong trường hợp đẻ khó, chuyển dạ kéo dài, ối vỡ lâu,phần mềm của


12

12

mẹ bị dập nát, thai bị xây xước, sang chấn…liên quan giữa tỷ lệ lây truyền là
17,6%, trong khi đó tỷ lệ này trong mổ lấy thai là 11,7%[13].
1.2.1.3. Giai đoạn cho con bú (5 - 15% số trẻ bị nhiễm).

Người ta thường thấy HIV trong sữa mẹ, thậm chí thấy có HIV với số
lượng đáng kể trong sữa non. HIV có nhiều trong sữa ở thời kì đầu sau đẻ, sau
đó giảm dần. Ở châu Phi tỷ lệ trẻ bị nhiễm HIV qua sữa mẹ chiếm 16% 24%. Tỷ lệ lây truyền tăng cao nếu người mẹ bị nhiễm HIV ở giai đoạn muộn
hay bị sơ nhiễm trong thời kì cho con bú[13].

1.2.2. Những yếu tố nguy cơ liên quan đến lây truyền HIV từ mẹ sang con.
1.2.2.1. Yếu tố HIV.
-

Nồng độ HIV - RNA huyết thanh máu mẹ có liên quan tỷ lệ thuận với tỷ lệ
lây truyền cho con ở cả những thai phụ được điều trị ARV hay không được

-

điều trị dự phòng[13].
Lượng HIV trong huyết thanh và HIV ở dịch âm đạo: Nhìn chung có mối
tương quan tỷ lệ thuận giữa tải lượng HIV huyết thanh và HIV dịch âm đạo.
Tuy nhiên có những ngoại lệ, không tương đồng về lượng HIV và có thể giải
thích cho một vài trường hợp lượng HIV trong máu thai phụ thấp đến mức

-

không phát hiện được nhưng vẫn lây truyền HIV sang cho con[13].
Kiểu gen của HIV có liên quan đến tỷ lệ lây truyền trong các giai đoạn khác

-

nhau của thai kì và chuyển dạ.
Số lượng tế bào CD4 thấp hoặc tỷ lệ CD4/CD8 giảm thấp có liên quan đến
tăng nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con.

1.2.2.2. Yếu tố sản khoa, lâm sàng của thai phụ:

-

Giai đoạn lâm sàng của thai phụ càng tiến triển thì tỷ lệ lây truyền cho con

-

càng cao.
Nhiễm các bệnh khác đặc biệt là các bệnh lây truyền qua đường tình dục.


13

13

-

Thiếu hụt Vitamin A có liên quan đến sự tăng HIV trong các dịch của
đường sinh sản và huyết thanh. Tuy nhiên, bổ sung vitamin A không làm

-

giảm tỷ lệ này[13].
Sử dụng ma túy, hút thuốc lá, tình dục không an toàn với nhiều bạn tình.
Tuổi thai: trẻ sơ sinh non tháng có nguy cơ lây nhiễm cao hơn trẻ đủ tháng.
Thời gian vỡ ối: vỡ ối càng lâu thì tỷ lệ lây nhiễm càng tăng.
Viêm màng ối làm tăng nguy cơ lây truyền.
Các can thiệp khác: cắt nới tầng sinh môn, forceps đều làm tăng nguy cơ lây


-

truyền cho con.
Riêng hai yếu tố mổ lấy thai và sử dụng ARV có thể làm giảm tỷ lệ lây truyền
HIV từ mẹ sang con.
1.2.2.3. Yếu tố thai nhi và trẻ sơ sinh
Các yếu tố thai nhi và trẻ sơ sinh bao gồm hệ miễn dịch chưa trưởng
thành, đặc biệt ở trẻ non tháng, có thể có vai trò nhất định trong lây truyền
mẹ - con. Trẻ có tổn thương đường tiêu hóa bú mẹ có nguy cơ lây nhiễm cao
hơn. Một số trẻ có thể có kháng thể bảo vệ khỏi bị nhiễm HIV sau sinh, kể
cả qua sữa mẹ.
1.2.2.4. Nuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ có nguy cơ làm tăng tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ
sang con. Tỷ lệ này cao nhất ở trẻ được nuôi bằng thức ăn thay thế có kết hợp
bú mẹ, sau đó mới đến nhóm bú mẹ hoàn toàn. Những phụ nữ nhiễm HIV
chưa có triệu chứng, người bị AIDS có nguy cơ truyền HIV cho con qua sữa
mẹ cao hơn khoảng 14%. Tỷ lệ này tăng khoảng 30% đối với những bà mẹ ở
giai đoạn nhiễm HIV cấp tính. Tuy nhiên, hiện nay mẹ được điều trị, có thể
cho con bú và con được điều trị dự phòng[13],[19].
1.2.3. Chăm sóc trước, trong và sau đẻ một sản phụ bị nhiễm HIV.
1.2.3.1. Điều trị phòng lây truyền mẹ - con[13]


14

14

Mục đích điều trị:
- Ức chế sự nhân lên của virus và duy trì lượng virus trong máu ở mức độ thấp
nhất.

- Phục hồi chức năng miễn dịch, giảm nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng cơ hội.
- Cải thiện chất lượng cuộc sống và tăng khả năng sống sót cho người bệnh.
Nguyên tắc điều trị:
-Điều trị ARV là một phần trong tổng thể các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ
về y tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV /AIDS.
- Điều trị ARV chủ yếu là điều trị ngoại trú và được chỉ định khi người
bệnh có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán (lâm sàng và xét nghiệm).
- Bất cứ phác đồ nào cũng phải có ít nhất 3 loại thuốc.
- Điều trị ARV là điều trị suốt đời, người bệnh phải tuân thủ điều trị tuyệt
đối để đạt hiệu quả và tránh kháng thuốc.
- Người nhiễm HIV điều trị ARV vẫn phải áp dụng các biện pháp tránh
lây nhiễm HIV cho người khác.
- Người nhiễm HIV được điều trị ARV khi tình trạng miễn dịch chưa
phục hồi cần phải tiếp tục điều trị dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội.
Phác đồ điều trị Bộ Y tế ban hành năm 2015:
Điều trị ARV cho phụ nữ mang thai, phụ nữ đang cho con bú.
Chỉ định điều trị ARV cho tất cả phụ nữ mang thai nhiễm HIV và mẹ
nhiễm HIV cho con bú không phụ thuộc giai đoạn lâm sàng và số lượng tế
bào CD4, không phụ thuộc các giai đoạn của thai kỳ. Điều trị ARV trong suốt
thời kỳ mang thai, trong khi chuyển dạ/sinh, sau khi sinh con và tiếp tục điều
trị suốt đời.


15

15

Phác đồ điều trị: TDF + 3TC (hoặc FTC) + EFV
Một số trường hợp đặc biệt:
- Phụ nữ đang điều trị ARV thì mang thai: tiếp tục điều trị ARV. Đánh giá

giai đoạn lâm sàng và miễn dịch ngay khi phát hiện mang thai để đánh giá
hiệu quả của phác đồ đang điều trị.
- Phụ nữ mang thai sàng lọc có HIV dương tính trong quá trình chuyển
dạ -đẻ: điều trị phác đồ nêu trên. Nếu sau đó khẳng định nhiễm HIV: điều trị
ARVsuốt đời. Nếu sau đó khẳng định không nhiễm HIV: dừng thuốc.
- Phụ nữ sau khi sinh con được chẩn đoán nhiễm HIV: nếu không cho
con bú thì áp dụng tiêu chuẩn điều trị như đối với những người nhiễm HIV
khác. Nếu cho con bú, chỉ định điều trị ARV suốt đời[8].
Điều trị dự phòng cho trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV.
NVP là thuốc ARV ưu tiên được sử dụng cho trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV.
Bảng 1.1. Sử dụng NVP cho trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV
Thời điểm mẹ được chẩn đoán nhiễm
HIV và cách nuôi con

Thời gian sử dụng NVP cho
con

Mẹ được chẩn đoán nhiễm HIV trước sinh, chuyển dạ - đẻ
Mẹ được điều trị ARV > 4 tuần

6 tuần từ khi sinh

Mẹ không điều trị hoặc điều trị ARV ≤
4tuần và KHÔNG cho con bú

6 tuần từ khi sinh

Mẹ không điều trị hoặc điều trị ARV ≤
4tuần và CÓ cho con bú


12 tuần từ khi sinh.

Mẹ được chẩn đoán nhiễm HIV ngay sau khi sinh (bao gồm cả sàng lọc
dương tính)
Trong vòng 72 giờ

12 tuần

Trên 72 giờ và bú mẹ

12 tuần

Trên 72 giờ và con không bú mẹ

Không cho trẻ uống NVP


16

16

Lưu ý:
- Nếu mẹ cho con bú nhưng bị gián đoạn điều trị ARV vì bất cứ lý do
nào, điều trị NVP cho con cho đến khi mẹ điều trị lại ARV được 6 tuần.
Trường hợp mẹ không điều trị lại và vẫn tiếp tục cho con bú, con tiếp tục
uống NVP cho đến khi ngừng bú mẹ hoàn toàn được 1 tuần.
- Nếu con được chẩn đoán nhiễm HIV thì dừng NVP và điều trị ngay ARV.
Cần làm xét nghiệm chẩn đoán sớm nhiễm HIV cho trẻ từ 4 - 6 tuần tuổi
để quyết định điều trị ARV hoặc dừng điều trị dự phòng.
Bảng 1.2. Liều NVP dự phòng cho trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV

Tuổi của trẻ
Từ khi sinh tới 6 tuần tuổi
• Cân nặng khi sinh < 2000 g
• Cân nặng khi sinh 2000 - 2499 g
• Cân nặng khi sinh ≥ 2500 g
> 6 tuần tới 6 tháng*
> 6 tháng tới 9 tháng*
> 9 tháng cho đến khi kết thúc cho bú*

Liều lượng NVP uống hàng
ngày
2 mg/kg một lần
10 mg một lần
15 mg một lần
20 mg một lần
30 mg một lần
40 mg một lần

* Chỉ dùng NVP cho con >12 tuần trong trường hợp trẻ bú mẹ nhưng vì lý do
nào đó mẹ không điều trị ARV hoặc điều trị ARV bị gián đoạn.
Trường hợp không có NVP hoặc dị ứng với NVP có thể thay thể bằng AZT.


17

17

Bảng 1.3. Liều AZT dự phòng cho trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV khi không
có NVP hoặc dị ứng với NVP
Trẻ từ 6 tuần tuổi trở xuống


Liều lượng AZT uống hàng ngày

• Cân nặng khi sinh < 2000g

2 mg/kg x 02 lần/ngày

• Cân nặng khi sinh 2000−2499 g

10 mg x 02 lần/ngày

• Cân nặng khi sinh ≥ 2500 g

15 mg x 02 lần/ngày

1.2.3.2. Phòng lây truyền mẹ - con trong giai đoạn chuyển dạ và đẻ.


Tránh một số thủ thuật có thể gây tổn thương đường sinh dục người mẹ

-

hay gây tổn thương cho thai.
Trước và sau mỗi lần thăm khám nên rửa, sát khuẩn âm hộ, âm đạo với các

-

loại dịch sát khuẩn, đóng khố sạch.
Thực hiện nhẹ nhàng các thao tác, tránh gây tổn thương, không cạo lông mu.
Tránh làm vỡ ối, bấm ối sớm. nếu ối vỡ nên rút ngắn thời gian chuyển dạ nếu


-

đủ điều kiện.
Giác hút, forceps, cắt TSM: hạn chế đến mức tối đa việc gây tổn thương cho


-

đường sinh dục của sản phụ, đồng thời tránh xây xước cho trẻ.
Tránh đặt điện cực lên đầu thai nhi[29],[30],[31].
Thái độ xử trí sản khoa:
Theo dõi cho đẻ đường dưới: Tuân thủ sinh lý cuộc chuyển dạ, giữ đầu ối
đến cùng (vỡ ối thêm lên 1 giờ, nguy cơ lây truyền tăng 2%). Chỉ cắt TSM khi

-

cần và đầu lọt thấp.
Chỉ định mổ lấy thai: Mổ lấy thai có thể làm giảm tỷ lệ lây truyền đến 50 70% nhưng chỉ thấy rõ ở nhóm mổ lấy thai khi chưa có chuyển dạ, chưa vỡ
ối. Nhưng mổ lấy thai có những nguy cơ của phẫu thuật như nhiễm trùng,
chảy máu trong và sau mổ,tử vong mẹ. Do đó WHO chưa khuyến cáo mổ lấy
thai rộng rãi mà phải cân nhắc cho từng trường hợp cụ thể và có tư vấn cho thai
phụ. Ở Việt Nam, theo quyết định 4361 của Bộ Y tế, chỉ mổ lấy thai khi có chỉ
định sản khoa[32],[33],[34],[35].
1.2.3.3. Điều trị sau khi sinh.


18

18


-

Sau khi sinh, trẻ sơ sinh được hút sạch dịch ở đường mũi họng với thao tác
nhẹ nhàng tránh gây tổn thương niêm mạc. Lau khô trẻ bằng khăn mềm, dễ
thấm nước. Tốt nhất là nên tắm ngay cho trẻ.
Các biện pháp dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con chỉ có tác
dụng làm giảm tỷ lệ lây truyền chứ không có vai trò ngăn chặn hoàn toàn
sự lây truyền[36],[37].
1.3. Một số nghiên cứu về tình hình LTMC trên Thế giới và ở Việt Nam.
1.3.1. Trên Thế giới.
Theo báo cáo của WHO, mỗi ngày có khoảng 8500 trường hợp nhiễm
HIV mới, trong đó có khoảng 1000 trường hợp là trẻ em, 3400 người trong đó
là phụ nữ. Tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV/AIDS tăng thì số sơ sinh nhiễm HIV cũng
tăng[28]. Đã có rất nhiều phác đồ khác nhau được nghiên cứu để làm giảm tỷ lệ
LTMC. Nhìn chung,xu hướng chuyển từ phác đồ 1 thuốc sang phác đồ 3 thuốc, áp
dụng với thời gian dài ngày hơn và từ tuổi thai ngày càng sớm hơn.
- Từ năm 2006, WHO khuyến cáo phác đồ ưu tiên cho cho PLTMC đối
với những phụ nữ chưa cần điều trị là AZT từ tuần thai thứ 28; AZT + 3TC
cùng với SD- NVP khi chuyển dạ đẻ; AZT+ 3TC một tuần sau đẻ cho mẹ; và
SD- NVP với AZT 7 ngày sau đẻ cho trẻ sơ sinh[33].
Trên cơ sở xem xét nhiều bằng chứng nghiên cứu, WHO đã khuyến cáo
“để tiến tới đạt được mục tiêu loại trừ nhiễm HIV ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, tất
cả những phụ nữ đủ tiêu chuẩn điều trị ARV cho bản thân cần được điều trị
ngay” và “những phụ nữ mang thai chưa cần điều trị ARV cần được dự phòng
ARV một cách hiệu quả để PLTMC”. Hiện nay, WHO cũng khuyến cáo phác
đồ ưu tiên cho PLTMC đối với những phụ nữ chưa cần điều trị là AZT từ tuần
thai thứ 14; AZT+3TC cùng với NVP liều duy nhất khi chuyển dạ đẻ;
AZT+3TC một tuần sau đẻ cho mẹ; và NVP liều duy nhất với AZT trong 4
tuần sau đẻ cho trẻ sơ sinh[36].



19

19

- Tuy nhiên, tỷ lệ lây truyền HIV sang con còn phụ thuộc vào các can
thiệp sản khoa khi sản phụ chuyển dạ đẻ. Nếu tải lượng virus dưới 1000 bản
sao/ml ở những sản phụ không dùng bất cứ ARV nào là 9,8%, tỷ lệ này là 1%
nếu sản phụ được dùng thuốc ARV trong thời kỳ mang thai. Chính vì vậy, một
số nghiên cứu khuyến cáo nếu sản phụ dùng ARV tải lượng virus dưới 1000
bản sao/ml có thể theo dõi đẻ đường dưới, còn nếu sản phụ có tải lượng virus
trên 1000 bản sao/ml thì nên mổ lấy thai[36].
Nghiên cứu của Mandebrot và cộng sự tại Pháp[59]cho thấy nếu được
dùng ARV dự phòng trong thai kỳ và khi chuyển dạ phối hợp với mổ lấy thai
thì tỷ lệ lây nhiễm cho con ít hơn 1%. Mổ lấy thai không dùng thuốc dự phòng
tỷ lệ LTMC là 15,3%, khi kết hợp với điều trị thuốc dự phòng và mổ lấy thai tỷ
lệ LTMC là 4,2% [35].
1.3.2. Tại Việt Nam.
Tháng 3 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ký phê duyệt
Chiến lược Quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và
tầm nhìn 2020. Chiến lược Quốc gia đã xác định PLTMC là một trong chín
chương trình hành động cần chú trọng nhằm đạt được mục tiêu chung đã đề ra
là duy trì tỷ lệ nhiễm HIV ở Việt Nam dưới 0,3% vào năm 2010.
Dựa trên Chiến lược quốc gia, Bộ Y tế đã xây dựng một Chương trình
Hành động quốc gia về PLTMC giai đoạn 2006-2010. Mục tiêu chung của
Chương trình Hành động này là kiểm soát làm giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ
mẹ sang con xuống còn dưới 10% cho đến năm 2010. Chương trình Hành
động cũng đưa ra mục tiêu cụ thể là cung cấp các dịch vụ tư vấn cho 90%, xét
nghiệm HIV tự nguyện cho 60% phụ nữ mang thai cũng như điều trị PLTMC

cho 100% các trường hợp xét nghiệm HIV dương tính[31].
Các phác đồ điều trị dự phòng LTMC đã được cập nhật sửa đổi theo
từng thời kỳ, một phần lớn dựa trên khuyến cáo của các tổ chức quốc tế lớn
như WHO.


20

20

Qua một số nghiên cứu về PLTMC gần đây cho thấy tỷ lệ phụ nữ mang
thai nhiễm HIV tại các bệnh viện phụ sản lớn đã tăng nhanh: từ 0,21% đến
0,55% tại BVPSTW, từ 0,22% đến 0,84% tại Bệnh viện Hùng vương trong 8
năm qua (2000-2008)[34], tuy nhiên tỷ lệ này đang có xu hướng chững lại
trong thời gian gần đây. Lý do là dịch HIV/AIDS vẫn đang âm ỉ phát triển và
tập trung vào những nhóm nguy cơ thấp mà PNMT sẽ là nhóm bị ảnh hưởng
chính, ngoài ra việc mở rộng chương trình sàng lọc HIV miễn phí cho các thai
phụ và nhận thức của người dân về HIV/AIDS ngày càng được nâng cao do
đó ngày càng phát hiện được nhiều thai phụ nhiễm HIV[11],[38].
Bảng 1.4. Tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm HIV đến đẻ tại một số cơ sở sản
khoa qua các năm
(Nguồn: Tiểu ban Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh - Bộ Y tế)
TT
Năm
2000
2002
1 BV Phụ sản Trung ương
0,21
0,54
2 BV Phụ sản Hải Phòng

0,44
3 Khoa sản BVĐK Quảng Ninh
0,25
4 BV Phụ sản Nam Định
0,18
5 BV Phụ sản Thanh Hoá
0,2
6 BV Phụ sản Từ Dũ
0,84
7 BV Phụ sản Hùng Vương
0,22
0,81
Chung
0,18
0,49

2008
0,55
0,51
0,71
0,70

Khi đánh giá chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại
Bệnh viện Hùng Vương năm 2005-2008, tác giả Vũ Thị Nhung cho biết tỷ lệ sản
phụ nhiễm HIV sinh con là 0,81%. Trong những sản phụ nhiễm HIV: 91,5% sản
phụ được sử dụng thuốc PLTMC, tỷ lệ trẻ nhiễm HIVtừ mẹ là 5,15%[41].
Một đánh giá của dự án LIFE-GAP khi tổng kết các trường hợp sản phụ
nhiễm HIV sinh con từ 2004-2009 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Hải
Phòng, Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh và An Giang cho thấy tỷ lệ phát hiện
nhiễm HIV trong chuyển dạ chiếm 57%, 84% sản phụ nhiễm HIV được sử



21

21

dụng thuốc PLTMC, 98% số trẻ phơi nhiễm được sử dụng thuốc ARV[53]
Một số nghiên cứu tại BVPSTW cũng đã cho thấy tỷ lệ phụ nữ được sử
dụng ARV đã tăng lên đáng kể.
Bảng 1.5. Kết quả một số nghiên cứu về tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm HIV
được sử dụng ARV tại BVPSTW
Tác giả

Năm

Tỷ lệ sử dụng ARV

Ngô Thị Thuyên[42]

2000-2004

85%

Nguyễn Liên Phương[45]

2008

90,1%

Đỗ Quan Hà[51]


2010-2011

96,5%

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các hồ sơ bệnh án của các sản phụ được chẩn đoán nhiễm
HIV/AIDS đẻ tại 3 Bệnh viện tuyến tỉnh của Thái Nguyên là Bệnh viện A,
Bệnh viện C và Bệnh viện Gang Théptrong thời gian từ 01/01/2011 đến
31/12/2015.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn.
+ Các sản phụ nhiễm HIV/AIDS đã được khẳng định bằng phương cách III của
Bộ Y Tế, và đẻ tại3 Bệnh viện tuyến tỉnh của Thái Nguyên.
+ Sản phụ nhiễm HIV/AIDS có tuổi thai từ 28 tuần trở lên, thai bình
thường.
+ Trẻ đẻ ra sống.
+ Những hồ sơ bệnh án đầy đủ thông tin cần thu thập dựa theo mẫu bệnh án


22

22

nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
+ Hồ sơ bệnh án không đủ thông tin.
+ Sản phụ nhiễm HIV/AIDS có tuổi thai dưới 28 tuần, thai ≥ 28 tuần bất

thường.
+ Thai chết lưu chuyển dạ đẻ.
+ Các sản phụ nhiễm HIV/AIDS chưa được khẳng định bằng phương cách III
của Bộ Y Tế.


23

23

2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu mô tả hồi cứu, dựa trên các số liệu thu thập được
từ bệnh án nghiên cứu sản phụ nhiễm HIV/AIDS đẻ tại 3 Bệnh viện tuyến tỉnh
của Thái Nguyên, được ghi chép đầy đủ theo mẫu bệnh án thiết kế sẵn.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu.
Chọn mẫu thuận tiện. Trong thời gian từ 01/01/2011 đến 31/12/2015có
109 hồ sơ bệnh án của các sản phụ nhiễm HIV/AIDS đủ tiêu chuẩn đẻ tại3
Bệnh viện tuyến tỉnh của Thái Nguyên được chọn vào trong nghiên cứu.
2.2.3. Thu thập số liệu.
Lấy tất cả bệnh án chuyển dạ đẻ của các sản phụ nhiễm HIV/AIDS trong
5 năm 2011-2015 đủ điều kiện.
Các số liệu thu thập từ hồ sơ bệnh án được ghi chép đầy đủ vào một mẫu
bệnh án nghiên cứu thiết kế sẵn.
2.3. Biến số nghiên cứu.
Mục đích
nghiên cứu

Tên biến


1. Đặc điểm 1.1. Tuổi
chung của
bệnh nhân 1.2.Nghề nghiệp
nghiên cứu
1.3. Trình độ
học vấn
1.4. Địa chỉ

Định nghĩa
Tính theo năm sinh dương
lịch
Cán bộ công nhân viên chức,
làm ruộng, nội trợ, khác
Cấp 1, cấp 2, cấp 3, CĐ-ĐH,
sau ĐH, khác
Thành thị, nông thôn, miền núi

Loại
biến
Liên tục

Danh
mục
Danh
mục
Danh
mục
1.5. Ngày vào Ngày vào viện của bệnh nhân Ngày
viện


Phương
pháp thu
thập
Dựa trên
bệnh án
Dựa trên
bệnh án
Dựa trên
bệnh án
Dựa trên
bệnh án
Dựa trên
bệnh án


24

24

1.6. Ngày ra
viện
1.7. Số lần phá
thai
1.8. Số lần đẻ
đủ tháng
1.9. Số lần đẻ
non tháng
1.10. Số con đã
có


Ngày ra viện của bênh nhân

Ngày

Số lần phá thai của bệnh nhân Liên tục

Dựa trên
bệnh án
Dựa trên
bệnh án
Dạ trên
bệnh án
Dựa trên
bệnh án
Dựa trên
bệnh án

Số lần đã đẻ con đủ tháng của
bệnh nhân
Số lần đã đẻ con non tháng của
bệnh nhân
Số con nhiễm HIV còn sống,
không nhiễm HIV còn sống,
nhiễm HIV đã chết, chết vì
nguyên nhân khác của bệnh
nhân
Tuổi thai khi đẻ của bệnh nhân

Liên tục


Bệnh viện, TTYT; nơi khác;
không QLTN
Trước khi có thai, trong khi
có thai, trong chuyển dạ

Danh
mục
Danh
mục

Dựa trên
bệnh án
Dựa trên
bệnh án
Dựa trên
bệnh án

Trước khi có thai, khi mang
thai, khi chuyển dạ, không
điều trị
Có hay không làm xét
nghiệm tế bào CD4 cho bệnh
nhân
Mổ lấy thai, đẻ thường, đẻ
thủ thuật
Chỉ định mổ lấy thai khi đã
chuyển dạ hay chưa chuyển
dạ
2.5. Lý do mổ Mổ lấy thai vì nhiễm HIV
lấy thai

hay vì lý do khác
2.6. đẻ thường Có hay không cắt TSM khi
có cắt TSM
bệnh nhân đẻ thường

Danh
mục

Dựa trên
bệnh án

1.11. Tuổi thai
1.12. Quản lý
thai tại
1.13. Thời điểm
phát hiện nhiễm
HIV
2. Tình hình 2.1. Thời điểm
điều
trị điều trị ARV
PLTMC
2.2. làm xét
nghiệm tế bào
CD4
2.3. Xử trí sản
khoa
2.4. Mổ lấy thai

Liên tục
Liên tục


Liên tục

Nhị phân Dựa trên
bệnh án
Danh
Dựa trên
mục
bệnh án
Nhị phân Dựa trên
bệnh án
Nhị phân Dựa trên
bệnh án
Nhị phân Dựa trên
bệnh án


25

25

3. Tình trạng 3.1. Tình trạng Trẻ sinh ra sống hay chết
sơ sinh
trẻ sau sinh
3.2. Apgar
Điểm chỉ số apgar của trẻ
sau sinh 1 phút
3.3.
Trọng Trọng lượng của trẻ sau sinh
lượng

3.4. Dị tật sơ Dị tật nếu có của trẻ sau sinh
sinh
3.5. Uống thuốc Có hay không trẻ được uống
PLTMC
thuốc PLTMC ngay sau sinh
3.6. Bú sữa mẹ Có hay không được bú sữa
mẹ ngay sau sinh
3.7. Giới thiệu Có hay không được giới
PKNT sau sinh thiệu đến PKNT sau sinh

Nhị phân Dựa trên
bệnh án
Liên tục Dựa trên
bệnh án
Liên tục Dựa trên
bệnh án
Nhị phân Dựa trên
bệnh án
Nhị phân Dựa trên
bệnh án
Nhị phân Dựa trên
bệnh án
Nhị phân Dựa trên
bệnh án

2.4. Xử lý số liệu.
- Số liệu được mã hóa và xử lí bằng chương trình SPSS 16.0.
- Sử dụng các thuật toán:
+ Tính tỷ lệ%, trung bình.
+ Test χ2 để so sánh sự khác nhau giữa hai tỷ lệ.

+ Test T-student để so sánh sự khác nhau giữa hai giá trị trung bình.
2.5. Đạo đức trong nghiên cứu.
- Đề tài nhằm mục đích phục vụ công tác chẩn đoán, điều trị và dự phòng lây
truyền mẹ con ở các sản phụ nhiễm HIV/AIDS, bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ
em.
-

Các thông tin của đối tượng nghiên cứu được đảm bảo bí mật.

Chương 3
KẾT QUA NGHIÊN CỨU


×